Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Điều khoản chuyển tiếp theo quy định của bộ luật dân sự 2015 (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (38.76 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM THÚY

ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN TIẾP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN TIẾP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số chuyên ngành: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Văn Đại
Học viên: Nguyễn Thị Kim Thúy
Lớp: Cao học luật, Phú Yên Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp
và nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Đỗ Văn Đại. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một
số thơng tin từ các nguồn sách, tạp chí, tài liệu… được liệt kê trong danh mục
tài liệu tham khảo.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kim Thúy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết dầy đủ

AL

Án lệ

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự


CHXHCN

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa

GDDS

Giao dịch dân sự

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HĐXX

Hội đồng xét xử

LBHVBQPPL

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

NQ

Nghị quyết

TAND

Tòa án nhân dân


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. ÁP DỤNG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 CHO GIAO DỊCH
DÂN SỰ ĐƢỢC XÁC LẬP TRƢỚC NGÀY 01/01/2017 ............................ 7
1.1. Giao dịch dân sự chƣa thực hiện, đang thực hiện ............................. 7
1.1.1. Yêu cầu giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang được thực hiện .... 7
1.1.2. Bất cập về việc xác định giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang
thực hiện .................................................................................................... 8
1.1.3. Kiến nghị về việc xác định giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang
thực hiện .................................................................................................. 11
1.2. Giao dịch dân sự có hình thức, nội dung phù hợp với Bộ luật dân
sự năm 2015................................................................................................ 13
1.2.1. Yêu cầu giao dịch dân sự có hình thức và nội dung phù hợp với Bộ
luật dân sự 2015 ...................................................................................... 13
1.2.2. Bất cập về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 trong trường hợp căn
cứ vào hình thức, nội dung của giao dịch dân sự được thực hiện trước
ngày 01/01/2017 ...................................................................................... 14
1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 trong
trường hợp căn cứ vào hình thức, nội dung của giao dịch dân sự được
thực hiện trước ngày 01/01/2017 ............................................................ 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 21
CHƢƠNG 2. ÁP DỤNG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 TRONG MỘT SỐ
QUAN HỆ DÂN SỰ KHÁC PHÁT SINH TRƢỚC NGÀY 01/01/2017 .. 22
2.1. Quan hệ về thời hiệu khởi kiện ......................................................... 22
2.1.1. Bất cập về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 về thời hiệu khởi kiện
đối với quan hệ không phát sinh từ giao dịch dân sự.............................. 23


2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 về thời
hiệu khởi kiện đối với quan hệ phát sinh không phải giao dịch dân sự .. 28
2.2. Quan hệ bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ................................. 30

2.2.1. Bất cập về áp dụng Bộ luật dân sự 2015 khi có sự khác nhau về
giá trị bồi thường thiệt hại đối với về quan hệ bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng ....................................................................................... 31
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 khi có
sự khác nhau về giá trị bồi thường thiệt hại đối với về quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng ............................................................. 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 34
KẾT LUẬN .................................................................................................... 35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội VI (1986) của Đảng ta đánh dấu một sự chuyển mình to lớn
trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Kết quả của sự đổi mới đã đưa
đất nước không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải
thiện. Hệ thống chính trị, khối đại đồn kết tồn dân tộc được củng cố, tăng
cường, chính trị - xã hội ổn định quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế
nước ta trên thị trường quốc tế không ngừng nâng cao.
Song song với sự phát triển của xã hội, nhất là đối với những nước
đang phát triển như nước ta thì quan hệ xã hội ln ln vận động, thay đổi,
phát triển. Để kịp thời thích ứng với sự thay đổi đó thì việc điều chỉnh các
quy định pháp luật là vấn đề cần phải thực hiện ngay. Cũng chính vì lý do
này mà pháp luật của nước ta có tuổi thọ trung bình ngắn. Từ đó, vấn đề đặt
ra là cần phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh việc áp dụng luật, đối với
các quan hệ phát sinh trước ngày luật mới có hiệu lực mà sau ngày này mới
được giải quyết.
Một trong những đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta

nói riêng, cũng như các nước trên thế giới nói chung đó là luật dân sự hay còn
được gọi là bản hiến pháp của dân sự. Do đó, để kịp thời thích ứng với tình
hình mới ngày 24/11/2015,Quốc hội đã thơng qua Bộ luật dân sự số
91/2015/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017. BLDS 2015 là
một đạo luật hiện đại, tiến bộ, chứa đựng tính nhân văn và kỹ thuật lập pháp
rất cao, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách thống nhất, phù
hợp. Trong đó, điều khoản chuyển tiếp là một phần không thể thiếu cấu thành
nên đạo luật này, đây là cơ sở để các chủ thể, người có thẩm quyền áp dụng
luật một cách thống nhất. Điều 688 BLDS 2015 quy định việc áp dụng luật
đối với các GDDS giao kết trước ngày 01/01/2017 mà sau ngày này mới phát
sinh tranh chấp, giải quyết. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số nhận thức
khác nhau về sự phù hợp hay không phù hợp của GDDS đó với BLDS 2015;
hay vấn đề xác định giao dịch dân sự đang thực hiện hay chưa thực hiện.


2
Bên cạnh đó, Điều 688 BLDS 2015 chỉ quy định chuyển tiếp đối với
các GDDS, đối với các quan hệ dân sự khác BLDS 2015 vẫn còn bỏ ngỏ nên
việc tồn tại quan điểm, nhận thức khác nhau khi áp dụng luật là không thể
tránh khỏi. Đơn cử như việc áp dụng pháp luật đối với tranh chấp bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng và thừa kế theo pháp luật.
Từ những bất cập thực tiễn giải quyết tranh chấp và các quy định của
BLDS, tác giả chọn đề tài “Điều khoản chuyển tiếp theo quy định của Bộ luật
dân sự 2015” làm đề tài Luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Điều khoản chuyển tiếp” là vấn đề được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau như hình sự, kinh tế, hành chính, dân sự,... với hình thức, quy mơ
nghiên cứu cũng khác nhau, điển hình như:
- Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ“Bình luận khoa học của BLDS 2015
của nước CHXHCN Việt Nam“. Tại trang 1091, 1092 tác giả đã bình luận quy

định về điều khoản chuyển tiếp của BLDS mà cụ thể là Điều 688 BLDS 2015.
Theo đó, tác giả đã phân tích, bình luận làm rõ từng nội dung quy định tại
Điều 688 và đưa ra một số ví dụ cụ thể để dẫn chứng cho việc áp dụng pháp
luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích một số trường hợp hồi tố theo quy
định của Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, góp phần cho người
đọc hiểu rõ thêm các trường hợp áp dụng pháp luật.
- Chu Xuân Minh (2017), “Điều khoản chuyển tiếp (Điều 688) thi hành
Bộ luật dân sự năm 2015”, Tạp chí điện tử Tịa án nhân dân, (2017). Trong
bài viết của mình tác giả đã nêu lên những vấn đề thực tiễn vướng mắc; mối
quan hệ giữa LBHVBQPPL và các pháp luật khác về quy định chuyển tiếp;
về Điều khoản chuyển tiếp của Bộ luật dân sự năm 2015; việc áp dụng những
quy định chuyển tiếp trong Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP; những vướng
mắc cần tiếp tục giải quyết về quy định chuyển tiếp.
- Nguyễn Thị Huyền (2017), “Vướng mắc trong việc vận dụng Điều 688
(Điều khoản chuyển tiếp) Bộ luật dân sự 2015”. Đăng trên cổng thông tin
điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2017). Tác giả đã


3
nói lên một khía cạnh về việc xác định GDDS chưa thực hiện hay GDDS đã
thực hiện xong khi một bên giữa chừng đơn phương chấm dứt. Đồng thời tác
giả đưa ra quan điểm việc áp dụng pháp luật đối với các quan hệ này. Cơng
trình này chỉ có giá trị xây dựng nền tảng, định hướng so sánh để triển khai
luận văn đang nghiên cứu.
- Tưởng Duy Lượng (2018), “Những vấn đề cơ bản về điều khoản
chuyển tiếp và thời điểm có hiệu lực của BLDS 2015”, Tạp chí Toà án số 17,
18/2018. Bài viết đã làm rõ một số nội dung cơ bản của điều khoản chuyển
tiếp, giải thích một số thuật ngữ pháp lý trong điều luật như giao dịch dânsự
chưa thực hiện, đang thực hiện, đã thực hiện xong, nội dung, hình thức khác
hay phù hợp với BLDS 2015. Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích làm rõ các

trường hợp áp dụng thời hiệu đối với các GDDS được xác lập trước ngày
BLDS 2015 có hiệu lực pháp luật.
- Đặng Quang Dũng, Châu Thanh Quyền (2021), “Áp dụng pháp luật
nội dung trong xét xử các vụ án hình sự và dân sự”, Tạp chí Tồ án số
8/2021. Nội dung bài viết tác giả đã bình luận về các căn cứ áp dụng pháp luật
đối với các quan hệ hình sự, dân sự phát sinh trước ngày BLHS 2015 và
BLDS 2015 có hiệu luật pháp luật. Đồng thời tác giả đã đưa ra quan điểm áp
dụng pháp luật đối với các quan hệ dân sự phát sinh trước ngày BLDS 2015
có hiệu lực nhưng sau ngày này mới phát sinh tranh chấp, giải quyết.
Hầu hết các bài tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học đều đã thực hiện
việc nghiên cứu một hoặc một số khía cạnh liên quan đến điều khoản chuyển
tiếp. Các nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề áp dụng luật đối với các
quan hệ dân sự phát sinh trước ngày 01/01/2017, chưa được đề cập nghiên
cứu sâu. Đặc biệt chưa có cơng trình nào trực tiếp liên quan đến đề tài luận
văn và chưa có Luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu về “Điều khoản chuyển tiếp
theo quy định của BLDS 2015”.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu việc áp dụng luật
dân sự đối với các GDDS và các quan hệ dân sự khác phát sinh trước ngày


4
01/01/2017. Từ đó phát hiện những vướng mắc trong thực tiễn giải quyết của
Tòa án. Đồng thời đưa ra kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật và người áp
dụng pháp luật có nhận thức nhất quán, đúng đắn khi áp dụng pháp luật.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc áp dụng pháp luật của Toà án dựa
trên quyđịnh chuyển tiếp của BLDS 2015 đối với GDDS và các quan hệ
dân sự khác phát sinh trước ngày 01/01/2017 mà sau thời điểm này mới

được giải quyết.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc áp dụng pháp luật đối với các GDDS và các
quan hệ dân sự khác phát sinh trước ngày 01/01/2017 mà sau thời điểm này
mới được giải quyết. Từ đó đối chiếu với thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, điều khoản chuyển tiếp là điều luật hồi tố, trong đó có các
tranh chấp áp dụng BLDS năm 2005 để giải quyết nên những quy định có liên
quan của BLDS năm 2005 cũng sẽ được xem xét, nghiên cứu trong luận văn.
Luận văn nghiên cứu quy định về điều khoản chuyển tiếp thi hành
BLDS năm 2015 và thực tiễn giải quyết các vụ án từ đó nêu lên những bất
cấp, hạn chế cịn tồn tại trong q trình áp dụng quy định này. Từ đó đưa ra
một số kiến nghị góp phần hồn thiện quy định của pháp luật về việc áp dụng
pháp luật được quy định tại điều khoản chuyển tiếp thi hành bộ luật dân sự
năm 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu có hiệu quả đề tài, tác giả sử dụng phương pháp bình
luận án, phân tích, tổng hợp và so sánh xuyên suốt quá trình nghiên cứu luận
văn. Phương pháp bình luận án được tác giả sử dụng khi dẫn chứng một số
vụ án cụ thể trên thực tế để làm rõ nhận thức của người áp dụng pháp luật.
Kết hợp với bình luận án tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật viết để


5
làm rõ nội dung quy định điều khoản chuyển tiếp và các quy định có liên
quan. Phương pháp so sánh được tác giả vận dụng trong việc so sánh các vụ
án trên thực tế để làm rõ sự bất đồng trong nhận thức áp dụng pháp luật. Từ
những phân tích, bình luận, so sánh trên cơ sở đó tác giả tổng hợp một cách
tồn diện các nội dung đó, từ đó đề xuất hướng áp dụng thống nhất pháp
luật. Kết thúc mỗi chương, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp được sử

dụng song song với phương pháp phân tích để đánh giá khái quát kết quả
nghiên cứu của từng chương.
Kết luận của luận văn, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để khái
quát những phân tích trong phần nội dung, từ đó rút ra kết luận những vấn đề
trọng tâm cần đạt được, nhằm giúp cho người đọc có cách nhìn tổng qt rõ
ràng hơn về nội dụng của đề tài.
6. Giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu giúp người đọc dễ dàng tiếp cận hơn với quy định
điều khoản chuyển tiếp; giúp đánh giá được thực trạng áp dụng pháp luật của
Tòa án, kịp thời phát hiện những vướng mắc và đề xuất hướng giải quyết.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo
cho các sinh viên chuyên ngành luật và được dùng để kiến nghị Tòa án nhân
dân tối cao tổng kết thực tiễn để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 2 Chương được bố cục
như sau:
Chƣơng 1. Áp dụng Bộ luật dân sự 2015 cho GDDS được xác lập trước
ngày 01/01/2017.
Chƣơng 2. Áp dụng Bộ luật dân sự 2015 cho quan hệ dân sự khác phát
sinh trước ngày 01/01/2017.
Kết cấu này được xây dựng xuất phát từ những bất cập cơ bản và chính
yếu khi nghiên cứu về điều khoản chuyển tiếp của BLDS năm 2015.


6
Thứ nhất, điều khoản chuyển tiếp quy định áp dụng pháp luật trong quá
trình giải quyết tranh chấp dân sự, điều khoản chuyển tiếp quy định áp dụng
luật đối với các quan hệ phát sinh từ GDDS nhưng chưa quy định cụ thể đối
với các quan hệ phát sinh không từ giao dịch dân sự, như thừa kế hay bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, khi nghiên cứu về đề tài, tác giả nhận

thấy rằng hai vấn đề cơ bản và cốt yếu về điều khoản chuyển tiếp năm 2015.
Nên, luận văn được chia thành hai chương tương ứng để triển khai nội dung
nghiên cứu.
Thứ hai, những vấn đề khác có liên quan như thời hiệu, hiệu lực của
hợp đồng, ... tuy cũng là những nội dung được đề cập trong điều khoản
chuyển tiếp nhưng tác giả nhận thấy đây không phải là những vấn đề chủ chốt
hoặc có thể lồng ghép để phân tích trong hai chương nêu trên, do đó, khơng
đặt thành mục riêng để nghiên cứu.


7
CHƢƠNG 1
ÁP DỤNG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 CHO GIAO DỊCH DÂN SỰ
ĐƢỢC XÁC LẬP TRƢỚC NGÀY 01/01/2017
Theo kết cấu của một văn bản quy phạm pháp luật thì ở phần cuối của
văn bản sẽ có điều khoản thi hành. Trong đó có điều khoản chuyển tiếp và
điều khoản quy định về hiệu lực thi hành. Trong đó điều khoản chuyển tiếp
là một trong những cơ sở để người áp dụng pháp luật vận dụng cho những
giao dịch phát sinh trước ngày 01/01/2017 mà sau ngày này mới phát sinh
tranh chấp. Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 quy định “Đối với giao dịch dân
sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp
luật được quy định như sau: a) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện mà có
nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng…; Giao
dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy
định của Bộ luật này thì áp dụng…; b) Giao dịch dân sự chưa được thực
hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy
định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này”. Như vậy,
chúng ta có thể thấy rằng để áp dụng BLDS 2015 cho những giao dịch này
thì GDDS cần phải đáp ứng được hai điều kiện là GDDS chưa thực hiện,
đang thực hiện và có nội dung hình thức phù hợp với BLDS 2015.

Tuy nhiên, trên thực tế giải quyết tranh chấp thì vấn đề xác định hai
điều kiện trên vẫn còn quan điểm khác nhau, dẫn đến áp dụng luật chưa thống
nhất. Do đó, vấn đề nghiên cứu làm rõ giao dịch đang thực hiện, chưa thực
hiện và xác định hình thức, nội dung của GDDS có phù hợp với BLDS 2015
là cần thiết.
1.1. Giao dịch dân sự chƣa thực hiện, đang thực hiện
1.1.1. Yêu cầu giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang được thực hiện
“Khi BLDS 2015 có hiệu lực giao dịch đó có thể đã được thực hiện xong,
có thể đang được thực hiện và cũng có thể chưa được thực hiện... Mỗi trường
hợp đã chứa đựng trong đó sự khác nhau và cũng có thể khác hoặc phù hợp về


8
nội dung, về hình thức so với quy định của mỗi bộ luật1”. Do đó, điều khoản
chuyển tiếp quy định tại Điều 688 BLDS 2015 có một số điều kiện nhất định
để khi xem xét áp dụng luật. Trong đó, quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 688
BLDS 2015 đã xác định điều kiện trước tiên người áp dụng cần phải làm rõ là
GDDS đó “đang thực hiện hay chưa thực hiện”. Trong trường hợp GDDS đã
thực hiện xong mà có phát sinh tranh chấp theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 688 BLDS 2015 thì áp dụng pháp luật dân sự 2005 để giải quyết mà
không phải xét đến các điều kiện khác của giao dịch đó.
Đây là một điều khoản quan trọng để thi hành của BLDS 2015 nên việc
xác định khơng chính xác các thuật ngữ, khái niệm, ý nghĩa của nó sẽ dẫn đến
áp dụng khơng chính xác. Để áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 688 BLDS
2015 thì người áp dụng cần phải xác định được thế nào là giao dịch dân sự
chưa thực hiện, đang thực hiện. Đây là những vấn đề cơ bản của khoản 1 Điều
688 BLDS nhưng trên thực tế vấn đề này trong một số trường hợp vẫn còn
các quan điểm khác nhau khi giải quyết tranh chấp.
1.1.2. Bất cập về việc xác định giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang
thực hiện

Xác định GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện là những điều kiện tiên
quyết mà người áp dụng luật phải xác định được. Tuy nhiên, trên thực tế vấn
đề này vẫn còn tồn tại một số quan điểm, nhận thức khác nhau khi giải quyết
các vụ việc.
Đơn cử như trường hợp GDDS được giao kết trước thời điểm BLDS
2015 có hiệu lực và khi GDDS đó đang được thực hiện mà một bên yêu cầu
ngưng thực hiện hay có thể hiểu là một bên đơn phương chấm dứt thực hiện
giao dịch. Như vậy, trong trường hợp này chúng ta xác định đây là giao dịch
đang thực hiện hay đã thực hiện xong. Vấn đề này có các quan điểm khác
nhau khi xác định tình trạng của GDDS nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật
khác nhau khi giải quyết tranh chấp trên thực tế
1

Tưởng Duy Lượng (2018), “Những vấn đề cơ bản về điều khoản chuyển tiếp và thời điểm có hiệu lực của
BLDS 2015”, Tạp chí Tồ án, số 17, tr 7.


9
Ví dụ: Bản án dân sự 08/2018/DS-ST ngày 16/7/2018 của Toà án nhân
dân thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang có nội dung như sau: “Năm 2008, ơng C,
bà P chuyển nhượng 735m2 đất cho ông H, bà K bằng giấy tay khơng có cơng
chứng, chứng thực. Bà P, ơng C u cầu huỷ hợp đồng, ngày 16/7/2018 thì
Tồ án xét xử sơ thẩm”; tại phần nhận định áp dụng pháp luật HĐXX đã nhận
định như sau, “Tại Điều 688. Điều khoản chuyển tiếp của BLDS 2015; tại
điểm c khoản 1 điều này quy định: Giao dịch dân sự được thực hiện xong
trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định
của BLDS số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi
tiết BLDS số 33/2005/QH11 để giải quyết”.
Như vậy, theo nhận định của Bản án chúng ta có thể thấy rằng trường
hợp một bên không mong muốn tiếp tục thực hiện GDDS thì xác định

GDDS đó đã thực hiện xong. Mặc dù các bên chưa thực hiện hết toàn bộ
giao dịch như thoả thuận nhưng hành vi đơn phương chấm dứt thực hiện
giao dịch của một bên đã làm cho GDDS khơng thể tiếp tục được thực hiện.
Do đó, khi giải quyết tranh chấp đối với các GDDS trong trường hợp này
cần phải căn cứ vào khoản 3 Điều 688 của BLDS 2015 và áp dụng quy định
của pháp luật dân sự 2005 để giải quyết. Tuy nhiên, quan điểm này chưa phù
hợp với quy định tại Điều 373 BLDS 2015 “Nghĩa vụ hồn thành khi bên có
nghĩa vụ đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ hoặc thực hiện một phần nghĩa vụ
nhưng phần cịn lại được bên có quyền cho miễn thực hiện”. Trong vụ án
trên các bên chưa thực hiện xong tồn bộ nghĩa vụ, cũng khơng được miễn
thực hiện phần còn lại của nghĩa vụ. Như vậy, việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ của các bên vẫn chưa hồn thành thì khơng thể kết luận đây là GDDS đã
thực hiện xong.
Tuy nhiên, trong một bản án khác như Bản án số 200/2021/DS-ST
ngày 02/7/2021 của Toà án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang giải
quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo đó,
hợp đồng được giao kết từ năm 1999, sửa đổi, bổ sung hợp đồng năm 2008
và các bên đã thực hiện việc giao đất, cất nhà và thanh toán đầy đủ theo
thoả thuận nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền. Nguyên đơn yêu


10
cầu công nhận hợp đồng; bị đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bản
án đã nhận định: “Về áp dụng luật: Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tranh chấp là hợp đồng dân sự đang được thực hiện; hình thức
hợp đồng có lập thành văn bản nhưng không công chứng, chứng thực,
đăng ký nên không phù hợp với quy định của BLDS 2015. Căn cứ Điều 688
BLDS 2015 HĐXX áp dụng BLDS 2005 và văn bản hướng dẫn để giải
quyết vụ án”.
Mặc dù nội dung cụ thể so với Bản án trước đó có khác nhau nhưng về

quan hệ pháp luật cũng như tình trạng thực hiện của GDDS là giống nhau.
Tuy nhiên, việc nhận thức về tình trạng thực hiện của GDDS lại khác nhau, cụ
thể là bản án này đã xác định đây là giao dịch đang thực hiện. Do đó, Bản án
đã vận dụng quy định của pháp luật dân sự 2015 để giải quyết tranh chấp.
Từ hai bản án trên chúng ta có thể thấy trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp vẫn còn một số quan điểm khác nhau khi xác định tình trạng thực hiện
của GDDS, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Trong trường
hợp xác định GDDS chưa thực hiện hay đang thực hiện nếu có sự không
thống nhất vẫn không ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, việc
xác định khơng chính xác giữa GDDS đang thực hiện với GDDS đã thực hiện
xong sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau có thể ảnh hưởng đến
quyền lợi của đương sự.
Bởi lẽ, theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 thì
được áp dụng cho các GDDS chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện.
Đối với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 thì được áp dụng
cho các GDDS đã được thực hiện xong. Mặt khác, điều khoản chuyển tiếp của
BLDS năm 2015 không quy định việc áp dụng pháp luật đối với các GDDS
giữa chừng bị chấm dứt do việc đơn phương vi phạm thỏa thuận của một bên.
Bên cạnh đó, pháp luật chưa định nghĩa rõ ràng thế nào là giao dịch dân sự
chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong. Do đó, khi giải quyết
các tranh chấp trên thực tế tồn tại quan điểm, nhận thức khác nhau khi áp
dụng pháp luật.


11
1.1.3. Kiến nghị về việc xác định giao dịch dân sự chưa thực hiện, đang
thực hiện
Điều 688 BLDS 2015 quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với các
giao dịch thực hiện trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực và việc áp dụng luật
để tiếp tục thực hiện giao dịch hoặc nhằm giải quyết tranh chấp. Một trong

những vẫn đề cần phải xác định trước tiên là giao dịch đó đang thực hiện,
chưa thực hiện hay đã thực hiện xong. Tuy nhiên, vấn đề này trên thực tế vẫn
còn một số quan điểm nhận định khác nhau đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và chất lượng xét xử của Tịa án. Do đó, vấn đề
này cần phải được nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện.
BLDS dân sự 2005 cũng như BLDS 2015 khơng có quy định cụ thể về
khái niệm GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong. Tuy
nhiên khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP đã định nghĩa thế nào
là hợp đồng chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong, cụ thể
như sau:
“Hợp đồng chưa được thực hiện là hợp đồng mà các bên chưa phải
thực hiện quyền, nghĩa vụ theo thỏa thuận và các quyền, nghĩa vụ khác phát
sinh từ hợp đồng mà pháp luật có quy định”.
“Hợp đồng đang được thực hiện là hợp đồng mà các bên chưa thực
hiện xong quyền, nghĩa vụ theo thỏa thuận và các quyền, nghĩa vụ khác phát
sinh từ hợp đồng mà pháp luật có quy định”.
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP đã đưa ra các khái niệm về hợp đồng
chưa thực hiện, đang thực hiện và đã thực hiện xong nhưng vẫn chưa có khái
niệm cụ thể GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã đã thực hiện xong
là như thế nào. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả khi giải quyết các tranh
chấp trên thực tế thì Tồ án cần áp dụng tương tự pháp luật để xác định
GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong của hợp đồng tại
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP. “Nghị quyết 01/2019 có những quy định
về khái niệm có thể tham khảo khi áp dụng quy định chuyển tiếp của Điều 688
như: hợp đồng được thực hiện xong; hợp đồng chưa được thực hiện; hợp


12
đồng đang được thực hiện; hợp đồng có quy định phù hợp với quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015”2.

Từ định nghĩa trên, theo quan điểm của tác giả đối với trường hợp
GDDS được giao kết trước thời điểm BLDS 2015 có hiệu lực và một bên đã
đơn phương chấm dứt thực hiện thì đây là GDDS chưa thực hiện xong. Bởi lẽ,
một bên đơn phương chấm dứt thực hiện GDDS làm cho bên kia không thể
thực hiện được nghĩa vụ của mình như những gì thỏa thuận trong GDDS đã
ký kết. “Trường hợp một bên tự ý chấm dứt việc thực hiện hợp đồng nên bên
kia không thể thực hiện xong hợp đồng như thỏa thuận ban đầu, giao dịch
dân sự giữa hai bên chấm dứt nhưng chưa được thực hiện xong như giao
kết”3. Do đó, GDDS giữa hai bên chấm dứt nhưng vẫn chưa được thực hiện
xong như giao kết. Bên cạnh đó, BLDS 2015 quy định “Nghĩa vụ được hồn
thành khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ hoặc thực hiện một
phần nghĩa vụ nhưng phần cịn lại được bên có quyền cho miễn thực hiện”.
Trong trường hợp này các bên chưa thực hiện được tồn bộ nghĩa vụ và phần
cịn lại không được miễn mà do một bên đơn phương chấm dứt nên GDDS
này chưa thực hiện xong. Chính vì vậy, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể xác định đây là GDDS chưa thực hiện
hay đang thực hiện. Trong trường hợp GDDS đã được giao kết nhưng chưa
đến thời điểm thực hiện nghĩa vụ của các bên mà các bên đơn phương chấm
dứt GDDS thì cần phải xác định là GDDS chưa thực hiện. Đối với trường hợp
GDDS đã được giao kết và các bên đang trong giai đoạn thực hiện nghĩa vụ
của mình như thoả thuận mà một bên đơn phương chấm dứt GDDS thì cần
phải được xác định là GDDS đang thực hiện.
Từ những phân tích trên, các khái niệm về hợp đồng chưa thực hiện,
đang thực hiện, đã thực hiện xong theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị
quyết số 01/2019/NQ-HĐTP chúng ta cần được áp dụng tương tự pháp luật
2

Chu Xuân Minh (2019), “Điều khoản chuyển tiếp (Điều 688) thi hành Bộ luật dân sự 2015”, https://
www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/dieu-khoan-chuyen-tiep-dieu-688-thi-hanh-bo-luat-dan-su-nam-2015
[truy cập 04/8/2021];

3
Nguyễn Thị Huyền, “Vướng mắc trong việc vận dụng Điều 688 (Điều khoản chuyển tiếp) Bộ luật Dân sự
2015”, [truy cập 07/9/2021]


13
như là giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trong thời gian tới cơ quan có thẩm
quyền, trước tiên là Tồ án nhân dân tối cao cần có văn bản xác định khái
niệm GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện, đã thực xong. Đây là căn cứ xác
thực nhất để các cấp Toà án trong cả nước áp dụng thống nhất pháp luật.
1.2. Giao dịch dân sự có hình thức, nội dung phù hợp với Bộ luật
dân sự năm 2015
1.2.1. Yêu cầu giao dịch dân sự có hình thức và nội dung phù hợp với
Bộ luật dân sự 2015
Sự giao thoa giữa các quy định của pháp luật cũ, mới ít nhiều sẽ có sự
thay đổi quy định về hình thức, nội dung của các loại GDDS. Chính vì vậy,
việc quy định về điều khoản chuyển tiếp để các bên tham gia giao dịch tiếp
tục thực hiện hoặc nhằm để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến GDDS
được thực hiện trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực là vơ cùng cần thiết.
Hình thức, nội dung của GDDS cũng là một trong các điều kiện để áp
dụng pháp luật đối với các GDDS phát sinh trước ngày 01/01/2017 mà sau
ngày này mới phát sinh tranh chấp, giải quyết. Theo quy định tại điểm a, b
khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 thì “Điều kiện trước tiên cần phải xác định là
GDDS đó đang thực hiện hay chưa thực hiện; điều kiện thứ hai là sự phù hợp
hay khác nhau về hình thức, nội dung giữa GDDS và BLDS 2015”.
Pháp luật về dân sự của nước ta không định nghĩa thế nào là hình thức
của GDDS mà chỉ liệt kê một số hình thức thể hiện của giao dịch dân sự như
“GDDS có thể thực hiện bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể, trong
trường hợp luật quy định GDDS phải được thể hiện bằng văn bản có cơng
chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tn theo quy định đó”4. Tuy nhiên, hình

thức được hiểu theo nghĩa thơng thường là “tồn thể nói chung những gì làm
thành hình bề ngồi của sự vật, cái chứa đựng thể hiện nội dung”5. Từ đó,
theo quan điểm của tác giả thì hình thức của GDDS có thể được hiểu là “cách
thức thể hiện thông tin, nội dung của giao dịch dân sự”.
4
5

Điều 119 Bộ luật dân sự 2015;
Viện ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.427.


14
Bên cạnh đó, nội dung của GDDS cũng chưa được pháp luật định nghĩa
một cách cụ thể như thế nào. Tuy nhiên, từ lý luận cũng như các quy định của
pháp luật chúng ta có thể hiểu:“Nội dung của hợp đồng thể hiện ý chí, mong
muốn của các bên được ghi nhận bằng các điều khoản cụ thể của hợp đồng.
Vì vậy, nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng đã thoả thuận. Các điều khoản đó xác định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng”6. Mặc dù quan điểm
này nói về nội dung của hợp đồng nhưng chúng ta cũng có thể hiểu tương tự
đối với GDDS, đó là các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Trên thực tế giải quyết tranh chấp có rất nhiều các giao dịch được thực
hiện trước đó một thời gian dài nhưng kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực mới
phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, khi thi hành trên thực tế thì vấn đề áp dụng
điều khoản chuyển tiếp khi xác định sự phù hợp hay khác nhau giữa hình
thức, nội dung của GDDS và quy định của BLDS 2015 vẫn còn một số quan
điểm, nhận thức khác. Chính vì vậy, đã dẫn đến áp dụng pháp luật không
thống nhất khi xét xử, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích của các đương sự.
1.2.2. Bất cập về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 trong trường hợp
căn cứ vào hình thức, nội dung của giao dịch dân sự được thực hiện trước

ngày 01/01/2017
a. Bất cập về việc áp dụng BLDS 2015 trong trường hợp căn cứ vào
hình thức của giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01/01/2017
GDDS được thực hiện trước ngày 01/01/2017 nhưng sau ngày này mới
phát sinh tranh chấp mà GDDS đó vi phạm quy định về hình. Tuy nhiên, các
bên đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ theo quy định tại Điều 129 của BLDS
2015 thì có được xem là phù hợp với BLDS 2015 hay không. Trên thực tế
giải quyết tranh chấp, phổ biến nhất là các tranh chấp liên quan đến giao dịch
quyền sử dụng đất có những nhận định khác nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp
luật khác nhau.
6

Võ Văn Hoà (2016), Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động
sản tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Cần thơ, tr49.


15
Ví dụ: Bản án dân sự sơ thẩm số 200/2021/DS-ST ngày 02/7/2021 của
Toà án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo đó, các bên ký kết hợp đồng từ năm
1999, sửa đổi, bổ sung hợp đồng năm 2008 và các bên đã thực hiện việc giao
đất, cất nhà và thanh toán đầy đủ theo thoả thuận. Tuy nhiên, hợp đồng các
bên thực hiện bằng văn bản không có cơng chứng, chứng thực nên Bản án đã
nhận định: “Hình thức của hợp đồng khơng phù hợp với quy định của BLDS
2015 và áp dụng quy định của BLDS 2005 và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP
để giải quyết vụ án”
Đây cũng là quan điểm thứ nhất xác định hình thức của GDDS. Theo
đó, quan điểm này cho rằng hình thức của GDDS không phù hợp với BLDS
2015 nên đã áp dụng quy định của BLDS 2005 và văn bản hướng dẫn của Bộ
luật này để giải quyết.

Tuy nhiên, trong một bản án khác mặc dù giao dịch được thực hiện
trước ngày 01/01/2017 và sau ngày này mới phát sinh tranh chấp nhưng đã
xác định hình thức của hợp đồng phù hợp với Điều 129 của BLDS 2015.
“Năm 2006, ông T và vợ chồng ông Đ, bà Y lập giấy chuyển nhượng
QSDĐ 1.350m2 tại thôn Mỹ Quang Nam, xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh
Phú Yên “giấy chuyển nhượng đất” viết tay ghi ngày 03/6/2006 có chữ ký
của vợ chồng bà Y và 8 người con trong hộ gia đình. Bên vợ chồng bà Y đã
nhận 30 triệu đồng và giao đất cho ông T sử dụng, ông T trồng cây ăn quả
và xây dựng tường rào nằm liền kề với mặt bằng của ngơi chùa do ơng T
làm trụ trì. Đối với hợp đồng này mặc dù chưa được công chứng, chứng
thực nhưng thể hiện rõ ý chí của những người có quyền sử dụng đất. Bên
bán đã nhận tiền và bên mua đã nhận đất, các bên đã thực hiện trên hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch nên không nhất thiết phải công chứng,
chứng thực theo khoản 2 Điều 129 BLDS 2015”7. Theo quan điểm nhận
định của Bản án này thể hiện rất rõ ràng sự phù hợp của GDDS theo Điều
7

Hiệu lực của Bộ luật Dân sự 2015 khi giải quyết các hợp đồng vi phạm hình thức bắt buộc”, https://
thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/hieu-luc-cua-blds-nam-2015-khi-giai-quyet-cac-hop-dong-vi-pham-hinhthuc-bat-buoc-3072 [truy cập 27/9/2021];


16
129 BLDS 2015, từ đó đã áp dụng pháp luật dân sự 2015 để giải quyết
tranh chấp.
Từ những vụ án thực tế trên chúng ta có thể thấy rằng việc nhận định sự
phù hợp hay khơng phù hợp về hình thức của GDDS vẫn còn tồn tại quan
điểm, nhận thức khác nhau. Do đó, dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau
đối với các GDDS xác lập trước ngày 01/01/2017 mà sau ngày này mới phát
sinh tranh chấp.
b. Bất cập về việc áp dụng BLDS 2015 trong trường hợp căn cứ vào nội

dung của giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01/01/2017
Nội dung của GDDS có phạm vi rất rộng, bởi lẽ sự tự do ý chí, tự
nguyện thoả thuận là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về dân
sự. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó bị giới hạn bởi các điều cấm của luật và đạo
đức xã hội.
Về nội dung của GDDS BLDS 2015 đã có nhiều thay đổi mang tính
thời sự, phù hợp với các quan hệ xã hội thực tại. Do đó, khi áp dụng điều
khoản chuyển tiếp thì điều kiện về nội dung của GDDS có phù hợp với BLDS
2015 hay khơng vẫn cịn một số quan điểm, nhận thức khác nhau.
Trong một vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản bản án nhận định:
“Ông H cho ông V vay tiền ngày 21/9/2016, ngày 18/11/2016 và ngày
18/12/2016 có thỏa thuận trả lãi nhưng khơng xác định rõ về lãi suất, thời
hạn vay là 03 tháng. Tại phiên tịa ơng H u cầu ơng V phải chịu lãi suất
trong hạn và lãi suất quá hạn là 9%/năm. Ông V đồng ý nhưng vì hồn cảnh
khó khăn nên xin trả lãi 15.000.000đ nhưng ơng H khơng chấp nhận. Vì vậy,
yêu cầu của tính lãi trong hạn và lãi quá hạn của ơng H là có cơ sở (Căn cứ
khoản 5 Điều 474, khoản 2 Điều 476 của Bộ luật dân sự năm 2005; Quyết
định số: 2868/QĐ-NHNN ngày 29-11-2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam)”8.
“Hợp đồng vay tài sản được xác lập trước ngày 01-01-2017 chưa được
thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có thỏa thuận về lãi suất phù hợp với
8

Bản án số 16/2019/DS-ST ngày 07/11/2019 của Toà án nhân dân thị xã Q, tỉnh Quảng Trị;


17
quy định của BLDS năm 2015 thì áp dụng BLDS năm 2015”9. Tuy nhiên, Bản
án đã áp dụng quy định của BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn cho Bộ
luật này để làm căn cứ xác định lãi suất. Từ đó, chúng ta có thể hiểu theo

quan điểm nhận định và áp dụng pháp luật của Bản án đã thể hiện nội dung
thoả thuận về lãi suất trong hợp đồng không phù hợp với BLDS 2015.
Tuy nhiên, trong một vụ án khác đã nhận định, “Ngày 24/5/2016, ông Y
ký hợp đồng với Ngân hàng sử dụng thẻ tín dụng hạn mức 15.000.000đ, ông
đã sử dụng 14.500.000đ. Do ông y vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên ngày
22/8/2019 Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Y phải trả tiền vốn là 13.104.040
đồng, lãi quá hạn 11.695.320 đồng (tạm tính đến ngày 14/6/2019) và tiếp tục
trả nợ lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký kết. Xét thấy yêu cầu của Ngân hàng
là phù hợp với quy định tại Điều 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự 2015”10.
Cũng là giao dịch phát sinh trước ngày 01/01/2017 nhưng sau ngày này
mới phát sinh tranh chấp, mặc dù lãi suất của GDDS có khác so với BLDS
2015 nhưng bản án đã nhận định sự phù hợp của GDDS so với BLDS 2015.
Từ đó, Bản án đã áp dụng quy định của BLDS 2015 để làm căn cứ giải quyết
vụ án.
Trong một bản án dân sự khác, cụ thể là bản án dân sự phúc thẩm số
1213/2019/DS-PT ngày 26/12/2019 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh đã nhận định việc áp dụng luật như sau: “Đối với các GDDS trên, tuy
ký kết tại thời điểm BLDS năm 2015 chưa có hiệu lực nhưng các GDDS này
có hình thức và nội dung phù hợp với BLDS năm 2015 để điều chỉnh quan hệ
tranh chấp trên theo quy định của điều khoản chuyển tiếp Điều 688 vừa nêu
là có căn cứ”. Bên cạnh đó, Bản án cịn nhận định việc áp dụng Nghị quyết
số 01/2019/NQ-HĐTP để làm căn cứ tính lãi suất.
Lãi suất là một trong những nội dung có nhiều thay đổi của BLDS 2015
nên sau ngày 01/01/2017 đã có nhiều xáo trộn khi giải quyết các tranh chấp
đối với nội dung này. Tuy nhiên, trên thực tế có một số quan điểm khác nhau
trong việc nhận thức tính phù hợp về lãi suất của GDDS so với BLDS 2015.
9

Phần 3, mục 3 Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016.
Bản án số 60/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Toà án nhân dân huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.


10


18
Từ các vụ án thực tế chúng ta có thể thấy rằng việc nhận thức về nội
dung của GDDS phù hợp hay khơng phù hợp với BLDS 2015 vẫn cịn khác
nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau. Việc áp dụng pháp luật
không thống nhất, cũng như không đúng đắn về nội dung của GDDS ít nhiều
sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, vấn đề xác
định rõ quy định về việc áp dụng luật nội dung, trong đó có vấn đề về lãi suất
là quan trọng và cấp thiết.
1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 trong
trường hợp căn cứ vào hình thức, nội dung của giao dịch dân sự được thực
hiện trước ngày 01/01/2017
a. Kiến nghị hoàn thiện về việc áp dụng BLDS 2015 trong trường hợp
căn cứ vào hình thức của GDDS được thực hiện trước ngày 01/01/2017.
Theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 quy định
“GDDS chưa thực hiện, đang thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với
Bộ luật này hay phù hợp với Bộ luật này”. Do đó, theo quan điểm của tác giả
hình thức của GDDS không nhất thiết phải phù hợp với chế định cụ thể của
BLDS mà có thể phù hợp với các quy định chung của BLDS.
Ví dụ: Điều 502 của BLDS 2015 quy định “Hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định
của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên
quan”; Điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định “Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công
chứng hoặc chứng thực,...”
Trong trường hợp các bên vi phạm về hình thức của GDDS như quy
định tại Điều 502 BLDS 2015 và điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai nhưng

một hoặc các bên đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ. Trong trường hợp này mặc
dù có vi phạm về hình thức của GDDS tại các chế định về hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất nhưng lại phù hợp với quy định tại Điều 129 là quy định
chung của BLDS 2015. Vì vậy, chúng ta cần phải xem hình thức của GDDS
này phù hợp với BLDS 2015. Do đó, khi giải quyết tranh chấp cần phải áp


19
dụng quy định của BLDS 2015 và văn bản hướng dẫn Bộ luật này để làm cơ
sở giải quyết tranh chấp.
Mặt khác, theo quan điểm của tác giả GDDS khi các bên giao kết với
mục đích là nhằm để thực hiện, để thoả mãn mong muốn của các bên chứ
không nhằm mục đích để tun vơ hiệu hay để lổ hỏng nhằm bội tín. Chính vì
vậy, khi ý chí các bên đã thể hiện sự mong muốn đạt được mục đích của mình
thơng qua hành vi đã thực hiện nghĩa vụ của các bên thì chúng ta cần tơn
trọng và để giao dịch đó hồn thành.
Từ những phân tích trên tác giả kiến nghị:
Thứ nhất, sự phù hợp về hình thức của GDDS trước tiên phải căn cứ
vào sự giống nhau về hình thức của GDDS so với quy định của BLDS 2015.
Ví dụ: Khoản 2 ĐIều 504 BLDS 2015 quy định “Hợp đồng hợp tác phải
được lập thành văn bản”. Trường hợp các bên ký kết hợp đồng hợp tác bằng
văn bản là phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Thứ hai, trường hợp có sự khác nhau giữa GDDS và BLDS 2015 nhưng
GDDS đó được thực hiện với một hình thức có giá trị chứng minh cao hơn;
Ví dụ: Hợp đồng hợp tác chỉ quy định hình thức là văn bản, trong
trường hợp các bên thực hiện việc cơng chứng hoặc chứng thực thì vẫn được
xem là phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Thứ ba, trong trường hợp các bên vi phạm về hình thức thì cần phải
xem xét quy định tại Điều 129 BLDS 2015 để làm căn cứ xác định sự phù
hợp của GDDS đó như đã trình bày.

b. Kiến nghị hồn thiện về việc áp dụng Bộ luật dân sự 2015 trong
trường hợp căn cứ nội dung của GDDS được thực hiện trước ngày 01/01/2017.
Việc xác định nội dung của GDDS phù hợp hay khơng phù hợp với
BLDS 2015 vẫn cịn nhận thức khác nhau. Từ một số nhận thức khác nhau
khi giải quyết các vụ việc trên thực tế, theo quan điểm của tác giả để xác định
sự phù hợp hay không phù hợp về nội dung của GDDS so với BLDS 2015 thì
GDDS đó cần phải đáp ứng được các điều kiện sau:


×