Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.95 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN THÀNH

GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI
NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

BÌNH THUẬN, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI
NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số chuyên ngành: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĨNH CHÂU
Học viên: NGUYỄN VĂN THÀNH
Lớp: Cao học Luật Bình Thuận, Khố 2

BÌNH THUẬN - 2021


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Lê
Vĩnh Châu. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thơng tin từ
các Bộ luật, nguồn sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo mạng...
được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Văn Thành


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ được viết thường

Chữ được viết tắt

01

Hơn nhân và gia đình

HN&GĐ

02

Hội đồng xét xử

HĐXX


03

Ủy ban nhân dân

UBND

04

Bộ luật Dân sự năm 2015.

BLDS

05

Luật Hộ tịch năm 2015

06

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy
định về đăng ký và quản lý hộ tịch

NĐ số 123/2015

07

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy
định về đăng ký và quản lý hộ tịch

NĐ số 158/2005


08

Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về NQ số 35/2000
việc thi hành Luật hơn nhân và gia đình năm 2000

09

Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- TTLT số 01/2016

LHT

BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật hôn nhân và gia đình
10

Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 hướng NĐ số 77/2001
dẫn nghị quyết số 35/2000/QH10

11

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTC- TTLT số 01/2001
VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình

12

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 NQ số 02/2000
hướng dẫn áp dụng một số quy định luật hôn nhân và
gia đình



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN,
QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG
SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN .........................8
1.1. Giải quyết về quan hệ nhân thân ..................................................................8
1.2. Giải quyết quyền lợi của con chung. ...........................................................18
Kết luận chương 1 ................................................................................................26
CHƯƠNG 2: GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN, NGHĨA VỤ
VÀ HỢP ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN. ............................................27
2.1. Giải quyết về quan hệ tài sản. ......................................................................27
2.2. Giải quyết về nghĩa vụ, hợp đồng. ...............................................................38
Kết luận chương 2 ................................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hôn nhân là cơ sở của gia đình - tế bào của xã hội, quan hệ hơn nhân và gia
đình thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Gia đình là nền tảng của xã hội, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Việc ổn định và bảo vệ các quan hệ hơn nhân và gia đình
là vơ cùng quan trọng và cần thiết. Do đó, hệ thống các quy định của pháp luật điều
chỉnh trong lĩnh lực hôn nhân và gia đình khơng những phải đáp ứng được định
hướng pháp luật mà còn phải phù hợp với thực tiễn xã hội. Qua mười ba năm Luật
hơn nhân và gia đình năm 2000 đi vào cuộc sống đã góp phần xây dựng và hồn

thiện chế độ hơn nhân và gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phát huy được những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngày nay, đất nước có nhiều sự đổi thay, đời sống
vật chất cũng như tinh thần của người dân không ngừng được phát triển, các quan
hệ hơn nhân và gia đình cũng có những thay đổi đáng kể, Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế gây khó khăn cho người dân cũng như
cơ quan thực thi pháp luật. Tình trạng nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội nước ta và
ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước
đang trong quá trình đẩy mạnh nền cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chính
sách mở cửa, giao lưu với tất cả các quốc gia trên thế giới, mặt trái của nền kinh tế
thị trường đã làm thay đổi không nhỏ tới quan điểm về tình u và hơn nhân; với
tâm lý ngại đi đăng ký kết hôn bởi lý do không muốn thực hiện các thủ tục hành
chính, con người với lối sống tự do, phóng túng, khơng muốn bị ràng buộc về mặt
pháp lý, thậm chí nhiều cặp vợ, chồng cịn khơng muốn tổ chức đám cưới, vì họ
thấy các lễ nghi tổ chức phiền phức mà chỉ cần về sống với nhau là đủ. Việc chung
sống này thể hiện dưới các dạng thức khác nhau đã tạo ra nhiều hậu quả không tốt
đối với đời sống hôn nhân và gia đình.
Thời gian qua, mặc dù đã có khá nhiều các văn bản pháp luật được ban hành
như: NQ số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000; NĐ số 77/2001/NĐ-CP ngày
22/10/2001; TTLTsố 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001;
NQ số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2020 hướng dẫn giải quyết đối với trường
hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn nhưng vẫn chưa
có quy định cụ thế về giải quyết hậu quả của tình trạng này đã dẫn tới việc giải


2
quyết các tranh chấp trở nên phức tạp, quyền lợi của các bên chưa được đảm bảo,
công tác xét xử của Tịa án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong q trình áp dụng
pháp luật. Đứng trước thực tiễn đó, pháp luật cần phải có những thay đổi để phù
hợp với nhu cầu đặt ra. Luật HN&GÐ năm 2014 ra đời là một bước tiến quan trọng

trong hệ thống pháp luật của nước ta nói chung, trong lĩnh vực HN&GÐ nói riêng.
Luật đã có những quy định cụ thể điều chỉnh đối với trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nghiên cứu và phân tích
những quy định của pháp luật HN&GÐ năm 2014 trong vấn đề giải quyết hậu quả
của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn là địi hỏi
khách quan và cấp thiết hiện nay, điều này giúp nâng cao ý thức pháp luật của
người dân trong việc xác lập quan hệ hôn nhân, nâng cao hiệu quả trong công tác
xét xử của Tịa án trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Từ đó góp phần hồn thiện
hệ thống pháp luật của nước ta, xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, xã hội phát
triển. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giải quyết hậu quả
của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn" làm luận
văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Các tài liệu liên quan việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng luôn
được các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên Luật quan tâm; đặc biệt là các tổ chức,
cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật. Trong khoa học pháp lý ở nước ta, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề này như:
Nhóm giáo trình, sách chun khảo:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật
Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam,
tại Chương IV. Đây là giáo trình, do đó chỉ trình bày những kiến thức cơ bản về
khái niệm không công nhận quan hệ vợ chồng, các trường hợp không công nhận
quan hệ vợ chồng và hậu quả pháp lý của việc khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng.
Bởi vì nội dung kiến thức được trình bày trong giáo trình nhằm phục vụ cho cơng
tác giảng dạy, vì vậy khơng đi sâu vào phân tích cụ thể các trường hợp khơng công
nhận quan hệ vợ chồng cũng như việc giải quyết hậu quả. Tuy nhiên, đây là những
kiến thức nền tảng hỗ trợ tác giả trong quá trình nghiên cứu. Từ đó, trong phạm vi
bài nghiên cứu, tác giả sẽ triển khai làm rõ những vấn đề về không công nhận quan
hệ vợ chồng.



3
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), “Giáo trình Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam”, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, tại Chương IV. Giáo trình nêu
trường hợp nam, nữ sống chung mà không được pháp luật công nhận là vợ chồng,
các trường hợp nam, nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn và cách giải quyết
khi có u cầu ly hơn theo các giai đoạn: Trước ngày 03/01/1987, kể từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 và sau ngày 01/01/2001 trở đi. Vì đây cũng là giáo
trình nên kiến thức được trình bày mang tính khái quát, chưa có sự đề cập và hướng
giải quyết việc khơng công nhận quan hệ vợ chồng một cách chi tiết. Vì vậy, trong
nghiên cứu của mình, tác giả phân tích một cách đầy đủ, chi tiết vấn đề này nhằm
chỉ ra những bất cập, vướng mắc và hướng hoàn thiện.
- Lê Vĩnh Châu (Chủ biên) (2018), “Sách tình huống (bình luận bản án)
Luật Hơn nhân và gia đình”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tại
Phần 1. Tác giả đưa ra những tình huống trong những bản án về các vấn đề kết hôn
vi phạm thủ tục kết hôn, chung sống không đăng ký kết hôn, người đang có vợ có
chồng chung sống với người khác như vợ chồng. Qua đó, tác giả phân tích nội dung
của các vụ án và việc áp dụng pháp luật đối với từng vụ án. Tuy nhiên, việc phân
tích này chỉ dừng lại ở giới hạn của bài bình luận. Do đó, tác giả sẽ phân tích tồn
diện hơn trong bài nghiên cứu của mình.
- Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2004),“Bình luận khoa học Luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”. Nêu các trường hợp không đăng ký kết hôn
mà được công nhận là vợ chồng và các trường hợp không được công nhận là vợ
chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản liên
quan. Tuy nhiên cơng trình chưa có sự đề cập đến hậu quả pháp lý của việc không
công nhận quan hệ vợ chồng và hướng giải quyết. Bên cạnh đó, cơng trình này
nghiên cứu dựa trên quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy,
trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn về vấn đề này.
Bài viết tạp chí, hội thảo khoa học:
- Lê Thị Diễm Phương (2015) “Một số ý kiến về giải quyết quan hệ tài sản,

nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Hội thảo khoa
học. Bài viết phân tích trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng, đưa ra quan
điểm về hợp đồng, quan hệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp trong trường hợp nam
nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn cùng với dẫn chứng
pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Tác giả đã chỉ ra sự cần thiết phải có các


4
văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể hơn để điều chỉnh các mối quan hệ liên quan
đến việc giải quyết quan hệ tài sản giữa nam, nữ sống chung như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên các ý kiến tác giả chỉ mang tính gợi mở, chưa
thật sự cụ thể và rõ ràng để giải quyết hậu quả về quan hệ tài sản.
- Lê Thu Trang (2016), “Quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn mà xin ly hôn”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp,
Số (4 (289)). Tác giả đề cập đến quyền lợi của các bên trong trường hợp nam, nữ
chung sống như vợ chồng trong trường hợp được pháp luật công nhận và khơng
được pháp luật cơng nhận. Trong đó có nêu các quy định trong việc giải quyết hậu
quả pháp lý về nhân thân, về tài sản của nam, nữ sống chung như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên tác giả chưa đưa ra được các bất cập và vướng
mắc trong việc giải quyết quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng. Do đó,
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đi sâu tìm hiểu những bất cập,
vướng mắc để đề xuất những giải pháp hoàn thiện.
Lê Thu Trang (2017), “Chung sống như vợ chồng khơng đăng ký kết hơn:
Thực trạng và kiến nghị hồn thiện pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, 2017, Số (07). Bài viết đã nêu thực trạng chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn ở nước ta hiện nay và khẳng định cần có quy định rõ
việc giải quyết quan hệ tài sản cùng với một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo pháp luật
hiện hành. Nhưng việc kiến nghị cịn mang tính khái quát. Vì vậy, trong bài nghiên

cứu của mình, tác giả sẽ đưa ra những đề xuất cụ thể hơn.
Qua các tài liệu nêu trên, có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về vấn đề giải
quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn theo Luật HN&GÐ năm 2014 mà tác giả dự kiến triển khai là cần thiết
và không trùng lặp với các nghiên cứu khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật về giải quyết các hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn; qua đó chỉ ra bất cập, vướng mắc


5
nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích, làm rõ quy định của pháp luật về giải quyết hậu quả của việc
nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết
các tranh chấp liên quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà khơng
đăng ký kết hơn của ngành Tịa án, qua đó chỉ ra bất cập, vướng mắc.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết hậu quả của việc nam,
nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài “Hậu quả của việc nam, nữ chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn", Luận văn xác định đối tượng và phạm vi
nghiên cứu cụ thể như sau:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về kết hôn và

chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, quy định của pháp luật
HN&GĐ về việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ở
Việt Nam; thực tiễn thực hiện pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp của
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
tại TAND các cấp ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu Luận văn, tác giả sẽ giải quyết các vấn đề sau: Nghiên
cứu các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định của Luật HN&GÐ năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Phần đánh giá thực tiễn: Được tác giả thực hiện thông
qua thực tiễn xét xử tại TAND trong giai đoạn Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp và
phương pháp bình luận án. Cụ thể:


6
- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích, lý giải nội dung các quy
phạm pháp luật đang sử dụng nhằm hệ thống một cách khoa học và hợp lý, đồng
thời dự báo sự phát triển các quy định trong tương lai. Phương pháp này được sử
dụng xuyên suốt luận văn, giúp cho người đọc có cái nhìn rõ ràng, chi tiết đối với
vấn đề.
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp ngược lại với phương pháp phân
tích nhưng hai phương pháp này lại hỗ trợ lẫn nhau nhằm tìm ra cái chung, cái khái
quát nhất. Tác giả sử dụng phương pháp này để tìm ra bản chất của đối tượng
nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng để tổng kết từng chương và tổng
kết toàn bộ luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm so sánh những quy định về Hậu
quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
qua từng giai đoạn khác nhau. Thế mạnh của phương pháp này là giúp cho người

đọc có cái nhìn tổng quan, khái quát và rõ ràng về nội dung của đề tài, chỉ ra những
điểm giống và khác nhau giữa các quy định nhằm làm sáng tỏ đề tài. Qua đó, nhận
xét, đánh giá và tiếp thu những ưu điểm cần thiết.
- Phương pháp chứng minh để đưa ra những chứng cứ chứng minh vấn đề
làm tăng sức thuyết phục cho vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử
dụng trong toàn bộ các chương của luận văn. Cụ thể tại các Mục 1.1, 1.2 của
Chương 1 và Mục 2.1, 2.2 của Chương 2.
- Phương pháp bình luận án để giải quyết mối quan hệ giữa quy định và thực
tiễn. Tập trung sử dụng phương pháp này để giải quyết vấn đề áp dụng quy định của
pháp luật trong các bản án xét xử trên thực tiễn tại Tịa án nhân dân nhằm tìm ra
những điểm chưa hợp lý, cần có giải pháp hồn thiện.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động xây
dựng pháp luật của các nhà làm luật; giúp các cơ quan áp dụng pháp luật hiểu sâu
hơn quy định của pháp luật trong vấn đề nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hơn.
Ngồi ra, Luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt đối với
chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình.


7
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1. Giải quyết hậu quả về quan hệ nhân thân, quyền lợi con chung
liên quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Chương 2: Giải quyết hậu quả về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng liên
quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.



8
CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN,
QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG
SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Kết hôn là một sự kiện pháp lý được pháp luật công nhận mối quan hệ giữa
nam và nữ với tư cách là vợ chồng, có các quyền và nghĩa vụ luật định. Việc kết
hơn chỉ có hiệu lực pháp lý khi được thực hiện theo thủ tục tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi đáp ứng các điều kiện về kết hôn1. Nếu không đáp ứng nội dung
này, quan hệ giữa nam và nữ sẽ không được pháp luật bảo vệ một cách đầy đủ và
hoàn thiện nhất như quan hệ vợ chồng hợp pháp về mặt nhân thân và tài sản.
Đối với quan hệ về nhân thân, các vấn đề phát sinh khi các bên không đăng
ký kết hôn cũng khá phức tạp, đặc biệt là về con chung. Pháp luật có sự dự liệu đối
với một số trường hợp nhưng không thể điều chỉnh hết được tất cả nội dung. Do đó,
chương này sẽ phân tích các vấn đề pháp lý, thực tiễn việc giải quyết hậu quả về
nhân thân cũng như giải quyết quyền lợi của con chung liên quan đến việc nam nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
1.1. Giải quyết về quan hệ nhân thân
Khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Chung sống như vợ
chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Việc
chung sống này chưa được các bên tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Từ “như” cho thấy rằng, nam và nữ chưa thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó, họ chỉ trên thực tế có sự chung
sống với nhau, có mối quan hệ như vợ chồng mà chưa được pháp luật ghi nhận.
Trong lịch sử, vấn đề này được công nhận khi có nghi lễ nhất định2 nhưng ngày
nay, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi có sự đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Trước đây, Thơng tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TAND-VKS-BTP có quy
định về trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nếu họ có đủ điều
kiện kết hơn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và thuộc một trong các

trường hợp: (i) Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; (ii) Việc họ về
1

Khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014.

Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2012), Các chế độ hơn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, NXB.
Tổng hợp TP.HCM, tr.29-38.
2


9
chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận; (iii) Việc
họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; (iv) Họ thực
sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Tuy nhiên, sự ghi nhận này chỉ là nhằm mục đích để đảm bảo đủ điều kiện
cho các bên tiến hành đăng ký kết hôn từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003 nhằm
đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của nam và nữ trong quan hệ vợ chồng hợp pháp.
Song, đây cũng có thể được xem là một trong những trường hợp nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng đó là đáp ứng các điều kiện kết hôn nhưng không tiến
hành đăng ký kết hôn.
Trường hợp thứ hai về việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng đó là
khi nam, nữ không đảm bảo điều kiện kết hôn, chẳng hạn về độ tuổi hay về năng lực
hành vi và không thể đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với nhau. Cả hai
trường hợp có thể thấy, dấu hiệu dễ nhận biết nhất là khơng có Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn. Việc không đảm bảo yếu tố về mặt pháp lý đã dẫn đến các hệ quả
nhất định. Về vấn đề nhân thân, khoản 1 Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật này chung sống với nhau
như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
giữa vợ và chồng”. Nếu như trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hơn theo quy định của pháp luật thì

quan hệ hơn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Như vậy, Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ dành cho trường hợp đầu tiên
là các bên đủ điều kiện kết hôn nhưng chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng
thực hiện việc đăng ký kết hơn. Khi đó, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng không
phát sinh. Nếu các bên muốn xác lập quan hệ vợ chồng thì giá trị pháp lý tính từ
thời điểm đăng ký kết hôn. Pháp luật không công nhận mối quan hệ về hơn nhân khi
nam, nữ chỉ có hành vi thực tế là chung sống với nhau dù có đáp ứng điều kiện kết
hơn hay các vấn đề khác như có con chung hay tài sản chung … Đây là nguyên tắc
chung thống nhất để đảm bảo tránh các tranh chấp phức tạp trên thực tế, tạo hành
lang pháp lý vững chắc quản lý quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, hỗ trợ các chế
định pháp lý khác như đại diện, thừa kế, …
Đối với trường hợp thứ hai là khi nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn
nhưng vẫn chung sống với nhau như vợ chồng, chẳng hạn như nam, nữ chưa đủ tuổi


10
để kết hơn hay có mối quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời, pháp luật
HN&GĐ ghi nhận đây là việc kết hơn trái pháp luật3. Khi đó, quan hệ vợ chồng
giữa nam và nữ cũng không được pháp luật thừa nhận, điều này có nghĩa, quyền và
nghĩa vụ các bên cũng không phát sinh. Hai bên phải chấm dứt quan hệ như vợ
chồng và có thể bị hủy kết hôn trái pháp luật. Luật HN&GĐ không dành cơ hội cho
các bên trong việc đăng ký kết hôn để được công nhận quan hệ vợ chồng kể từ thời
điểm đó.
Như vậy, theo nguyên tắc chung của pháp luật HN&GĐ, việc nam, nữ chung
sống như vợ chồng, về mặt nhân thân sẽ được giải quyết theo hai trường hợp:
(i) Nam và nữ đủ điều kiện đăng ký kết hôn: Nếu các bên tiến hành đăng ký
kết hơn thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hơn, trước đó
thì pháp luật khơng ghi nhận4.
(ii) Nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn: Mối quan hệ trước đó sẽ được
xem là khơng hợp pháp. Việc được đăng ký kết hôn của hai bên cũng sẽ không

được ghi nhận do không thỏa mãn yêu cầu về điều kiện kết hôn.
Khi không được pháp luật ghi nhận phát sinh mối quan hệ vợ chồng, các
quyền và nghĩa vụ trong cuộc sống hôn nhân cũng không trở thành ràng buộc pháp
lý, chế định như đại diện hay thừa kế giữa vợ và chồng cũng đương nhiên không
được chấp nhận5. Việc giải quyết hệ quả trên chỉ áp dụng đối với mối quan hệ giữa
nam và nữ. Trong quan hệ giữa những người có cùng giới tính chung sống với nhau
như vợ chồng thì khơng được nhắc đến bởi pháp luật không thừa nhận mối quan hệ
này.
Nguyên tắc này vẫn tồn tại ngoại lệ, đó là các trường hợp hơn nhân thực tế,
tuy nhiên, địi hỏi phải đáp ứng các điều kiện nhất định về mối quan hệ và về thời
gian áp dụng. Hôn nhân thực tế là trường hợp nam, nữ trở thành vợ thành chồng
nhưng không đăng ký kết hôn theo Luật HN&GĐ, đồng thời việc chung sống như

3

Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.

4

Trừ trường hợp được công nhận là hôn nhân thực tế.

Lê Thu Trang (2016), “Quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà xin ly
hôn”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số (4 (289), tr.48-52.
5


11
vợ chồng đó khơng trái với điều kiện kết hơn và cấm kết hôn6. Đây là phần nhỏ của
nội hàm sống chung như vợ chồng.
Hôn nhân thực tế chỉ được Nhà nước công nhận khi đáp ứng các điều kiện

nhằm thỏa mãn các yếu tố về lịch sử, tình hình đất nước trước đây. Theo đó, Thơng
tư số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 quy định:
“Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987
(ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hơn,
nếu một bên hoặc cả hai bên có u cầu ly hơn, thì Tồ án thụ lý vụ án và áp dụng
quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly
hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã
được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hơn, thì quan hệ vợ chồng của họ
vẫn được cơng nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như
vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn”.
Như vậy, điều kiện thứ nhất là về mặt thời gian, việc sống chung như vợ
chồng phải được xác lập trước ngày 03/01/1987. Thứ hai, cả nam và nữ phải đảm
bảo yếu tố về điều kiện kết hôn và thực tế chung sống với nhau như mối quan hệ vợ
chồng thực sự. Khi đó, nếu hai bên có ly hơn thì Tịa án vẫn thụ lý và áp dụng Luật
HN&GĐ để giải quyết theo thủ tục như những cặp vợ chồng khác, tức Nhà nước
thừa nhận mối quan hệ này. Mặt khác, nếu sau đó họ đăng ký kết hơn thì quan hệ
hơn nhân vẫn được xác lập từ thời điểm họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ
chồng.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 44 NĐ số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015
cũng có quy định “Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hơn thì được khuyến khích
và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày
các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Thẩm quyền, thủ tục
đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật Hộ
tịch”.
Như vậy, về quan hệ hôn nhân, những người chung sống như vợ chồng mà
đủ điều kiện kết hơn từ trước ngày 03/01/1987 thì được xem có quan hệ hơn nhân

6


Nguyễn Ngọc Diệp (1997), “1200 Thuật ngữ pháp lý Việt Nam”, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.109.


12
trên thực tế. Việc giải quyết hệ quả tương tự như đối với vợ chồng đã đăng ký kết
hôn, vẫn phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đối với quan hệ hộ tịch
cũng tương tự như vậy, thời điểm phát sinh quan hệ vợ chồng là thời điểm cả nam
và nữ phát sinh sự việc chung sống như vợ chồng trên thực tế và không phụ thuộc
vào việc hai bên có tiến hành đăng ký kết hơn hay không và tại thời điểm nào.
Từ các vấn đề trên, việc giải quyết hệ quả pháp lý về nhân thân của việc
nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo pháp luật hiện hành phải căn cứ
vào thời điểm phát sinh sự kiện chung sống trên thực tế, điều kiện kết hơn của cả
hai bên. Điều này góp phần đảm bảo áp dụng đúng các nguyên tắc hay ngoại lệ theo
quy định của pháp luật.
Trên thực tế, việc giải quyết hệ quả về nhân thân vẫn vấp phải những khó
khăn và bất cập nhất định.
Thứ nhất, hiện nay, tình trạng nam, nữ chung sống như vợ chồng mà khơng
đăng ký kết hơn ở Việt Nam cịn khá phổ biến7. Theo báo cáo về số lượng các vụ án
xin ly hơn mà Tịa án khơng cơng nhận là vợ chồng được thống kê từ năm 2006 đến
2016, con số này là không nhỏ cụ thể8:
Tổng số án xin ly hơn mà Tịa án khơng cơng nhận là vợ chồng

Khơng cơng nhận
là vợ chồng

01/10/2006-

01/10/2007-

01/10/2010-


30/09/2008

01/10/200830/09/20010

30/09/2007

2.251

2.336

2.455

3.245

30/09/2016

Tính đến ngày 31/12/2016, theo báo cáo của 56 tỉnh/thành phố, tổng cộng
925.753 trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ sau 3/1/1987
Nguyễn Hữu Minh (2012), “Các mối quan hệ trong gia đình ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm”, Tạp
chí xã hội học, số 04, tr.92.
7

“Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn: Thực trạng, đánh giá và hướng hoàn thiện pháp luật”,
ngày truy cập: 07/9/2021.
8


13
đến trước ngày 1/1/2001 (các đối tượng có nghĩa vụ đăng ký kết hôn theo Điểm b,

Mục 3 của NQ số 35/2000/QH10); trong đó các địa phương đã cấp đăng ký kết hơn
được 623.489 trường hợp (đạt 68%), cịn lại 302.264 trường hợp chưa đăng ký
(chiếm 32%). Đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được
thực hiện theo phong tục, tập quán (kết hơn có sự chứng kiến của gia đình, cộng
đồng dân cư và được những người này thừa nhận)9. Tác giả cho rằng, về ngun
tắc, việc đăng ký kết hơn có những ý nghĩa nhất định về mặt pháp lý và quản lý
hành chính của nhà nước. Các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận thủ tục mang tính
bắt buộc này. Tuy nhiên, các số liệu trên phần nào cho thấy tình trạng nghiêm trọng
của việc chung sống như vợ chồng. Đặc biệt là ở Việt Nam, mức độ dân trí cịn
chưa được đồng đều, người dân ở các vùng núi, vùng sâu vùng xa với khả năng tiếp
cận các vấn đề pháp lý vẫn chưa được đảm bảo10. Các nghi thức cưới hỏi được tổ
chức phổ biến theo phong tục tập quán mà không tiến hành đăng ký kết hôn. Nếu
chỉ áp dụng nguyên tắc chung thống nhất, theo đó, mọi trường hợp khơng đăng ký
kết hơn đều khơng được công nhận là quan hệ vợ chồng hay về mặt nhân thân,
quyền và nghĩa vụ của nam và nữ không được phát sinh và được pháp luật bảo vệ.
Điều này dẫn đến một số hệ lụy, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ - vốn là bên yếu thế trong mối quan hệ chung sống như vợ chồng, họ cần
được tôn trọng, yêu thương và cần được chung thủy.
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới cũng có những ngoại lệ mà khơng căn
cứ vào thời gian phát sinh mối quan hệ. Án lệ của Nhật Bản công nhận hôn nhân
của những người chung sống như vợ chồng nếu được cộng đồng xung quanh thừa
nhận hoặc dựa trên một lý do chính đáng khác11. Tại Hàn Quốc, hôn nhân thực tế
cũng được ghi nhận nếu đáp ứng các điều kiện: (i) thực chất có đời sống vợ chồng,
(ii) cả hai có ý định kết hôn. Tuy nhiên, họ cũng chỉ thừa nhận một phần mối quan
hệ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Trường hợp khơng có người nào thừa kế đối
với người phối ngẫu bị chết thì người cịn lại trong quan hệ hơn nhân thực tế có thể
“Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn: Thực trạng, đánh giá và hướng hoàn thiện pháp luật”,
ngày truy cập: 07/9/2021.
9


“Đưa pháp luật đến gần với người dân vùng sâu, vùng xa”, ngày truy cập: 07/9/2021.
10

Bộ tư pháp (2012), “Những vấn đề lớn cần xin ý kiến của các Bộ, Ngành, Địa phương trong Dự án Luật
sửa dổi, bổ sung một số điều của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 để phục vụ cho xây dựng dự thảo
luật”, tr.10.
11


14
yêu cầu phân chia tài sản12 hoặc được nhận trợ cấp của người kia13. Trường hợp
người thuê nhà bị chết mà khơng có người thừa kế thì người phối ngẫu kết hôn thực
tế sẽ được kế thừa các quyền và nghĩa vụ14. Các quốc gia ở châu Âu cũng tương tự,
họ cũng ghi nhận việc chung sống như vợ chồng thực tế, thậm chí kể cả những
người có cùng giới tính, được thể hiện dưới hình thức kết hợp dân sự chẳng hạn
Vương quốc Anh, Canada, Thụy Điển, …15, tuy nhiên, các quyền và nghĩa vụ giữa
những người này cũng có sự hạn chế nhất định so với mối quan hệ vợ chồng có
đăng ký theo thủ tục được pháp luật quy định16.
Tác giả cho rằng, pháp luật HN&GĐ hiện hành cũng cần có sự tham khảo và
bổ sung đối với các trường hợp hôn nhân thực tế, mở rộng đối tượng khơng chỉ có
những cặp nam, nữ chung sống trước ngày 03/01/1987 mà cịn có thể xem xét các
tiêu chí khác, nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong mối quan hệ này.
Kiến nghị:
Tác giả đề xuất theo hướng thừa nhận hôn nhân thực tế cho các trường hợp
thoả mãn điều kiện: (i) Việc các bên nam nữ sống chung được những người xung
quanh thừa nhận; (ii) Các bên chung sống với nhau trên 10 năm và đã có con chung
hoặc tài sản chung với nhau. Đồng thời xây dựng thêm các điều kiện, chẳng hạn
tình trạng thiếu hiểu biết hay khó khăn trong việc đi đăng ký kết hôn để tránh vấp
phải sự lạm dụng trên thực tế.
Hướng đề xuất này cũng đã được ghi nhận trong pháp luật của một số nước

trên thế giới, như đã đề cập ở đoạn trên. Chẳng hạn như Nhật Bản, thừa nhận quan
hệ vợ chồng đối với các trường hợp chung sống không đăng ký kết hôn khi mối
quan hệ đó được cộng đồng xung quanh thừa nhận hoặc dựa trên một lý do chính

12

Điều 1057 Luật Dân sự Hàn Quốc.

13

Điều 5 Luật bảo hiểm tai nạn lao động của Hàn Quốc.

Kang Ju Won, “De Facto Marriage” under Korean Law”,
marriage-under-korean-law/, ngày truy cập: 07/9/2021.
14

/>
Bộ tư pháp (2012), “Những vấn đề lớn cần xin ý kiến của các Bộ, Ngành, Địa phương trong Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 để phục vụ cho xây dựng dự thảo
luật”, tr.25.
15

Thái Trung Kiên (2005), “Về sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ chung sống như vợ chồng”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 01, tr.27.
16


15
đáng khác hay tại Hàn Quốc, hôn nhân thực tế cũng được ghi nhận nếu đáp ứng các
điều kiện: (i) thực chất có đời sống vợ chồng, (ii) cả hai có ý định kết hơn.

Thứ hai, việc giải quyết hệ quả khi nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987 nhưng có u cầu Tịa án giải quyết từ thời điểm Luật
HN&GĐ 2014 có hiệu lực, trên thực tế còn tồn tại các quan điểm khác nhau như
sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần vận dụng điểm a khoản 3 NQ số
35/2000/NQ-QH10 để giải quyết quan hệ hôn nhân cho các bên. Kết quả là cho hai
bên chung sống như vợ chồng được ly hôn với nhau. Quan điểm thứ hai cho rằng
cần áp dụng Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 để giải quyết. Theo đó, kết quả là
tuyên bô không công nhận quan hệ vợ chồng giữa các bên17. Tuy nhiên, dựa vào chỉ
định áp dụng pháp luật tại khoản 1 Điều 131 Luật HN&GĐ năm 2014 thì “Quan hệ
hơn nhân và gia đình xác lập trước ngày luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật
về hơn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết”. Như vậy, mối quan hệ
về nhân thân sẽ được áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959 hay Luật HN&GĐ năm
2014 để giải quyết? Pháp luật vẫn chưa có câu trả lời cho vấn đề này. Trên thực tế,
việc áp dụng pháp luật của các Tòa án cũng đặt ra nhiều vấn đề chưa thống nhất và
thuyết phục, chẳng hạn:
Tình huống 1: Bản án số 299/2018/HN&GĐ-PT ngày 22/3/2018 của TAND
Thành phố Hồ Chí Minh về việc ly hơn và chia tài sản khi ly hơn. Theo đó, ông S
chung sống như vợ chồng với bà L từ năm 1974 khơng đăng ký kết hơn có 04 con
chung. Đến năm 1979 ông S lại chung sống như vợ chồng với bà M cũng khơng
đăng ký kết hơn, có 05 con chung. Bà L khởi kiện yêu cầu công nhận quan hệ vợ
chồng giữa bà và ông S, đồng thời giải quyết vấn đề về tài sản. Ông S cho rằng giữa
ông và bà L không tồn tại quan hệ hơn nhân. Về quan hệ hơn nhân, Tịa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu ly hôn và chia tài sản khi ly hôn của bà L.
Tại Bản án sơ thẩm, HĐXX thấy rằng việc ông S
chung sống với bà L diễn ra trước năm 1975 dù khơng có đăng ký kết
hôn vẫn được công nhận là hôn nhân thực tế, trong trường hợp có yêu cầu ly

Huỳnh Thị Trúc Giang (2021), “Giải quyết hệ quả của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng theo quy
định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, tập 57, só

3D, tr.246.
17


16
hơn thì được Tịa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn là phù hợp với
điểm a Khoản 3 NQ số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội.
Hiện tại ông S cũng đồng ý chấm dứt hôn nhân với bà L
nhưng ông không đồng ý cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ vợ chồng. Xét
các bên chung sống vào năm 1974 trước khi có Luật HN&GĐ điều
chỉnh nên việc chung sống khơng có đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là
hôn nhân thực tế kể từ thời điểm xác lập quan hệ.
Đối với bà M chung sống năm 1979, quan hệ này tồn tại vào thời điểm
đã có sắc lệnh áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước và Luật HN&GĐ năm
1959 đã có hiệu lực ở Miền Nam. Căn cứ NQ số 76/CP ngày
25/3/1977 về việc công bố Danh mục văn bản pháp luật áp dụng trong cả nước
trong đó có Luật HN&GĐ năm 1959 quy định chế độ một vợ
một chồng, HĐXX xác định việc ơng S chung sống với bà Vịng
là vi phạm, không được công nhận là quan hệ vợ chồng.
Từ cách nhận định của Tịa án, có thể thấy rằng, vụ việc được giải quyết năm
2018, tuy nhiên, Tòa án vẫn áp dụng các quy định của NQ số 35/2000/QH10 và
Luật HN&GĐ năm 2000 để đánh giá về quan hệ hơn nhân trên thực tế.
Tình huống 2: Bản án số 69/2017/DS-ST ngày 14/12/2017 về tranh chấp hợp
đồng vay tài sản của TAND Thành phố Hồ Chí Minh theo đó, Tịa án nhận định
rằng: Bà X, ơng D sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/ 1987
nhưng không có ký kết hơn. Căn cứ vào NQ số: 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 thì
quan hệ hơn nhân của bà X, ơng D là quan hệ hôn nhân thực tế, được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ. Tác giả cho rằng vấn đề này là hợp lý, việc chứng minh mối quan
hệ chung sống như vợ chồng được xác lập tại thời điểm nào là khơng khó, có thể
dựa vào xác minh của chính quyền địa phương như Bản án số 69/2017/DS-ST nêu

trên hoặc dựa vào quan hệ với con chung, tài sản hình thành chung …
Bên cạnh đó, nhận thấy, ơng S có quan hệ chung sống như vợ chồng đối với
cả hai người là bà L và bà M trước ngày 03/01/1987. Tuy nhiên, Tịa án chỉ cơng
nhận mối quan hệ vợ chồng đối giữa ông S và bà L. Đối với bà M, dù có với nhau
05 con chung và chung sống trước ngày 03/01/1987 nhưng Tòa án cấp phúc thẩm
cho rằng, áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959 thì ông S chỉ được quyền có một vợ. Cả
hai người đều chưa được đăng ký kết hơn, do đó, HĐXX chỉ công nhận một người


17
là bà L - người chung sống đầu tiên với ông S là là mối quan hệ vợ chồng. Như vậy,
không phải bất kỳ trường hợp nào chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987
đều được công nhận là hôn nhân thực tế. Cần phải áp dụng pháp luật tại thời điểm
chung sống như vợ chồng để có sự xác định chính xác về bản chất các mối quan hệ.
Tác giả cho rằng, trong trường hợp trên, đối với quan hệ nhân thân, việc Tịa án
khơng cơng nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông S và bà M mặc dù họ chung sống
với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 là hợp lý. Mặc dù ngoại lệ về hôn
nhân thực tế chỉ đề cập đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn trước ngày 03/01/1987 có u cầu ly hơn thì Tịa giải quyết cho ly hôn
theo Luật HN&GĐ, chứ không điều chỉnh nội dung về giải quyết mối quan hệ một
vợ một chồng khi phát sinh sự việc chung sống như vợ chồng với nhiều người. Tuy
nhiên, thời điểm các bên chung sống như vợ chồng là khi Luật HN&GĐ năm 1959
được áp dụng trên phạm vi cả nước, cơng dân có nghĩa vụ phải tuân theo. Việc ghi
nhận ngoại lệ chỉ nhằm giải quyết tình trạng chung sống như vợ chồng q phổ biến
lúc bấy giờ nhưng khơng có nghĩa rằng lợi dụng các ngoại lệ để phá vỡ nguyên tắc
chung về HN&GĐ, chế độ một vợ một chồng trong chính sách pháp luật. Việc chỉ
ghi nhận người đầu tiên có mối quan hệ chung sống như vợ chồng cũng không phải
là không hợp lý, bởi pháp luật không đưa ra tiêu chí xác định, khơng thể đưa ra lập
luận rằng người nào có mối quan hệ gắn bó hơn thì người đó được cơng nhận là vợ
chồng. Bởi việc chứng minh là rất khó khăn, hơn nữa, mối quan hệ tình cảm hay

con cái rất khó có thể xác định được. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, cũng không nên
cứng nhắc mà cần đưa ra nhiều tiêu chí để chứng minh, chọn người đầu tiên để công
nhận quan hệ vợ chồng chỉ nên là giải pháp khi có căn cứ các mối quan hệ đều được
duy trì đến thời điểm hiện tại. Do đó, hướng xử lý như TAND Thành phố Hồ Chí
Minh cũng chỉ tương đối hơp lý. Cịn về mặt tài sản, nội dung này sẽ được phân tích
và trình bày ở chương 2.
Bên cạnh đó, nếu trường hợp một người chung sống như vợ chồng với nhiều
người trước ngày 03/01/1987, có một người có tiến hành đăng ký kết hơn, sau đó,
khi phát sinh tranh chấp thì quan hệ như vợ chồng với người chưa đăng ký kết hơn
trước ngày 03/01/1987 có được thừa nhận hay khơng18. Tác giả cho rằng, Luật
HN&GĐ cần có hướng dẫn để điều chỉnh nội dung này, khi mà các tranh chấp thực
Lê Vĩnh Châu (Chủ biên) (2018), Sách tình huống Luật Hơn nhân và gia đình (Bình luận bản án), Nhà
xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.345.
18


18
tế về HN&GĐ phát sinh ngày càng phổ biến và phức tạp. Việc giải quyết hệ quả về
hơn nhân có tác động rất lớn đến việc giải quyết hệ quả về con chung và tài sản. Do
đó, cần có một quy định để trả lời cho các câu hỏi (i) về luật áp dụng nếu hai bên
chung sống như vợ chồng trước 03/01/1987, (ii) trường hợp sống chung như vợ
chồng với nhiều người trước ngày 03/01/1987.
Kiến nghị:
Tác giả đề xuất, bổ sung quy định ngoại lệ tại Điều 14 Luật HN&GĐ năm
2014 như sau:
“Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà
không đăng ký kết hôn thì Tịa án cơng nhận quan hệ hơn nhân nếu các bên có yêu
cầu và các bên phải đảm bảo điều kiện kết hôn tại thời điểm chung sống. Tranh
chấp phát sinh áp dụng pháp luật tại thời điểm chung sống như vợ chồng để giải
quyết.

Trường hợp chung sống như vợ chồng với nhiều người trước ngày
03/01/1987 mà đều không đăng ký kết hơn thì về quan hệ nhân thân, người nào có
căn cứ chứng minh việc sống chung như vợ chồng đầu tiên thì được xem là hơn
nhân thực tế hợp pháp”.
Ngồi ra, thực tế cịn cho thấy, nhiều trường hợp khó xác định được thời
điểm chung sống như vợ chồng giữa các bên. Họ thường xuất trình các giấy tờ như
khai sinh của con hay sổ hộ khẩu hoặc xác nhận của UBND nơi cư trú. Tuy nhiên,
nhiều trường hợp cho thấy, các mốc thời gian đó lại khác xa so với thực tế chung
sống, làm ảnh hưởng đến vấn đề xác định các tranh chấp về tài sản hay nhân thân.
1.2. Giải quyết quyền lợi của con chung.
Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không chỉ tác động đến mối quan hệ
giữa các bên mà còn ảnh hưởng đến những chủ thể khác trong xã hội, trong đó, vấn
đề con chung ln trở thành nội dung cấp thiết cần được quan tâm.
Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng trong trường hợp nào thì việc giải
quyết hệ quả về con chung cũng cần phải được đặt ra. Con của cặp đôi nam, nữ
chung sống như vợ chồng vẫn được pháp luật đảm bảo các quyền nhất định. Khoản
1 Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản,


19
nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và
Điều 16 của Luật này”.
Việc giải quyết hệ quả về con chung chỉ áp dụng đối với trường hợp con ruột
của nam và nữ chung sống như vợ chồng, không đặt ra đối với con nuôi hay con
riêng của một bên nam, nữ. Bởi, đối với con nuôi, việc nhận nuôi con nuôi phải đảm
bảo các yêu cầu theo Luật Nuôi con nuôi, điều kiện để một cặp đôi nam, nữ nhận
nuôi con ni là họ phải có xác nhận về tình trạng hơn nhân, tức có giấy đăng ký
kết hơn, nếu khơng, chỉ một bên nam hoặc nữ được nhận nuôi con ni, khi đó,
quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ phát sinh đối với mối quan hệ đã được đăng ký và
không đặt ra đối với người kia. Đối với cha dượng hay mẹ kế cũng tương tự như

vậy. Điều 15 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật
này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”. Như vậy, việc nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không làm ảnh hưởng đến mối quan
hệ giữa họ đối với con. Con vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ của mình
và vẫn được quyền đòi hỏi cha mẹ phải đáp ứng các quyền và nghĩa vụ theo pháp
luật quy định. Điều này có nghĩa, “con sinh ra khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn
nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được
quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan”19. Dù khơng
phải là vợ chồng được pháp luật công nhận, tuy nhiên, họ vẫn là cha và mẹ của con,
do đó, họ phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học
tập, giáo dục con để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức để trở
thành người con hiếu thảo của gia đình và cơng dân có ích cho xã hội. Bên cạnh đó,
cha mẹ phải có nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của con, đảm bảo cho con có điều kiện học tập, vui chơi lành mạnh, giúp
con phát triển được toàn diện. Nếu vì bất kỳ lý do nào kể cả liên quan đến hôn nhân
của cha mẹ, cha mẹ đều phải đảm bảo cho con không bị phân biệt đối xử. Khi
không cịn sống chung với con, cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
đến khi con trưởng thành hoặc khơng cịn tình trạng mất năng lực hành vi dân sự
nữa. Về vấn đề này, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phát sinh một số bất cập,
vướng mắc sau:

19

Khoản 2 Điều 68 Luật HN&GĐ năm 2014.


20
Thứ nhất, khó khăn trong việc xác định con chung của hai người nam và nữ.
Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng và có con chung khá phổ biến. Cũng

chính vì việc khơng đăng ký kết hơn nên việc xác định cha và mẹ về mặt pháp luật
cũng khá khó khăn. Thế nên, khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đôi khi
lại trở thành rào cản nếu như người cha hoặc mẹ cố tình khơng thực hiện. Do đó,
vấn đề giải quyết hệ quả về con chung cũng cịn đặt ra khá nhiều khó khăn, pháp
luật thể hiện sự dứt khoát trong việc giải quyết hệ quả về hơn nhân nhưng đối với
con chung, cần có những biện pháp pháp lý mang tính rõ ràng hơn.
Ngày 28/5/2020 Bộ Tư pháp ban hành thông tư số 04/2020/TT-BTP quy định
chi tiết thi hành một số điều của LHT và NĐ số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015.
Việc xác định họ, dân tộc, đặt tên cho trẻ em phải phù với pháp luật và yêu
cầu giữ gìn bản sắc dân tộc, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam
khơng đặt tên quá dài, khó sử dụng.
“Trong trường hợp khai sinh cho con ngồi giá thú, nếu khơng xác định được
người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh
để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Ủy ban nhân
dân cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”.
Như vậy, khi chung sống như vợ chồng, việc đăng ký khai sinh cho con cũng
gặp nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp giấy chứng sinh có ghi được tên cha, nhưng
do đang trong quan hệ hôn nhân hợp pháp với người khác mà các giấy tờ cho con
không đảm bảo công nhận mối quan hệ cha con mà phải có phán quyết của Tòa án.
Chẳng hạn: Bản án số 72/2019/HN&GĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp
xác định cha cho con của TAND tỉnh Bắc Giang. Theo đó, chị H sống như vợ
chồng và có con với ông J, nhưng khi mang thai cháu T với ơng J thì chị H đang
trong mối quan hệ hơn nhân với anh K, do đó, dù giấy chứng sinh ghi nhận cha
cháu T là anh J nhưng thực tế về mặt pháp lý, anh J chưa phải là cha cháu T và phải
nhờ Tòa án phán quyết bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh đó, đôi khi việc chung sống như vợ chồng với người khác trở thành
hành vi vi phạm pháp luật, con sinh ra trong giai đoạn này dễ phát sinh tranh chấp
về việc con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hay con về mặt huyết thống. Rất nhiều
trường hợp phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án đối với việc xác định cha cho con.



×