Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hủy bản án quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.04 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÙI THÁI NGỌC HUYỀN

HỦY BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH SƠ THẨM
THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HỦY BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH SƠ THẨM
THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp Và Luật Hành Chính
Định hướng nghiên cứu
Ms: 8380102

Người hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
Học viên: Bùi Thái Ngọc Huyền
Lớp: Cao học Luật, khố 28

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Hủy bản án, quyết
định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam” là
cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm. Luận văn có sử dụng, trích dẫn các ý kiến và quan
điểm khoa học của một số tác giả, các thông tin được sử dụng trong Luận văn đều
được trích dẫn từ nguồn cụ thể và chính xác, các số liệu thơng tin được sử dụng là
hồn tồn khách quan và trung thực.
Tác giả

Bùi Thái Ngọc Huyền


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ HỦY BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH SƠ THẨM THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH ........................................................................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng hành chính ............................................................. 6
1.1.1. Khái niệm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm
trong tố tụng hành chính............................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm
trong tố tụng hành chính............................................................................. 12
1.2. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử lại......................................................................................................... 15
1.3. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án ....................... 20
1.4. Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án ........................................ 24

Tiểu kết Chương 1............................................................................................. 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HỦY BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH SƠ THẨM
THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN............. 32
2.1. Thực trạng hủy bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại ............................................................... 32
2.1.1. Vi phạm trong việc xác định tư cách đương sự và đưa thiếu người
tham gia tố tụng .......................................................................................... 34
2.1.2. Vi phạm trong việc xác định khơng đúng người có quyền khởi kiện . 36
2.1.3. Vi phạm trong việc xác định sai đối tượng khởi kiện ........................ 37
2.1.4. Vi phạm trong việc xác định thời hiệu khởi kiện ............................... 38
2.1.5. Vi phạm trong việc giải quyết các yêu cầu khởi kiện ........................ 39
2.1.6. Vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật
.................................................................................................................... 41


2.1.7. Một số lý do khác dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm......................... 44
2.2. Thực trạng hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án .... 46
2.3. Thực trạng hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án ....................... 49
2.3.1. Vi phạm do xác định sai lý do tạm đình chỉ ...................................... 49
2.3.2. Vi phạm quy định về xác định thời hiệu khởi kiện, dẫn đến đình chỉ
giải quyết u cầu khởi kiện khơng có căn cứ ............................................ 50
2.3.3. Vi phạm quy định về đình chỉ giải quyết vụ án không đúng quy định,
làm mất quyền khởi kiện của đương sự ...................................................... 51
2.4. Kiến nghị hoàn thiện.............................................................................. 51
2.4.1. Hồn thiện pháp luật về tố tụng hành chính nhằm bảo đảm việc giải
quyết các vụ án hành chính tại Tòa án hiệu quả hơn ................................. 51
2.4.2. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, Thẩm phán ..................................................................................... 58
2.4.3. Đổi mới và hồn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với cán bộ,

Thẩm phán Tòa án nhân dân ...................................................................... 59
2.4.4. Bảo đảm cơ sở vật chất, trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc
phục vụ hoạt động xét xử án hành chính .................................................... 60
2.4.5. Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội .......................................................... 61
2.4.6. Tăng cường năng lực tranh tụng cho luật sư .................................... 61
2.4.7. Tăng cường hoạt động kiểm tra của Tòa án cấp trên trong việc xét xử
án hành chính ............................................................................................. 62
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 64
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp là vấn đề đang
được Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm, nhất là trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá mọi mặt đời sống
xã hội hiện nay. Vụ án hành chính được giao cho Tịa án giải quyết từ ngày
01/7/1996 theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày
21/5/1996, được sửa đổi bổ sung bằng Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính số 10/1998/PLUBTVQH10 và Pháp lệnh số 29/2006/PL-UBTVQHQ11. Tuy nhiên, thực tiễn
giải quyết các vụ án hành chính cho thấy những quy định của Pháp lệnh có
những bất cập, quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, có
những quy định thiếu rõ ràng và chưa đầy đủ, chưa đảm bảo thiết thực quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức. Chính vì thế, ngày 24/10/2010, Luật Tố
tụng hành chính được ban hành đã có những thay đổi cơ bản so với các Pháp
lệnh trước đây, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Qua
hơn 3 năm thi hành, Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cũng đã bộc lộ hạn chế,
gây khó khăn cho việc giải quyết, xét xử án hành chính, chưa đảm bảo được nội
dung tranh tụng tại Tòa án, nên đồng thời để đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống
pháp luật sau khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
được Quốc hội thông qua, ngày 25/11/2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015
được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng
cho thấy, một số quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 xuất hiện các
vướng mắc do chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật nhằm hướng dẫn thống nhất về nhận thức và áp dụng. Điều
này dẫn đến án hành chính bị hủy có xu hướng tăng. Việc hủy án dẫn đến kéo dài
thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động quản lý nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các cá nhân và tổ chức. Chủ
trương, chính sách xây dựng pháp luật là ngày càng hoàn thiện, đề cao và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân vì vậy xu hướng chung là các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về trình tự thủ tục ngày càng chặt chẽ, nâng cao trách


2

nhiệm của cán bộ cơng chức, siết chặt quy trình, nhưng tình hình hiện nay, các
khiếu kiện tại Tịa án ngày càng nhiều mà kết quả giải quyết lại đạt tỉ lệ thấp.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu các căn cứ dẫn đến hủy bản án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm là một vấn đề cần thiết. Vấn đề này cũng
được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Theo Công điện số 01/2018/CT-CA
ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính; Chỉ thị số 03/2018/CT-CA
ngày 05/12/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính; Chỉ thị số 01/2020/CT-CA
ngày 09/01/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao về việc triển khai, tổ

chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm cơng tác năm 2020 của các Tịa án và
Nghị quyết số 55/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về hoạt động chất
vấn tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV đã nêu rõ “Đối với việc xét xử các vụ
án hành chính, cần nâng cao tỷ lệ xét xử, hạn chế thấp nhất việc để án quá hạn
theo quy định của pháp luật, việc hủy án, sửa án do nguyên nhân chủ quan…”
Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ
tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam” để nghiên cứu làm Luận văn
Thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về đề tài hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố
tụng hành chính hiện chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu, tuy nhiên có một số
cơng trình nghiên cứu về thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm như:
- Trần Văn Quán (2013), “Giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc
thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong Luận văn này, tác giả đã nêu những vấn đề
lý luận, pháp lý về giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm của Tịa
án nhân dân cấp tỉnh, đồng thời trình bày những thực trạng và giải pháp kiến
nghị hoàn thiện giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh.
- Nguyễn Thùy Linh (2013), “Thủ tục phúc thẩm vụ án hành chính: Từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật


3

Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu thủ tục phúc thẩm vụ án hành
chính quy định trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và các văn bản hướng
dẫn; đưa ra một số điểm mới khắc phục những điểm chưa phù hợp của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 được sửa đổi bổ sung năm
1998 và năm 2006. Đồng thời chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong xét

xử phúc thẩm vụ án hành chính và kiến nghị hồn thiện để nâng cao hiệu quả xét
xử vụ án hành chính.
- Đổng Nữ Hoàng Hương (2018) “Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc
thẩm trong tố tụng hành chính”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong Khóa luận này, tác giả làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và pháp lý về thẩm quyền Hội đồng xét xử phúc thẩm trong vụ án hành chính,
chỉ ra những bất cập tồn tại và đưa ra kiến nghị hồn thiện pháp luật. Tuy khóa
luận có đề cập đến những lý do Tòa án cấp phúc thẩm hủy án nhưng chỉ nêu nội
dung cơ bản, chưa đi sâu, phân tích các vấn đề.
- Tương tự là Khóa luận tốt nghiệp “Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử
hành chính của Tòa án nhân dân” của tác giả Nguyễn Văn Bường (2006), Khóa
luận tốt nghiệp “Xét xử các vụ án hành chính theo trình tự phúc thẩm” của tác giả
Trịnh Thị Hồng Giang Châu (2008) và Khóa luận tốt nghiệp “Thẩm quyền xét xử
phúc thẩm vụ án hành chính của tòa án nhân dân” của tác giả Lê Thị Thảo (2015)
- Đặng Ánh (2003), “Vì sao bản án hành chính sơ thẩm bị huỷ?”, Tạp chí
Tịa án nhân dân số 08/2003. Trong bài viết này, tác giả đưa ra một vụ án hành
chính cụ thể, nêu lên các sai sót trong bản án sơ thẩm, các căn cứ dẫn đến việc Tòa
phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại.
Các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến nội dung về trình tự
thủ tục, thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm, bên cạnh đó đã có tính gợi mở về vấn đề hủy án. Tuy nhiên chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ các căn cứ dẫn đến việc
huỷ bản án, quyết định sơ thẩm. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu, đánh
giá toàn diện trên cơ sở khoa học pháp lý hành chính hiện hành để tìm ra
phương hướng hồn thiện trong tương lai nhằm nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính.


4


3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu về các căn cứ dẫn đến việc hủy bản án,
quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam.
Đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc về quan điểm của người
tiến hành tố tụng và trong quá trình áp dụng pháp luật khi xét xử. Để sau đó đưa
ra các kiến nghị về pháp luật và các giải pháp để nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính, giảm thiểu số lượng án bị hủy, sửa theo thủ tục phúc thẩm.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Trình bày lý luận về khái niệm, đặc điểm hủy bản án, quyết định sơ
thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính
+ Các căn cứ pháp lý khi hủy bản án và quyết định sơ thẩm
+ Nghiên cứu về các vi phạm trong thực tiễn dẫn tới hủy bản án và quyết
định sơ thẩm
+ Đề xuất một số kiến nghị nhằm giúp cho việc giải quyết các vụ án hành
chính được đảm bảo hơn.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các căn cứ dẫn đến việc hủy bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính
Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá, phân tích các bản án của Tịa án nhằm xem xét các
căn cứ dẫn đến việc hủy các bản án, quyết định sơ thẩm tại Việt Nam để đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của pháp luật
về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành
chính Việt Nam.



5

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu như phương
pháp luận của chủ nghĩa Mac Lenin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết
hợp với phương pháp logic hệ thống, phương pháp luận giải, phương pháp so
sánh để tìm ra điểm tiến bộ và hạn chế của quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá những vấn đề cần thiết và tổng kết thực tiễn
làm cơ sở cho những kiến nghị khi thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng của đề tài
Việc hoàn thành đề tài “Hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam” là cơ sở để xây dựng pháp luật ngày
càng hoàn thiện, giảm, tránh các sai sót, hạn chế để có thể dẫn tới việc Hội đồng
xét xử phúc thẩm hủy quyết định, bản án sơ thẩm. Đồng thời đúc kết các kinh
nghiệm thực tiễn, căn cứ pháp luật để từ đó nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ án hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp lý về hủy bản án, quyết định sơ
thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính.
Chương 2. Thực trạng hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc
thẩm và kiến nghị hoàn thiện.


6

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ HỦY BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH SƠ THẨM THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ
tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính
1.1.1. Khái niệm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm
trong tố tụng hành chính
- Khái niệm hoạt động xét xử hành chính
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc
nhằm trên cơ sở so sánh các hành vi pháp lý của các chủ thể pháp luật với các
quy phạm pháp luật, từ đó nhân danh Nhà nước phán xét tính đúng đắn, hợp
pháp của hành vi, đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất vụ việc, góp
phần bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật, bảo vệ trật tự quản
lý nhà nước.
Cũng theo quy định, thẩm quyền xét xử được trao cho Tòa án, Tòa án
được quyền nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết đối với những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của mình.
Xét xử hành chính là một giai đoạn của tố tụng hành chính. Theo đó, Tịa
án đưa vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của mình xét xử cơng khai
tại phiên tịa khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật. Trong tố tụng hành
chính, xét xử là giai đoạn trung tâm.
Mục đích của xét xử hành chính là xem xét tính hợp pháp hay khơng hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, có hay khơng thiệt hại do
quyết định hành chính, hành vi hành chính gây ra cho cá nhân, tổ chức.
Xét xử hành chính được tuân thủ theo nguyên tắc hai cấp xét xử, chế độ
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm, trừ trường hợp xét xử vụ án hành
chính đối với khiếu kiện danh sách cử tri. Trong phạm vi đề tài này tác giả tập
trung đi sâu vào giai đoạn xét xử hành chính theo trình tự phúc thẩm.
- Khái niệm xét xử án hành chính theo trình tự phúc thẩm



7

Theo từ điển Hán – Việt thì cụm từ “phúc thẩm” khơng được giải nghĩa, để
hiểu được thì phải ghép nghĩa của hai từ “phúc” có nghĩa là “lật lại, úp lại, xét
kỹ”; “thẩm” có nghĩa là “xử đoán”.1
Theo từ điển Tiếng Việt thì phúc thẩm có nghĩa là “Tịa án cấp trên xét xử
lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án”.2
Theo Điều 203 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì “xét xử phúc thẩm
là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tịa án
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.”
Dưới góc độ là giai đoạn phúc thẩm thì phúc thẩm được hiểu là giai đoạn
của q trình tố tụng hành chính, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại các
bản án quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.
Thủ tục phúc thẩm được bắt đầu khi có căn cứ là kháng cáo của đương sự
hoặc kháng nghị của Viện Kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật trong một thời hạn nhất định. Phúc thẩm không
phải là lần xét xử thứ hai. Thủ tục phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm
và mục đích của thủ tục phúc thẩm là xem xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ
của bản án, quyết định sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm mang những đặc điểm riêng để phân biệt với
giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể:
+ Cơ sở tiến hành giai đoạn xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng cáo,
kháng nghị đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật.
+ Phiên tòa, phiên họp phúc thẩm của Tịa án để xét xử lại một vụ án hành
chính mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
+ Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành chính do Tịa án cấp phúc
thẩm trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sơ thẩm vụ án hành chính

tiến hành.
1
2

Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nhà xuất bản Trường Thi, Sài Gịn
Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng Hà Nội


8

+ Mục đích của giai đoạn xét xử phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và
tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở đánh giá chứng cứ đã
thu thập được ở cấp sơ thẩm và xem xét những chứng cứ mới thu thập trong quá
trình giải quyết ở cấp phúc thẩm để xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của
bản án, quyết định sơ thẩm.
+ Phạm vi của xét xử phúc thẩm là những nội dung bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị hoặc những phần bản án, quyết định sơ thẩm có
liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Đối với những nội dung chưa được giải
quyết tại cấp sơ thẩm sẽ không được xem xét tại cấp phúc thẩm, bởi điều này sẽ
vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử.
+ Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong
việc kiểm tra, đánh giá được chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm.
Những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tịa án sơ thẩm thơng qua giai đoạn xét xử
phúc thẩm sẽ được phát hiện kịp thời trước khi bản án, quyết định được thi hành
trên thực tế. Thơng qua q trình đó có thể giúp cho quá trình áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử giữa các tòa án địa phương một cách thống nhất.
- Khái niệm thẩm quyền xét xử phúc thẩm án hành chính
Thẩm quyền là một khái niệm quan trọng của khoa học pháp lý. Theo từ
điển Tiếng Việt, thẩm quyền là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn

đề theo pháp luật”. 3
Theo từ điển luật học thì thẩm quyền là “quyền chính thức được xem xét
để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề. Thẩm quyền của Tòa án là
“quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án (bao gồm ra bản án và các quyết định
khác) trong hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật”.4
Thẩm quyền trong tố tụng hành chính được hiểu là tập hợp các quy định
pháp luật tố tụng hành chính liên quan đến việc giao vụ án cho Tòa án cấp nào
giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra quyết định của Tòa án
Trung tâm Từ điển học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản tư pháp và Nhà xuất bản Từ
điển bách khoa
3
4


9

trong quá trình giải quyết vụ án. Chế định về thẩm quyền của Tòa án bao gồm
các nội dung sau:
Một là, thẩm quyền về xét xử, để xác định Tòa án nào có thẩm quyền xét
xử một vụ án cụ thể.
Hai là, phạm vi xét xử của Tòa án đối với một vụ án cụ thể.
Ba là, thẩm quyền để quyết định, để xác định quyền hạn giải quyết những
vấn đề những nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc
xét xử.
Thẩm quyền của Tịa án có thể phân thành thẩm quyền về mặt hình thức
và thẩm quyền về mặt nội dung. Thẩm quyền về mặt hình thức được thể hiện ở
thẩm quyền về xét xử, để xác định Tịa án nào có thẩm quyền xét xử một vụ án
cụ thể và phạm vi xét xử của Tòa án đối với một vụ án cụ thể. Thẩm quyền về
mặt nội dung được thể hiện ở thẩm quyền để quyết định, để xác định quyền hạn

giải quyết những vấn đề những nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề
đảm bảo cho việc xét xử.
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của Tịa án được hiểu là
quyền lực nhà nước được trao cho Tòa án để xem xét lại các bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo quy định tại Luật Tổ chức Tịa án năm 2002 thì thẩm quyền xét xử
phúc thẩm là của Tòa án nhân dân tối cao và tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Nhưng tại Luật Tổ chức Tịa án năm 2014 thì thẩm quyền
xét xử phúc thẩm có sự đổi mới khi thuộc về Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Khi xét xử phúc thẩm các vụ án hành chính, nội dung thẩm quyền xét
xử phúc thẩm của Tòa án được thực hiện chủ yếu thông qua thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm được thể hiện
như sau:
Thứ nhất, bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của
bản án, quyết định sơ thẩm. Điều này cho thấy không phải mọi trường hợp các
bản án, quyết định sơ thẩm bị đương sự kháng cáo và Viện Kiểm sát nhân dân


10

kháng nghị đều vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm có căn cứ, đúng pháp luật,
phù hợp với các tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án thì rõ ràng việc kháng
cáo, kháng nghị là khơng có cơ sở để chấp nhận.Trong trường hợp này, Hội đồng
xét xử phúc thẩm có quyền bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án,
quyết định sơ thẩm.
Thứ hai, sửa bản án. Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án trong các
trường hợp sau: Hồ sơ vụ án thể hiện các chứng cứ của vụ án đã được thu thập
đầy đủ, xác minh rõ ràng nhưng bản án có nội dung trái pháp luật, khơng phù

hợp với các tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án; Hoặc việc xác minh thu
thập chứng cứ chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm, có chứng cứ mới được
bổ sung tại cấp phúc thẩm cho thấy bản án trái pháp luật, không phù hợp với các
tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án.
Tùy trường hợp mà Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa một phần hoặc
tồn bộ bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án bị sửa một
phần thì các phần khác của bản án vẫn giữ nguyên hiệu lực.
Thứ ba, hủy bản án, quyết định sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy
bản án, quyết định sơ thẩm trong các trường hợp sau:
(1) Hủy bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp
sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
hoặc việc xác minh thu thập chứng cứ khơng đầy đủ mà Tịa án cấp phúc thẩm
khơng thể bổ sung được.
(2) Hủy bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu trong
quá trình xét xử phúc thẩm có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính như người khởi kiện là cá nhân đã chết
mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế, Người khởi kiện rút đơn khởi
kiện, người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt...
(3) Hủy bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu trước
khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện rút đơn khởi
kiện, người bị kiện đồng ý việc rút đơn khởi kiện của người khởi kiện. Vấn đề
này được Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định tại Khoản 1 Điều 235.


11

Thứ tư, đình chỉ giải quyết vụ án hành chính theo trình tự phúc thẩm.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thì Tịa án cấp phúc thẩm
được quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm trong
những trường hợp cụ thể sau:

(a) Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình tự phúc
thẩm, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện Kiểm sát nhân dân rút tồn
bộ kháng nghị thì Tịa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong trường
hợp này thì bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
(b) Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính nếu việc xét xử phải có mặt người kháng cáo và họ đã được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng. Đối với trường
hợp vụ án có nhiều người kháng cáo thì Tịa án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm
nhưng không xem xét nội dung kháng cáo của người kháng cáo đã được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng. Điều này có ý
nghĩa rằng pháp luật quy định các đương sự có quyền kháng cáo nhưng trong
q trình thực hiện quyền kháng cáo của mình vẫn phải có những nghĩa vụ nhất
định. Nếu họ không thực hiện các nghĩa vụ của mình thì sẽ khơng được Tịa án
tiếp tục bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, coi như họ đã tự mình từ
bỏ quyền kháng cáo mà pháp luật đã quy định cho họ.
Như vậy có thể khái quát lên rằng: Hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo
thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hành chính là thẩm quyền của Tịa án cấp phúc
thẩm được thực hiện chủ yếu thông qua thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Theo đó, Hội đồng
cấp phúc thẩm có thể hủy bản án, quyết định sơ thẩm trong trường hợp có vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh thu thập chứng cứ
khơng đầy đủ mà tịa án cấp phúc thẩm khơng thể bổ sung được; Hoặc trong quá
trình xét xử phúc thẩm có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
143 của Luật Tố tụng hành chính; Hoặc trong quá trình xét xử phúc thẩm nếu
trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện rút đơn
khởi kiện, người bị kiện đồng ý việc rút đơn khởi kiện của người khởi kiện theo
quy định tại Khoản 1 Điều 235 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.


12


1.1.2. Đặc điểm về hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm
trong tố tụng hành chính
1.1.2.1. Đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật
Việc hủy bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng
hành chính là một bước trong quy trình áp dụng pháp luật của Tịa án, mang đầy
đủ các đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung, cụ thể:
* Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
Hoạt động áp dụng pháp luật do những cơ quan nhà nước hay nhà chức
trách có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Áp
dụng pháp luật được xem là thể hiện ý chí Nhà nước trong quá trình điều chỉnh
pháp luật, áp dụng pháp luật có trường hợp cịn phục vụ cho cả những mục đích
chính trị nhất định. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải vừa phù hợp với pháp
luật thực định và đồng thời cịn phải phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà
nước trong từng thời kỳ. Áp dụng pháp luật mang tính chất bắt buộc đối với
người bị áp dụng.
* Áp dụng pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và có hình
thức theo quy định của pháp luật.
Không phải việc áp dụng pháp luật nào cũng mang lại lợi ích cho chủ thể
bị áp dụng. Hệ quả của việc áp dụng pháp luật có thể làm cho chủ thể bị áp dụng
pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi nên trong pháp luật ln có sự xác
định rõ ràng về điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quá trình áp dụng pháp luật, tránh việc áp dụng pháp luật một cách tùy
tiện, khơng đúng, khơng chính xác gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho chủ
thể bị áp dụng pháp luật.
* Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối
với những quan hệ xã hội nhất định.
Mục đích của áp dụng pháp luật là cá biệt hoá các quy phạm pháp luật
trong những điều kiện cụ thể. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung thông
qua hoạt động áp dụng pháp luật sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành

quy tắc xử sự cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể đối với những chủ thể cụ thể.


13

Đương nhiên quy tắc xử sự cụ thể có được do việc áp dụng pháp luật không
được trái với quy tắc xử sự chung đã nêu trong pháp luật.
* Áp dụng pháp luật địi hỏi sự sáng tạo trong khn khổ pháp luật quy định.
Khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền
phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó
lựa chọn quy phạm, ra quyết định áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong
trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng
một cách sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp luật tương tự
để giải quyết vụ việc. Để thực hiện được điều đó, địi hỏi người áp dụng pháp
luật phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong
phú, có đạo đức và có tay nghề cao.
1.1.2.2. Đặc điểm đặc thù trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính cịn
mang một số đặc điểm đặc thù, cụ thể:
- Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
của Tịa án được tiến hành theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong những đặc
trưng cơ bản. Tuy nhiên, xét xử độc lập khơng có nghĩa là xét xử tùy tiện mà
việc xét xử phải tuân thủ các quy định của pháp luật, trong khuôn khổ của pháp
luật. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tn theo pháp luật để được độc lập.
Nếu khơng có sự độc lập trong hoạt động xét xử thì sự tn theo pháp luật chỉ là
hình thức và khơng có hiệu quả.
- Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính của
Tịa án do các Thẩm phán tiến hành. Hoạt động áp dụng pháp luật của Thẩm phán
Tịa án nhân dân mang tính riêng biệt và chỉ có ở Tịa án nhân dân, thể hiện được

tính quyền lực nhà nước, tính mẫu mực trong việc thực hiện pháp luật, nghiêm khắc
và có cả sự nhân đạo, bao dung, độ lượng, khoan hồng.
- Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
của Tịa án nhân dân hồn tồn khác với các hoạt động áp dụng của các cơ
quan nhà nước khác và được tiến hành chủ yếu tại phiên tòa. Bản án, quyết
định của Tòa án chỉ được căn cứ vào chứng cứ đã được Hội đồng xét xử kiểm


14

tra, thẩm tra, đánh giá tại phiên tòa một cách toàn diện, cẩn trọng và thực sự
khoa học.
- Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có
sự tham gia, giám sát của xã hội, của báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội. Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định quyền lực nhà nước ta là thống nhất thuộc về nhân
dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo Tịa án thực
hiện tốt trách nhiệm của mình thì cơng tác kiểm tra, giám sát việc tn thủ pháp
luật của Tịa án vơ cùng quan trọng. Hoạt động giám sát của người dân đối với
hoạt động xét xử của Nhà nước được tiến hành thông qua các kênh như tiếp xúc
cử tri của Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc...
Phương thức giám sát chủ yếu là kết hợp chặt chẽ giữa hình thức nghe báo cáo và
xem xét, kiểm tra trên thực tế. Trong báo cáo của Tòa án, nếu xét thấy cần thiết thì
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc có quyền đưa ra ý kiến phản biện
và u cầu Tịa án giải trình. Kết quả của hoạt động giám sát, nếu phát hiện những
hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động xét xử thì kiến nghị khắc phục, sửa chữa.
- Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có
sự tham gia của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp trên địa bàn.
Bổ trợ tư pháp là việc trợ giúp, tạo điều kiện cho các hoạt động tư pháp
tiến hành một cách thuận lợi, nhanh chóng và chính xác trong q trình Tịa án
thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án, đồng thời giúp cho các tổ chức, cá nhân bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp có thể xác định là các hoạt động liên quan đến
lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài
sản và thừa phát lại…Các hoạt động này gắn liền với các cơ quan như Đoàn Luật sư
tỉnh, Thừa phát lại, Trung tâm trợ giúp pháp lý, Trung tâm giám định pháp y, Cơ
quan thi hành án dân sự, tổ chức công chứng...Đặc biệt, các hoạt động bổ trợ tư
pháp liên quan đến hoạt động tư vấn pháp luật, công chứng, thừa phát lại,... đang
dần được xã hội hóa, khả năng tiếp cận các hoạt động bổ trợ tư pháp này của người
dân cũng ngày được phổ biến, rộng rãi hơn.
Việc xét xử của Tịa án khơng phải lúc nào cũng hồn tồn chính xác,
những sai lầm có thể xảy ra. Việc hủy bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp


15

phúc thẩm là cơ hội để Tòa án khắc phục những sai lầm của mình, bảo đảm kết
quả của việc xét xử đạt được sự chính xác, khách quan nhất, hợp pháp và công
bằng. Đồng thời, chế độ xét xử hai cấp được bảo đảm, đương sự có quyền thể
hiện thái độ, quan điểm của mình đối với bản án, quyết định của Tòa án nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thơng qua cơ chế quyền kháng cáo.
Thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử hai cấp, Tòa án cấp sơ thẩm
cũng kịp thời nhận thức được nguyên nhân của những sai lầm, rút kinh nghiệm,
giúp cho q trình hồn thiện hơn trong công tác xét xử cũng như các hoạt động
tố tụng của Tòa án.
1.2. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử lại
Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
lại là thẩm quyền về mặt nội dung của Tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện
thông qua thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Theo quy định tại Khoản
3 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có

quyền: “Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét
xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc phải
thu thập chứng cứ mới quan trọng mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung
ngay được.”
Như vậy có hai trường hợp khi xem xét các bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị có thể bị hủy và xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ
tục tố tụng.
Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là kết quả của hoạt động áp
dụng pháp luật trong giải quyết các khiếu kiện hành chính. Yêu cầu cơ bản của
hoạt động áp dụng pháp luật là phải tuân theo những hình thức và trình tự, thủ
tục chặt chẽ mà pháp luật đã quy định, nhằm tránh việc áp dụng pháp luật một
cách tùy tiện, khơng đúng, khơng chính xác gây thiệt hại cho chủ thể bị áp dụng
pháp luật. Cụ thể, trong tố tụng hành chính, việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm
phải tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục được quy định tại Luật Tố tụng
hành chính năm 2015.


16

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được hiểu là cách thức, trình tự
tiến hành hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định bởi Luật Tố
tụng hành chính khi có đủ căn cứ Luật định nhằm đánh giá tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện từ đó đưa ra phán quyết đúng
đắn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì bản án, quyết định
tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng thì phải đảm bảo trả lời được các vấn
đề sau: Xác định đúng đối tượng bị khởi kiện vụ án hành chính hay chưa? Đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính hay hành vi hành chính?
Đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính hay khơng? Tịa án cấp sơ thẩm có

thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính đó là đúng quy định hay chưa? Tranh
chấp hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay của cơ quan khác theo
quy định của pháp luật? Việc xét xử vụ án hành chính có tn thủ đúng các ngun
tắc của Luật Tố tụng hành chính hay khơng? (như ngun tắc độc lập khi xét xử và
chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong xét xử, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, nguyên tắc đối thoại trong tố tụng hành chính, nguyên tắc tiếng
nói và chữ viết trong tố tụng hành chính)? Cách thức tiến hành các trình tự cụ thể
gồm khởi kiện vụ án hành chính, thụ lý sơ thẩm vụ án hành chính, chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính, tiến hành phiên tồ sơ thẩm vụ án hành chính và các thủ
tục tiến hành sau phiên tòa đã đúng và đầy đủ hay chưa?
Thủ tục tố tụng khi xét xử sơ thẩm được Luật Tố tụng hành chính năm
2015 quy định một cách chặt chẽ về tồn bộ quy trình tiến hành trình tự xét xử từ
khi thụ lý đến khi đưa ra phán quyết vụ án hành chính ở cấp sơ thẩm. Trình tự
này quy định một cách khoa học, khách quan và đầy đủ, mang tính đặc thù nhằm
đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp hành chính hiệu quả, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Vấn đề đặt ra là có phải mọi vi phạm về thủ tục của Tòa án cấp sơ thẩm
đều bị hủy án để xét xử lại hay không?
Về vấn đề này Luật Tố tụng hành chính đã quy định rõ, chỉ khi Tịa án cấp
sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì mới thuộc trường hợp hủy án
để xét xử lại. Hiện nay, pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về khái niệm


17

“nghiêm trọng”. Tiêu chí nào đánh giá tính nghiêm trọng trong tố tụng hành
chính? Quay lại khái niệm thủ tục tố tụng hành chính thì mục đích của việc pháp
luật quy định chặt chẽ về mặt thủ tục là nhằm mục đích tránh việc áp dụng pháp
luật một cách tùy tiện, khơng đúng, khơng chính xác, gây thiệt hại đến quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự. Có thể thấy rằng tinh thần của việc xem xét một
nội dung vi phạm tố tụng làm căn cứ để hủy án hay khơng là vi phạm đó gây
thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ví dụ như
quyền được tham gia phiên đối thoại, quyền được tống đạt các văn bản tố tụng
của Tòa án, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền được cung cấp
các tài liệu chứng cứ, quyền được tranh tụng...
Trường hợp thứ hai: Tòa án phải thu thập chứng cứ mới quan trọng mà
Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được.
Chứng cứ là một nội dung đặc biệt quan trọng trong tố tụng hành chính, có
ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vụ án hành chính.
Chứng cứ được hiểu là cái được dẫn ra để dựa vào đó mà xác định điều gì
đó là đúng hay sai, là thật hay giả.
Theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Chứng cứ trong vụ án hành
chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao
nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác
định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản
đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
Chứng cứ trong tố tụng hành chính cần đảm bảo các yếu tố:
Một là, chứng cứ là cái có thật và có liên quan đến vụ án hành chính.
Chứng cứ phải là những tài liệu tồn tại khách quan trên thực tế, thể hiện đúng
bản chất vụ án. Mọi tài liệu được tạo dựng nhằm làm sai lệch nội dung vụ án
khơng được xem là chứng cứ. Tính có thật của chứng cứ ln đi kèm với tính
liên quan đến vụ án hành chính. Tính liên quan thể hiện ở chỗ sự phát sinh, tồn
tại hay mất đi của tài liệu có tác động làm ảnh hưởng đến nội dung quyết định
hành chính, hành vi hành chính. Các tài liệu khơng có liên quan đến vụ án hành
chính khơng được xem là chứng cứ.


18


Hai là, chứng cứ được Tòa án thu thập theo thủ tục được quy định bởi
Luật Tố tụng hành chính. Tịa án có thể có được chứng cứ của vụ án do đương
sự giao nộp hoặc tự mình thu thập. Việc đương sự giao nộp phải được lập thành
biên bản có nội dung và hình thức theo quy định của pháp luật. Nếu chứng cứ
do Tịa án tự mình thu thập thì phải tiến hành thu thập bằng các biện pháp do
pháp luật quy định mới là hợp pháp. Cụ thể như, Luật Tố tụng quy định về các
biện pháp thu thập chứng cứ như: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
Đối chất; Xem xét, thẩm định tại chỗ; Định giá; Ủy thác thu thập chứng cứ;...
Ba là, chứng cứ là căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là
có căn cứ và hợp pháp hay không. Không phải tất cả các tài liệu do đương sự nộp
hoặc Tòa án thu thập đều trở thành chứng cứ của vụ án. Chỉ có những tài liệu làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay
không mới trở thành chứng cứ. Tức chứng cứ phải chứa đựng những thơng tin có giá
trị chứng minh, làm cơ sở để xác định sự thật khách quan của vụ án. Và quyền xác
định một tài liệu có thể trở thành chứng cứ hay khơng thuộc về Tịa án. Tịa án có
trách nhiệm phải xem xét, đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan, điều này
cũng thể hiện được khía cạnh chủ quan của việc xác định chứng cứ, bởi nó phụ thuộc
vào năng lực, trình độ chun mơn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán.
Luật Tố tụng hành chính đã quy định người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ
cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ, khơng có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên cũng cần đánh giá
rằng, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự trong tố tụng hành chính chỉ
mang tính chất tương đối. Có nghĩa rằng việc thụ lý, giải quyết vụ án khơng
hồn tồn phụ thuộc vào việc cung cấp chứng cứ của đương sự. Tòa án vẫn thụ
lý, giải quyết vụ án hành chính trong trường hợp đương sự đã nỗ lực áp dụng các
biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ nhưng không thể có được chứng cứ để
cung cấp cho Tịa án. Trong trường hợp này đương sự có quyền u cầu Tịa án
tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ và Tịa án muốn có một phán quyết

khách quan, cơng bằng, thì tự mình cần thu thập các tài liệu có giá trị chứng cứ
chứng minh. Có thể nói rằng trong tố tụng hành chính, nghĩa vụ chứng minh
cũng thuộc về Tịa án cũng là một nhận định khơng sai.


19

Áp dụng pháp luật khi giải quyết các khiếu kiện hành chính phải căn cứ
vào một quy trình chặt chẽ và trải qua nhiều bước, trong đó bước phân tích, đánh
giá chứng cứ để làm rõ sự thật vụ án là một bước vô cùng quan trọng. Hội đồng
xét xử sơ thẩm phải thẩm tra lại một cách đầy đủ các tài liệu chứng cứ, sự phù
hợp trong lời khai của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án với hệ thống các tài liệu chứng cứ. Trên cơ sở đó, Tịa án
đánh giá các tài liệu chứng cứ có phù hợp với thực tế khách quan và đúng pháp
luật hay khơng để từ đó xem xét chấp nhận hoặc khơng chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của đương sự. Nếu Hội đồng xét xử chỉ dựa vào những suy luận chủ quan
mà không dựa vào các tài liệu, chứng cứ đã được chứng minh thì sẽ dẫn đến bản
án, quyết định của Tịa án được ban hành khơng đúng pháp luật.
Quay lại quy định của Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm, một trong các căn cứ để Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
hủy bản án sơ thẩm và xét xử lại vụ án theo trình tự sơ thẩm là việc Tịa án cấp
phúc thẩm xác định hồ sơ vụ việc phải thu thập chứng cứ mới quan trọng mà Tòa
án cấp phúc thẩm khơng thể bổ sung ngay được. Điều này có nghĩa rằng quá
trình thu thập tài liệu chứng cứ của Tịa án cấp sơ thẩm chưa chính xác. Tịa án
cấp phúc thẩm cho rằng các tài liệu mà cấp sơ thẩm thu thập chưa có giá trị
chứng cứ, chưa đảm bảo được 3 điều kiện như đã phân tích trên, đó là: Có thật
và có liên quan đến vụ án hành chính; Được Tịa án thu thập theo thủ tục được
quy định bởi Luật Tố tụng hành chính; Là căn cứ để xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
Đối chiếu với các quy định của Luật Tố tụng hành chính về thủ tục xét xử

phúc thẩm, tại Điều 219 đã quy định như sau:
“ Điều 219. Bổ sung chứng cứ mới
1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo,
Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ
sung chứng cứ mới.
2. Tịa án cấp phúc thẩm tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự tiến
hành xác minh chứng cứ mới được bổ sung. Tịa án có thể thực hiện ủy thác xác
minh chứng cứ theo quy định tại Điều 92 của Luật này.”


20

Các quy định của Luật Tố tụng hành chính về trình tự, thủ tục xét xử vụ
án hành chính theo thủ tục phúc thẩm chỉ có điều luật nói trên nói về chứng cứ.
Cấp phúc thẩm có những hạn chế nhất định đối với việc thu thập chứng cứ do
phạm vi xét xử phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại bản án, phần
bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Những nội dung không bị kháng cáo, kháng
nghị, không liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị thì khơng thuộc
thẩm quyền xem xét của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Mặt khác, thời hạn chuẩn
bị xét xử vụ án hành chính theo trình tự phúc thẩm là 60 ngày, trường hợp vụ
án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án cấp
phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại
khoản 1 Điều 221, nhưng không được quá 30 ngày. Thấy rằng thời hạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm chỉ bằng ½ thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, do đó, quyền
suy đoán chủ quan, nếu việc cấp phúc thẩm được trao quyền thu thập chứng cứ
như cấp sơ thẩm thì không thể đảm bảo được thời hạn chuẩn bị xét xử mà pháp
luật đã quy định cho Tòa án cấp mình.
Việc quy định nguyên tắc bảo đảm chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng
hành chính mang một ý nghĩa nhất định. Cấp sơ thẩm có nhiệm vụ thu thập

chứng cứ, làm căn cứ ban hành một phán quyết thực sự khách quan, công bằng.
Cấp phúc thẩm trong quyền hạn, nhiệm vụ chủ yếu của mình xem xét lại bản án
hành chính sơ thẩm, khơng làm thay những nhiệm vụ của cấp sơ thẩm. Điều này
cũng góp phần tăng trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết các vụ
khiếu kiện hành chính.
1.3. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015
thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thẩm quyền: Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
việc giải quyết vụ án nếu trong quá trình xét xử sơ thẩm có một trong các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật này.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đình chỉ là việc ngừng lại hoặc làm cho phải
ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn”. 5 Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý,
“đình chỉ vụ án là việc các cơ quan tố tụng quyết định kết thúc vụ án khi có
5

Hồng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng và trung tâm từ điển học


×