Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Luận văn Thiết kế web

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.27 KB, 36 trang )


1



Luận văn
Thiết kế web

2
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ INTERNET

I. Công nghệ internet
1. Internet và xuất xứ của nó
Internet là một mạng máy tính nối hàng triệu máy tính với nhau trên
phạm vi toàn thế giới. Internet có lịch sử rất ngắn, nó có nguồn gốc từ
một dự án của Bộ Quốc Phòng Mỹ có tên là ARPANET vào năm 1969,
dự án nhằm thực nghiệm xây dựng một mạng nối các trung tâm nghiên
cứu khoa học và quân sự với nhau. Đến năm 1970 đã có thêm hai mạng:
Store-and-forwarrd và ALOHAnet, đến năm 1972 hai mạng này đã được
kết nối với ARPANET. Cũng trong năm 1972 Ray Tomlinson phát minh
ra chương trình thư tín điện tử E-mail. Chương trình này đã nhanh chóng
được ứng dụng rộng rãi để gửi các thông điệp trên mạng phân tán.
Kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET từ University College of
London (Anh) và Royal Radar Establishment (Na Uy) được thực hiện
vào năm 1973. Thành công vang dội của ARPANET đã làm nó nhanh
chóng được phát triển, thu hút hầu hết các trường đại học tại Mỹ. Do đó
tới năm 1983 nó đã được tách thành hai mạng riêng: MILNET tích hợp
với mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network) dành cho các địa


điểm quân sự và ARPANET dành cho các địa điểm phi quân sự.

3
Sau một thời gian hoạt động, do một số lý do kỹ thuật và chính trị,
kế hoạch sử dụng mạng ARPANET không thu được kết quả như mong
muốn.
Vì vậy Hội đồng khoa học quốc gia Mỹ (National Science
Foundation) đã quyết định xây dựng một mạng riêng NSFNET liên kết
các trung tâm tính toán lớn và các trường đại học vào năm 1986. Mạng
này phát triển hết sức nhanh chóng, không ngừng được nâng cấp và mở
rộng liên kết tới hàng loạt các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu và
đào tạo của nhiều nước khác nhau.
Cũng từ đó thuật ngữ Internet ra đời. Dần dần kỹ thuật xây dựng
mạng ARPANET đã được thừa nhận bởi tổ chức NSF, kỹ thuật này được
sử dụng để dựng mạng lớn hơn với mục đích liên kết các trung tâm
nghiên cứu lớn của nước Mỹ. Người ta đã nối các siêu máy tính
(Supercomputer)thuộc các vùng khác nhau bằng đường điện thoại có tốc
độ cao. Tiếp theo là sự mở rộng mạng này đến các trường đại học.
Ngày càng có nhiều người nhận ra lợi ích của hệ thống trên mạng,
người ta dùng để trao đổi thông tin giữa các vùng với khoảng cách ngày
càng xa. Vào những năm 1990 người ta bắt đầu mở rộng hệ thống mạng
sang lĩnh vực thương mại tạo thành nhóm CIX (Commercial Internet
Exchange Association). Có thể nói Internet thật sự hình thành từ đây.
Cho đến thời điểm hiện tại, Internet đã trở thành một phần không
thể tách rời của cuộc sống hiện đạiĐối với một người lao động bình
thường tại một nước phát triển bình thường, Internet đã trở thành một
khái niệm giống như Điện thoại, Tivi. Trong thời gian biểu của một ngày
làm việc đã xuất hiện một khoảng thời gian nhất định để sử dụng
Internet, cũng giống như khoảng thời gian xem Tivi mà thôi.


4
Theo số liệu thống kê, năm 2000 số lượng người sử dụng Internet là
khoảng 150 triệu và dự đoán đến năm 2003 sẽ là 545 triệu người sử dụng
hiệnSố lượng 150 triệu người sử dụng hiện tại được phân bố rất không
đồng đều trên toàn cầuQuá nửa số người sử dụng là ở khu vực Bắc Mỹ
còn lại ở Châu Âu, Châu Á, Nam Mỹ, Châu Phi và khu vực cận ĐôngCụ
thể là: Bắc Mỹ 57%, Châu Âu 21.75%, Nam Mỹ 3%, Châu Phi 0.75% và
khu vực cận Đông 0.5%
Các loại hình dịch vụ được sử dụng nhiều nhất trên Internet là: Giáo
dục, mua bán, giải trí, công việc thường ngày tại công sở, truyền đạt
thông tin, các loại dịch vụ có liên quan đến thông tin cá nhân. Trong đó,
các dịch vụ liên quan đến thông tin cá nhân chiếm nhiều nhất, sau đó là
công việc, giáo dục, giải trí và mua bán.
2. Cách thức truyền thông trên Internet
Trong những năm 60 và 70, nhiều công nghệ mạng máy tính đã ra
đời nhưng mỗi kiểu lại dựa trên các phần cứng riêng biệt. Một trong
những kiểu này được gọi là mạng cục bộ (Local Area Networks - LAN),
nối các máy tính với nhau trong phạm vi hẹp bằng dây dẫn và một thiết
bị được cài đặt trong mỗi máy. Các mạng lớn hơn được gọi là mạng diện
rộng (Wide Area Networks - WAN), nối nhiều máy tính với nhau trong
phạm vi rộng thông qua một hệ thống dây truyền dẫn kiểu như trong các
hệ thống điện thoại.
Mặc dù LAN và WAN đã cho phép chia sẻ thông tin trong các tổ
chức một cách dễ dàng hơn nhưng chúng vẫn bị hạn chế chỉ trong từng
mạng riêng rẽ Mỗi một công nghệ mạng có một cách thức truyền tin
riêng dựa trên thiết kế phần cứng của nó. Hầu hết các LAN và WAN là
không tương thích với nhau.

5
Internet được thiết kế để liên kết các kiểu mạng khác nhau và cho

phép thông tin được lưu thông một cách tự do giữa những người sử dụng
mà không cần biết họ sử dụng loại máy nào và kiểu mạng gì. Để làm
được điều đó cần phải có thêm các máy tính đặc biệt được gọi là các bộ
định tuyến (Router) nối các LAN và các WAN với các kiểu khác nhau
lại với nhau. Các máy tính được nối với nhau như vậy cần phải có chung
một giao thức (Protocol) tức là một tập hợp các luật dùng chung qui định
về cách thức truyền tin.
Với sự phát triển mạng như hiện nay thì có rất nhiều giao thức
chuẩn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển. Các chuẩn giao thức được
sử dụng rộng rãi nhất hiện nay như giao thức TCP/IP, giao thức SNA của
IBM, OSIISDN, X.25 hoặc giao thức LAN to LAN netBIOS. Giao thức
được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trên mạng là TCP/IP. Giao thức này
cho phép dữ liệu được gửi dưới dạng các “gói “ (packet) thông tin nhỏ.
Nó chứa hai thành phần, Internet Protocol (IP) và Transmission Control
Protocol (TCP).
Giao thức TCP/IP đảm bảo sự thông suốt việc trao đổi thông tin
giữa các máy tính. Internet hiện nay đang liên kết hàng ngàn máy tính
thuộc các công ty, cơ quan nhà nước, các trung tâm nghiên cứu khoa
học, trường đại học, không phân biệt khoảng cách địa lý trên toàn thế
giới. Đó là ngân hàng dữ liệu khổng lồ của nhân loại.
Một số mạng máy tính bao gồm một máy tính trung tâm (còn gọi là
máy chủ) và nhiều máy trạm khác nối với nó. Các mạng khác kể cả
Internet có quy mô lớn bao gồm nhiều máy chủ cho phép bất kỳ một
mạng máy tính nào trong mạng đều có thể kết nối với các máy khác để
trao đổi thông tin.

6
Một máy tính khi được kết nối với Internet sẽ là một trong số hàng
chục triệu thành viên của mạng khổng lồ này. Vì vậy Internet là mạng
máy tính lớn nhất thế giới hay nó là mạng của các mạng.

3. Các dịch vụ trên Internet
Internet là công nghệ thông tin liên lạc mới, nó tác động sâu sắc vào
xã hội, vào cuộc sống ở mức độ khá bao quát. Nó đưa chúng ta vào một
thế giới có tầm nhìn rộng lớn và chúng ta có thể làm mọi thứ như: viết
thư, đọc báo, xem bản tin, giải trí, tra cứu và hiện nay các công ty có thể
kinh doanh thông qua Internet, dịch vụ thương mại điện tử hiện nay đang
phát triển khá mạnh mẽ. Dưới đây chỉ là một số dịch vụ trên Internet:
 Thư điện tử (E-mail): Dịch vụ E-mail có thể dùng để trao đổi
thông tin giữa các cá nhân với nhau, các cá nhân với tổ chức và
giữa các tổ chức với nhau. Dịch vụ này còn cho phép tự động
gửi nội dung thông tin đến từng địa chỉ hoặc tự động gửi đến tất
cả các địa chỉ cần gửi theo danh sách địa chỉ cho trước (gọi là
mailing list). Nội dung thông tin gửi đi dùng trong thư điện tử
không chỉ có văn bản (text) mà còn có thể ghép thêm (attack) các
văn bản đã được định dạng, graphic, sound, video. Các dạng
thông tin này có thể hoà trộn, kết hợp với nhau thành một tài liệu
phức tạp. Lợi ích chính dịch vụ thư điện tử là thông tin gửi đi
nhanh và rẻ.
 WWW (World Wide Web): Đây là khái niệm mà người dùng
Internet quan tâm nhiều nhất hiện nay. Web là một công cụ, hay
đúng hơn là một dịch vụ của Internet, Web chứa thông tin bao
gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và thậm chí cả video được kết
hợp với nhau Web cho phép chúng ta chui vào mọi ngõ ngách

7
trên Internet, là những điểm chứa CSDL gọi là Website. Nhờ có
Web nên dù không phải là chuyên gia, mọi người có thể sử dụng
Internet một cách dễ dàng. Phần mềm sử dụng để xem Web gọi
là trình duyệt (Browser). Một trong những trình duyệt thông
thường hiện nay là Navigator của Netcape, tiếp đó là Internet

Explorer của Microsoft.
 Dịch vụ truyền file (FTP - File Transfer Protocol): là dịch vụ
dùng để trao đổi các tệp tin từ máy chủ xuông các máy cá nhân
và ngược lại.
 Gropher: Dịch vụ này hoạt động như viện Menu đủ loại. Thông
tin hệ thống Menu phân cấp giúp người sử dụng từng bước xác
định được những thông tin cần thiết để đi tới vị trí cần đến. Dịch
vụ này có thể sử dụng để tìm kiếm thông tin trên các FTPSite.
 Telnet: Dịch vụ này cho phép truy cập tới Server được xác định
rõ như một TelnetSite tìm kiếm Server. Người tìm có thể thấy
một dịch vụ vô giá khi tìm kiếm các thông tin trong thư viện và
các thông tin lưu trữ. Telnet đặc biệt quan trọng trong việc kết
nối các thông tin từ các máy tính xuống trung tâm.








8


CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH CLIENT/SERVER

1. CÁC KHÁI NIỆM
Thuật ngữ Server được dùng cho những chương trình thi hành như
một dịch vụ trên toàn mạng. Các chương trình Server này chấp nhận tất

cả các yêu cầu hợp lệ đến từ mọi nơi trên mạng, sau đó thi hành dịch vụ
trên Server và trả kết quả về máy yêu cầu.
Một chương trình được coi là Client khi nó gửi các yêu cầu tới máy
có chương trình Server và chờ đợi câu trả lời từ Server. Chương trình
Server và Client nói chuyện với nhau bằng các thông điệp (message)
thông qua một cổng truyền thông liên tác IPC (Interprocess
Communication). Để một chương trình Server và một chương trình
Client có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn
để giao tiếp, chuẩn này được gọi là giao thức (Protocol). Nếu một
chương trình Client nào muốn yêu cầu lấy thông tin từ Server thì nó phải
tuân theo giao thức Server đưa ra.
Một máy tính chứa chương trình Server được coi là một máy chủ
hay máy phục vụ (Server) và máy chứa chương trình Client được coi là
máy khách. Mô hình trên mạng mà các máy chủ và máy khách giao tiếp
với nhau theo một hoặc nhiều dịch vụ được coi là mô hình Client
/Server.
2. MÔ HÌNH CLIENT/SERVER

9
Thực tế mô hình Client/Server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi
cho việc truyền thông lên tiến trình lên các máy tính cá nhân mô hình
này cho phép xây dựng các chương trình Client/Server một cách rễ ràng
và sử dụng chúng để liên tác với nhau đạt hiệu quả hơn Mô hình
Client/Server như sau:




Đây là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế thì một Server có thể
được nối tới nhiều Server khác nhằm làm việc hiệu quả hơn và nhanh

chóng hơnKhi nhận được một yêu cầu từ Client/Server này thì có thể gửi
tiếp yêu cầu vừa nhận được cho một Server khácVí dụ như Database
Server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này được.
Máy Server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạpVí
dụ như một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày khi một máy
Client yêu cầu lấy thông tin về thời gian, nó sẽ phải gửi yêu cầu theo một
một tiêu chuẩn do một số yêu cầu lấy thông tin về thời gian, nó sẽ phải
gửi yêu cầu theo một một tiêu chuẩn do một Server đặt ra, mức yêu cầu
được chấp nhận thì máy Server sẽ trả về một thông tin mà Client yêu
cầuCó rất nhiều dịch vụ trên mạng nhưng nó hoạt động theo nguyên lý là
nhận các yêu cầu từ Client sau đó xử lý và trả lại các yêu cầu cho Client
yêu cầu.
Thông thường chương trình Client/ Server được thi hành trên hai
máy khác nhau cho dù lúc nào Server cũng ở trạng thái sãn sàngchờ
nhận yêu cầu từ Client nhưng trên thực tế một tiến trình liên tục qua lại


Client


Server
Gửi yêu cầu
Trả về trang Web

10
(interaction) giữa Client với Server lại bắt đầu ở phía Client khi mà
Client giữ tín hiệu với Server.
Các chương trình Server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng
ứng dụng của mạng)Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm
việc trên bất cứ một mạng máy tính nào hỗ trợ giao thước truyền thông

chuẩn mà cụ thể ở đây là giao thức TCP/IPVới các giao thức chuẩn này
cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác
nhau của họ lên mạng mà không gặp khó khăn gìVới các chuẩn này thì
các chương trình Server cho một ứng dụng nào đó có thể thi hành trên
một hệ thống chia sẻ thời gian với nhiều chương trình và dịch vụ khác
hoặc nó có thể chạy trên chính một máy tính cá nhân bình thườngCó thể
có nhiều Server cùnh làm một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy
tính hoặc một máy tính.
Với mô hình trên thì mô hình Client/Server chỉ mang đặc điểm của
phần mềm không liên quan đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu
cho một máy Server là cao hơn rất nhiều so với máy Client Lý do là bởi
vì máy Server phải quản lý rất nhiều các yêu cầu từ các Client khác nhau
trên mạng máy tính.
4. ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CLIENT/SERVER
WWW (World Wide Web): Có nhiều người đã nghe đến thuật ngữ
này nhưng lại không hiểu nó là cái gì, thậm chí có người đã sử dụng nó
nhưng cũng không định nghia chính xác được WWW là cái gì ? WWW
là tập hợp các văn bản tài liệu (document) có mối liên kết (Link) với
nhau trên mạng Internet. Bởi vì WWW đang phát triển rất mạnh mẽ và
được quảng bá khắp nơi nên người sử dụng thường nhầm lẫn WWW là
Internet nhưng thực tế nó chỉ là một dịch vụ của Internet.

11
Ngày nay Web là một dich vụ lớn nhất của Internet sử dụng giao
thức truyền văn bản siêu liên kết HTTP (Hypertext Transfer Protocol) để
hiện thị các siêu văn bản (còn gọi là trang Web) và hình ảnh trên một
màn hình đồ hoạ thuật ngữ siêu văn bản được hiểu như việc trình bầy các
văn bản bình thườngcó mối liên kết với nhau. Người sử dụng chỉ việc
bấn chuột vào một phần của văn bản thì một văn bản khác có mối liên
kết đó sẽ hiện lên, có thể thay Web mới này ở một nơi hoàn toàn khác

với trang Web liên kết đến nó. Mỗi một mối liên kết đến một trang siêu
văn bản được gọi là địa chỉ của trang văn bản đó, địa chỉ này có tên là
URL(Uniform Resource Locators) gọi là bộ định danh tài nguyên. Để
tạo ra một trang Web người ta sử dụng một ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ
đánh dấu siêu văn bản HTML (HypertText Makeup Language) vì vậy
người ta còn gọi các trang Web là trang HTML.
Như vậy với dịch vụ này trên mạng, người sử dụng máy tính có thể
truy cập vào mạng để lấy các thông tin khác nhau dựa trên văn bản, hình
ảnh thậm chí cả âm thanh (thông tin đa phương tiện-Multimedia). Giao
diện giữa người và máy ngày càng trở nên thân thiện, nhờ các biểu tượng
và dùng các thiết bị ngoại vi như chuột, bút quang Người dùng mạng
không cần có trình độ cao về tin học, với một chút vốn tiếng Anh đủ để
hiểu những gì máy tính thông báo cũng có thể dùng nó như một công cụ
đắc lực.
Công nghệ Web cho phép xử lý các trang dữ liệu đa phương tiện và
truy nhập trên mạng diện rộng đặc biệt là Internet. Thực chất Web là hội
tụ của Internet. Các phần mềm lớn thi nhau thể hiện bộ duyệt Web như
Mosaic, NetCape, Internet Explorer, WinWeb, Midas. WWW rất tiện lợi
cho người dùng bình thường, không phải vất vả mới hiểu được các thủ
tục của Internet và dễ dàng truy cập vào thông tin trên hàng ngàn máy

12
chủ đặt ở khắp nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và hiệu quả. Có
công nghệ Web thực chất chúng ta đã bước vào một thập kỷ mà mọi
thông tin có thể có ngay trên bàn làm việc của mình.
Như vậy dịch vụ WWW trên mạng có một ứng dụng rất to lớn trong
thời đại thông tin như hiện nay.
 Web đã thay đổi cách biểu diễn thông thường bằng văn bản toàn
kiểu chữ nhàm chán sang kiểu thông tin sinh động có hình ảnh
âm thanh. Với một bộ duyệt có trang bị tiện ích đồ hoạ ta dễ dàng

xử lý thông tin đa phương tiện khác.
 Cho phép tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng, phổ biến
các tài liệu khoa học và trao đổi thông tin trên mạng.
 Dịch vụ kinh doanh đầu tư trên mạng qua Web. Với sự phát triển
vượt bậc của khả năng truyền thông qua mạng và các công nghệ
Web tiên tiến, việc ta có thể ung dung ngồi nhà mà du ngoạn từ
cửa hàng này sang hàng khác trong không gian ảo không còn là
cảnh phim viễn tưởng mà đã trở thành hiện thực. Ngày nay hầu
như bất kỳ thứ hàng hoá nào cũng có thể đặt mua qua Internet.

5. MÔ HÌNH WEB CLIENT/SERVER
Mô hình Client/Server ứng dụng vào trang Web được gọi là mô
hình Web Client/ServerGiao thức chuẩn được sử dụng để giao tiếp giữa
Web Server và Web Client là HTTP (HyperText Transfer Protocol).
Web Client (Web Browser): Các trình duyệt có vai trò như là Client
trong mô hình Client/Server, khi cần xem một trang Web cụ thể nào thì

13
trình duyệt Web sẽ gửi yêu cầu lên cho Web Server để lấy nội dung
trang Web đó.
Web Server: Khi nhận được yêu cầu từ một Client/Server, Web
Server sẽ trả về nội dung file cho trình duyệt Web Server cho phép
chuyển giao dữ liệu bao gồm văn bản, đồ hoạ và thậm chí cả âm thanh,
video tới người sử dụng. Người sử dụng chỉ cần trình duyệt xét Web để
liên kết các máy chủ qua mạng IP nội bộ yêu cầu của người sử dụng
được đáp ứng bằng cách nhấn chuột vào các chủ đề hoặc minh hoạ mẫu
theo khuôn dạng HTML. Những trang dữ liệu theo yêu cầu sẽ được gọi
xuống từ máy chủ nào đó theo giao thức HTTP rồi hiển thị trên máy cá
nhân.
6. HOẠT ĐỘNG

Tất cả các gói tin nhận và trả lời giữa Web Server và Client đều
tuân theo giao thức chuẩn HTTP. Mô hình hoạt động như sau:
 Ban đầu trình duyệt trên máy Client có một văn bản HTML và
hiển thị lên màn hình với đầy đủ các mối liên kết.
 Khi người sử dụng chọn một mối liên kết nào đó trong văn bản
trên thì trình duyệt sẽ sử dụng giao thức HTTP gửi một yêu cầu
lên mạng cho Web Server để truy cập tới một trang Web mới hay
muốn được phục vụ một dịch vụ nào đó được chỉ ra bởi mối liên
kết đó.
 Sau khi nhận được thông tin từ trình duyệt nó có thể tự xử lý
thông tin hoặc gửi cho các bộ phận khác có khả năng xử lý
(Database Server, CGI. . . ) rồi chờ kết quả để gửi về cho trình
duyệt Client.

14
 Trình duyệt nhận và định dạng dữ liệu theo chuẩn của trang Web
để hiển thị lên màn hình.
 Quá trình cứ tiếp diễn như vậy được gọi là duyệt Web trên mạng.



CHƯƠNG 3
LẬP TRÌNH TRÊN WWW - NGÔN NGỮ HTML
(HYPERTEXT MAKEUP LANGUAGE)

1. GIỚI THIỆU NGÔN NGỮ HTML
HTML là ngôn ngữ chuẩn để tạo lập các tài liệu cho WWW. HTML
được sử dụng trong các chương trình duyệt Web, Ví dụ như MS Internet
Explorer, Nescape Navigator. Một tài liệu HTML là một tệp văn bản
chứa các phần tử mà các chương trình duyệt sẽ sử dụng để hiện các văn

bản, các đối tượng Multimedia, và các siêu liên kết. Người sử dụng có
thể dùng chuột để chọn các văn bản được format như một siêu liên kết
trong các tài liệu này. Sau khi liên kết này được chọn, tài liệu mà nó trỏ
tới sẽ được nạp vào máy và hiện lên màn hình.
Một phần tử là một đơn vị cơ sở của HTML. Nó bao gồm một thẻ
khởi đầu (start-tag), một thẻ kết thúc (end-tag), và các ký tự dữ liệu
được đặt trong các thẻ này. Một thẻ bắt đầu bằng một dấu nhỏ hơn (<) và
kết thúc bằng một dấu lớn hơn (>). Thẻ kết thúc phải có thêm một dấu sổ
chéo (/) ngay trước tên thẻ. Có một số thẻ phẩi luôn luôn kết thúc bằng

15
một thẻ phù hợp, còn một số khác lại cho phép bỏ qua thẻ kết thúc nếu
kết quả là rõ ràng và không có sự mập mờ nào cả.
HTML không mô tả trang tài liệu theo như một số ngôn ngữ máy
tính khác. Có những ngôn ngữ mô tả từng phần tử đồ hoạ và vị trí của nó
trên trang tài liệu, bao gồm font chữ, kích cỡ Ngược lại HTML lại
không đưa ra bất cứ mô tả nào về font, hình ảnh đồ hoạ và chỗ để đặt
chúng. HTML chỉ “gán thẻ” cho nội dung tập tin với những thuộc tính
nào đó mà sau đó chúng được xác định bởi chương trình duyệt để xem
tập tin này. Điều này giống như người đánh dấu bằng tay một số đoạn
trên văn bản tài liệu để chỉ cho người thư kí biết những việc cần thiết
như: "chỗ này in đậm", "chỗ này in nghiêng"
Ví dụ: các thẻ về kích thước chữ
<h1> </h1>
<h2> </h2>
các thẻ về kiểu chữ
<b> </b>
<p> </p>.
HTML gán thẻ cho kiểu chữ, chèn file ảnh đồ hoạ, âm thanh, video
vào văn bản tạo ra mối liên kết và hình thức gọi là siêu văn bản

(Hypertext). Siêu văn bản là đặc tính quan trọng nhất của HTML. Điều
này có nghiã là một văn bản hay đồ hoạ bất kỳ chỗ nào cũng có thể liên
kết với một tài liệu khác.
2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HTML
HTML được thiết kế ra để dùng cho Web : trong phần lớn các
chương trình xử lý văn bản khá rắc rối trong một số tiểu tiết -ví dụ như

16
chọn font - HTML, được thiết kế để dùng trên mọi kiểu máy tính. Nó
được thiết kế vừa để dễ vận chuyển trên internet, vừa thích hợp với các
loại máy tính.
HTML là một chuẩn mở:ngoài các thẻ trong bộ chuẩn, HTML có
thể được mở rộng bằng nhiều cách như : Mở rộng thêm các thẻ HTML,
sử dụng Javascript, VBScript và các ngôn ngữ lập trình khác. . .
HTML dễ đọc, dễ hiểu, có chứa các liên kết và hỗ trợ Multimedia.
HTML là ngôn ngữ thông dịch : đây được coi là nhược điểm của
ngôn ngữ bởi vì nó sẽ làm giảm tốc độ thực hiện các ứng dụng khác trên
Web đồng thời nó khó đảm bảo tính an toàn, bảo mật.
3. PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ MỘT TRANG WEB
Khi nói đến xây dựng một trang Web cũng đồng nghĩa với việc xây
dựng một trang chủ. Theo quan niệm chung, trang chủ là một trang Web
chứa liên kết đến một hay nhiều trang khác và thường là trang cung cấp
thông tin tổng quát nhất cho người xem. Vì vậy việc thiết kế trang Web
không chỉ là thiết kế một trang HTML đơn lẻ, mà còn là thiết kế các mối
liên kết tới các tài liệu trong HTML khác ( chưa kể đến việc phải xây
dựng nhiều trang Web liên kết với nhau)
Để xây dựng trang Web với các kết nối trước tiên chúng ta nên xác
định xem thiết kế nội dung gì, cho ai xem và môi trường thể hiện Web.
Thông thường có các bước sau:
• Xác định chủ đề

• Xác định nội dung
• Thiết kế sơ đồ hoạt động (Flow diagram)
• Thiết kế sơ đồ giao diện với người xem của trang chủ.

17
• Thiết kế và xây dựng chi tiết
Chi tiết các bước:
 Xác định chủ đề: Xác định chủ đề trang Web là bước đầu tiên
giúp cho việc định hướng cho các thao tác thiết kế và xây dựng
sau này không đi chệch mục tiêu. Chủ đề của trang Web tuy quan
trọng song cũng dễ xác định bởi vì nó hoàn toàn dựa vào mục
đích thiết kế trang Web đó.
 Xác định nội dung: Xác định nội dung trang Web là bước quan
trọng nhất. Nó cho phép ta hình dung được công việc sẽ phải làm
tiếp theo và xây dựng quy mô trang chủ, qua đó quy định khuôn
khổ công tác thiết kế giao diện và xây dựng trang HTML. Khi
xác định nội dung cần nhận rõ những điểm chính yếu phải giới
thiệu trên trang Web. Những thông tin sẽ giới thiệu phải phân
loại theo hai tiêu chí: tính kế thừa và mức độ quan trọng. Việc
xây dựng nội dung cũng phải được định trước phong cách khác
nhau: trang nghiêm hay hài hước cứng rắn hay mềm mại.
 Thiết kế sơ đồ hoạt động: Sơ đồ hoạt động là mô hình sắp xếp
các nội dung (được xác định ở bước trên) trong bước này ta sẽ
sắp xếp các thông tin cần giới thiệu theo thứ tự ưu tiên như đã
xác định. Công việc sắp xếp bao gồm thứ tự Trên - Dưới, Trước -
Sau, thông tin nào cần được nêu rõ trong một trang Web thành
một phần riêng, thông tin nào có thể mô tả ngay trên trang chủ.
 + Thiết kế giao diện với người xem: Sơ đồ giao diện với người
xemlà sơ đồ khái quát của những gì mà người đến thăm trang chủ
của chúng ta sẽ thấy. Giao diện với người xem được thiết kế theo

sơ đồ này. Yêu cầu của giao diện là nêu bật được chủ đề chính,

18
bố trí các liên kết sao cho hợp lý, phân bố mạng thông tin, đồ hoạ
sao cho cân đối.
 Thiết kế và xây dựng chi tiết : công tác thiết kế và xây dựng chi
tiết là phần việc đồ sộ nhất khi xây dựng trang Web. Nó cũng là
phần việc đưa ra kết quả cuối cùng, vì vậy có thể nói đây là công
tác quan trọng nhất. Trong công tác thiết kế xây dựng chi tiết,
việc lựa chọn các hình ảnh(để minh hoạ, để làm liên kết)là quan
trọng. Đây chính là cái sẽ gây ấn tượng mạnh nhất đến người
xem. Vì vậy thiết kế và lựa chọn hình ảnh cực kỳ quan trọng
4. LẬP TRÌNH TRANG WEB ĐỘNG
Khi duyệt các trang Web trên máy, chúng ta thấy rằng các trang
Web làm việc một cách thực sự sinh động, có thể trao đổi thông tin, dịch
vụ mua hàng với các form nhập dữ liệu và nhận dữ liệu trở về sau khi
bấm nút Submit, chúng ta có thể bấm vào từng phần trong một bức tranh
với các liên kết khác nhau, các con số hiển thị các lần truy cập vào từng
trang Web và đặc biệt hơn còn có dịch vụ để truy cập dữ liệu, tìm kiếm
thông tin theo một tiêu chuẩn nào đó. . . Để làm được điều đó người ta
xây dựng các CSDL trên Web Server để lấy thông tin đưa tới từ trình
duyệt, sau đó xử lý và trả lại kết quả cho trình duyệt. Tuy nhiên do bản
thân Web Server lại không có khả năng làm việc với CSDL vì vậy phải
có một chương trình thực thi được khả năng xử lý thông tin và làm việc
được với Web Server. Chương trình này đóng vai trò như một cổng giao
tiếp (gateway) giữa Web Server và trình duyệt
Đặc điểm nổi bật của chương trình này là tính đơn giản, bất cứ một
người sử dụng nào cũng có thể tạo ra một chương trình giao tiếp đơn
giản mà không cần phải có nhiều kinh nghiệm trong lập trình và khả


19
năng thiết kế. Một chương trình giao tiếp được gọi là kịch bản(Script),
chỉ khi nào cần một trang Web động thực sự với các tính năng hoàn hảo
thì chúng ta mới phải nắm vững các kỹ thuật lập trình này. Mô hình hoạt
động và vai trò của chương trình giao tiếp (gateway) như sau:








Ngày nay các chương trình giao tiếp đóng một vai trò rất lớn trong
Web Server, các chương trình giao tiếp chạy chung trên một Web Server
có thể giao tiếp được với nhau để tăng khả năng hoạt động của chúng.
Với mô hình này, Web Server có thể gọi một chương trình giao tiếp
trong khi dữ liệu của người sử dụng cũng được đưa trực tiếp cho chương
trình, sau khi xử lý xong Web Server sẽ gửi kết quả xử lý của chương
trình cho trình duyệt. Chương trình giao tiếp thật đơn giản ở chỗ chỉ có
một vài kiểu vào ra đơn giản và một số luật cụ thể cộng với các kỹ thuật
đặc trưng của mô hình.
Khi trình duyệt yêu cầu một trang Web sử dụng chương trình giao
tiếp trên Web Server, Web Server truyền thông tin vừa nhận được từ gói
tin HTTP yêu cầu của trình duyệt cho chương trình giao tiếp xử lý.
Chương trình giao tiếp sau khi xử lý thông tin được yêu cầu nó sẽ trả lại
Kết quả của
chương trình

Máy Khách



chương trình
ứng dụng
gateway


Máy Chủ
submit form

gọi chương trình
gateway
trang k
ế
t qu


HTML

20
kết quả cho Web Server, Server sẽ định khuôn dạng gói tin theo chuẩn
HTTP và truyền trực tiếp cho trình duyệt Web mà không phải thông qua
Web Server, cách này làm tốc độ tải trang Web sẽ nhanh hơn.
Trước khi gửi dữ liệu cho Web Server, có thể trình duyệt cũng tiền
xử lý dữ liệu trước khi gửi dữ liệu nhằm giảm bớt gánh nặng cho Server.
Những ngôn ngữ có khả năng chạy trên trình duyệt gọi là front - end
(VBScript, JavaScript ) Các ngôn ngữ do Web Server dùng để xử lý dữ
liệu gọi là
Back - end (Perl, ASP, HS )
















21









CHƯƠNG 4
CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ CÁCH TRUY XUẤT CƠ SỞ DỮ LIỆU

1. KHÁI NIỆM
Cơ sở dữ liệu là một lĩnh vực rất quan trọng của công nghệ thông
tin mà nếu thiếu nó nhiều vấn đề đặt ra sẽ khó giải quyết được. Cơ sở dữ

liệu được định nghĩa là kho thông tin về một chủ đề, được tổ chức hợp lý
để dễ dàng quản lý và truy tìm. Bất kỳ kho thông tin nào đáp ứng được
yêu cầu này đều có thể coi là một cơ sở dữ liệu.
2. QUẢN TRỊ CƠ SỞ DỮ LIỆU LÀ GÌ ?
Chương trình quản trị cơ sở dữ liệu là một chương trình ứng dụng
trên máy tính các công cụ để truy tìm, sửa chữa, xoá và chèn thêm dữ
liệu. Các chương trình này cũng có thể dùng để tạo lập một cơ sở dữ liệu
và tạo ra các báo cáo, thống kê. Các chương trình quản trị cơ sở dữ liệu

22
liên quan khá thông dụng hiện nay tại Việt Nam là Foxpro, Access cho
ứng dụng nhỏ, DBL, MSSQL và Oracle cho ứng dụng vừa và lớn.
Quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ là một cách quản lý cơ sở dữ liệu
trong đó dữ liệu được lưu trữ trong các bảng dữ liệu hai chiều gồm các
cột và các hàng, có thể liên quan với nhau nếu các bảng đó có một cột
hoặc một trường chung nhau.
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu là một quá trình xử lý xoay quanh các vấn
đề sau đây:
+ Lưu trữ dữ liệu
+ Truy nhập dữ liệu
+ Bảo đảm tính toàn vẹn của dữ liệu
Ba vấn đề chính ở trên có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc lẫn
nhau và chúng được liệt kê theo thứ tự thực hiện mỗi ứng dụng.
Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ (Relationship Database
Management System - RDMS) được xây dựng làm đơn giản hoá quá trình
lưu và đọc dữ liệuRDMS cung cấp khả năng giao tiếp tốt với dữ liệu và
giúp người lập trình tự do trong lĩnh vực quản lý truy cập cơ sở dữ
liệuSau đây là các bước xây dựng một cơ sở dữ liệu theo mô hình cơ sở
dữ liệu quan hệ:
+ Tổ chức dữ liệu theo nhóm logic(table)

+ Xác định các mối quan hệ giữa các table
+ Tạo tập tin cơ sở dữ liệu và định nghĩa cấu trúc của các table
trong cơ sở dữ liệu.
+ Lưu dữ liệu

23
Hai bước đầu là hai bước thiết kế cơ sở dữ liệu và đây là hai bước
cực kỳ quan trọng. Nếu được thiết kế tốt, các khía cạnh khác sẽ được
giải quyết dễ dàng hơn; ngược lại việc khai thác cơ sở dữ liệu sẽ không
hiệu quả và chương trình sẽ có những lỗi rất khó phát hiện.
Các bước chính khi tiến hành thiết kế một cơ sở dữ liệu:
 Xác định dữ liệu cần trong ứng dụng
 Xác định nguồn gốc dữ liệu
 Tổ chức dữ liệu thành các nhóm logic
 Tiêu chuẩn hoá dữ liệu và các mối quan hệ giữa chúng
 Xác định cách sử dụng các bảng
3. CHUẨN ODBC (OPEN DATABASE CONNECTIVITY)
Trong mỗi hệ thống thông tin cách lưu trữ dữ liệu rất riêng biệt,
thay đổi từ các file đơn giản đến cơ sở dữ liệu có quan hệ và cấu trúcYêu
cầu đặt ra là phải tích hợp các hệ thống lưu trữ đó trong một môi trường
mới. Nhưng tích hợp như thế nào và phương thức truy nhập như thế nào?
Microsoft đã giải quyết vấn đề đó bằng chuẩn ODBC (Open
Database Connectivity). Phát triển ODBC, Microsoft muốn cung cấp
một giao diện lập trình của các ứng dụng (Application Programming
Interface - API) duy nhất có thể sử dụng để truy nhập dữ liệu trên nhiều
hệ quản lý cơ sở dữ liệu khác nhauODBC có hai ưu điểm tận dụng được
là:
 ODBC cung cấp một giao diện duy nhất để truy cập đến nhiều cơ
sở dữ liệu khác nhau, nhờ đó giảm bớt thời gian nghiên cứu cơ sở
dữ liệu mới cho ác nhà lập trình và phát triển


24
 ODBC cho phép phát triển ứng dụng Client độc lập với Server
4. CẤU TRÚC CỦA ODBC
Cấu trúc của ODBC gồm có bốn thành phần chính sau:














 Application (ứng dụng): là giao diện người sử dụnglàm việc với
cơ sở dữ liệu. Chúng sử dụng API với ODBC để xây dựng mối
liên kết đến cơ sở dữ liệu và ứng dụng các câu lệnh SQL để điều
khiển dữ liệu.
 Driver Manager(trình quản lý điều khiển): là trung gian giữa ứng
dụng và trình điều khiển xác định được cần đến để truy cập từng
Application
Driver
Driver
Data source


25
loại cơ sở dữ liệu. Chúng ta hiểu rằng ứng dụng không đòi hỏi
một mối liên kết đến trình điều khiển, thay vì đó nó đòi hỏi truy
cập đến một thứ hợp lý hơn được gọi là
Data Source. Trình điều khiển kết nối nó với một trình điều khiển
vật lý và cơ sở dữ liệu.
 Driver(trình điều khiển): Trình điều khiển thực sự bổ sung
ODBC API cho một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu đặc biệt. Nó
xây dựng mối liên hệ đến Server, chịu sự điều khiển của các
query SQL và trả về tập kết quả hay thông báo lỗi cho ứng dụng.
 Data Source( Nguồn dữ liệu ): Nguồn dữ liệu là thành ngữ được
Microsoft sử dụng để mô tả sự liên kết của hệ quản trị cơ sở dữ
liệu. Hệ điều hành từ xa và mạng được yêu cầu để truy nhập cơ
sở dữ liệu riêng nào đó.
5. CẤP ĐỘ TƯƠNG THÍCH
Chuẩn ODBC không cung cấp một chuẩn duy nhất cho các trình
điều khiển, nó phân các trình điều khiển tương thích thành hai loại:
+ Loại hỗ trợ cho ODBC API
+ Loại hỗ trợ cho SQL
CHƯƠNG 5
ASP VÀ VIỆC XÂY DỰNG CÁC ỨNG DỤNG TRÊN WEB

1. KHÁI NIỆM ASP (ACTIVE SERVER PAGE)
ASP là môi trường kịch bản trên máy chủ (Server - Side Scripting
Enviroment

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×