Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.15 MB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

MẠC VĂN HÊN

QUYỀN CỦA BỊ ĐƠN
TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

QUYỀN CỦA BỊ ĐƠN
TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM
Chun ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Mạc Văn Hên
Lớp: Cao học Luật, Kiên Giang khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của bản thân tơi
dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của TS. Nguyễn Văn Tiến. Các thông tin
nêu trong Luận văn là trung thực. Các ý kiến, quan điểm không thuộc ý tưởng hoặc
kết quả tổng hợp của chính bản thân đều được trích dẫn đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các kết quả
nghiên cứu trong Luận văn.
Tác giả luận văn

Mạc Văn Hên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HĐXX


Hội đồng xét xử

Luật HN&GĐ

Luật hơn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

Luật hơn nhân và gia đình

TAND

Tồ án nhân dân

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc Hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. QUYỀN ĐƯỢC THAM GIA PHIÊN TÒA, THAY ĐỔI, BỔ
SUNG YÊU CẦU PHẢN TỐ .................................................................................... 6
1.1. Quyền của bị đơn trong việc tham gia, vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm
dân sự....................................................................................................................... 6
1.2. Quyền của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung yêu cầu
phản tố tại phiên tòa sơ thẩm dân sự ................................................................. 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. QUYỀN THAM GIA TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ
THẨM DÂN SỰ CỦA BỊ ĐƠN .............................................................................. 30
2.1. Quyền được tiếp cận, đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự tại
phiên tòa sơ thẩm dân sự .................................................................................... 30
2.2. Quyền được đánh giá về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và
pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của bị đơn trong vụ án................... 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 47
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, cùng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới và trong khu vực thì các tranh chấp về quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại, hơn nhân và gia đình ngày càng tăng nhanh, đa dạng và phức tạp. Để
giải quyết các tranh chấp trên đúng quy định của pháp luật và nhằm đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của các đương sự, quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm phải
được bảo đảm.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, q trình xét xử tại phiên tịa sơ thẩm, việc áp
dụng các quy định về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm vẫn còn những bất cập
nhất định.
Một, sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm, về thời hạn triệu tập lại bị
đơn tham gia phiên tịa sơ thẩm sau khi Tịa án hỗn phiên tòa
Hai, về thời hạn triệu tập lại bị đơn tham gia phiên tịa sơ thẩm sau khi Tịa
án hỗn phiên tịa.
Ba, về hoạt động cấp, tống đạt, thơng báo của Tòa án sơ thẩm cho các đương sự.
Bốn, về việc xác định yêu cầu phản tố và việc thay đổi, bổ sung yêu cầu phản
tố của bị đơn.
Năm, về việc xác định thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Xuất phát từ các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Quyền của bị đơn tại
phiên tòa sơ thẩm” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự
và Tố tụng dân sự của mình với mong muốn đóng góp xây dựng, hồn thiện pháp
luật về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu của tác giả nhận thấy, liên quan đến đề tài “Quyền của bị đơn
tại phiên tòa sơ thẩm” đã được nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu. Cụ thể:
- Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2020), “Giáo trình Luật tố tụng dân
sự Việt Nam” (Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam. Trong Chương 2 và Chương 7 của công trình này, các tác giả
nghiên cứu về chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp sơ thẩm theo thủ tục thơng thường, trong đó có quyền và nghĩa vụ của bị
đơn, quy định chung của phiên tịa sơ thẩm, trình tự phiên tịa sơ thẩm dân sự ở góc
độ chung nhất và mang tính lý luận. Thực tiễn và chi tiết về quyền của bị đơn tại
phiên tòa sơ thẩm, cơng trình khơng nghiên cứu.



2
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), “Sách tình huống Luật Tố
tụng dân sự” Bình luận bản án (Nguyễn Văn Tiến chủ biên), Nhà xuất bản Hồng
Đức. Trong các chủ đề 4, chủ đề 8, chủ đề 15, chủ đề 18, chủ đề 21, chủ đề 23, chủ
đề 14, chủ đề 5 và chủ đề 27 của cơng trình này, các tác giả đã phân tích quy định
của pháp luật, thực tiễn và đề xuất kiến nghị. Tác giả dựa vào các bình luận này để
lấy ý tưởng triển khai đề tài của mình.
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), “Bình luận những điểm mới
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” (Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên), Nhà
xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Cơng trình nghiên cứu này, các tác
giả đã nêu, phân tích những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, trong đó, có liên quan đến quyền của bị đơn tại
phiên tòa sơ thẩm. Đây là nguồn nhận thức để tác giả triển khai đề tài.
- Đặng Thanh Hoa (chủ biên) (năm 2020), “Pháp luật Tố tụng dân sự tình
huống và phân tích”, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong các Bài 2, Bài 3, Bài 5 và Bài
8 của cơng trình này, các tác giả đã dựa trên các tình tiết của các vụ án được nêu tại
các bản án, quyết định của Tịa án để phân tích một số quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Tác giả dựa vào các phân tích để triển khai đề tài của mình.
- Đặng Thanh Hoa, Lưu Tiến Dũng chủ biên (2020), “Lý giải một số vấn đề của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử”, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong
các Vấn đề 1, Vấn đề 3, Vấn đề 7 và Vấn đề 8 của công trình, liên quan đến đề tài tác
giả, giúp định hướng việc nghiên cứu và triển khai đề tài trong luận văn của mình.
- Đặng Thanh Hoa, Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn chủ biên (2012),
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, Nhà xuất bản Lao động - Xã
hội, Hà Nội. Trong cuốn sách này tác giả đã phân tích, so sánh các qui định mới được
sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, giải
thích một cách khoa học về trình tự thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có quyền của
đương sự trong tố tụng dân sự. Đây là nguồn nhận thức để tác giả làm sáng tỏ quyền
của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm trên cơ sở cách thức triển khai tại cơng trình này.
- Nguyễn Triều Dương (2011), “Đương sự trong tố tụng dân sự - một số vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội. Trong đề
tài này tác giả tập trung làm rõ tư cách đương sự, năng lực chủ thể của đương sự,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định địa vị pháp lý, những quyền, nghĩa vụ
của đương sự. Tuy nhiên, đề tài này nghiên cứu Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004,
do vậy tính ứng dụng hiện nay là không cao.


3
- Hoàng Thị Tuyết (2015), “Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề
tài này tác giả cũng tập trung nghiên cứu sâu một số khía cạnh về các điều kiện
năng lực, tư cách của đương sự, đồng thời cũng kiến nghị hoàn thiện một số quy
định chung về đương sự, quyền, nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên, đề tài này cũng
nghiên cứu Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, do vậy
tính ứng dụng của đề tài này cũng không cao trong giai đoạn hiện nay.
- Trần Thị Diệu Linh (2017), “Quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án”, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Đại học Luật Hà Nội. Trong đề tài này, tác giả tập trung làm rõ các khái
niệm quyền tố tụng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phân tích
thực trạng của quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, đề xuất kiến nghị hoàn
thiện những quy định pháp luật về quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan. Tuy nhiên, do đề tài này nghiên cứu rộng bao gồm hai chủ thể là bị đơn
và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và cũng chưa nghiên cứu sâu những quyền
đặc thù của bị đơn; đề tài triển khai khi Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 mới được
áp dụng trong thực tiễn thời gian ngắn nên cũng còn nhiều bất cập lớn mà tác giả
chưa đề cập đến, vì vậy vấn đề quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự cũng chưa
được nghiên cứu thật sự chun sâu và tồn diện.
Nhìn chung tất cả những cơng trình nghiên cứu trên hoặc là đã lâu, hoặc
không nghiên cứu thực tiễn về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm và là căn cứ
để tác giả tiếp tục đi sâu phân tích quyền của bị đơn trong phiên tòa sơ thẩm, đồng

thời chỉ ra những bất cập và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy
định về quyền của bị đơn tại phiên tịa sơ thẩm.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là đánh giá quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm, thực tiễn áp dụng, chỉ ra bất cập
và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của bị đơn tại
phiên tòa sơ thẩm.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chỉ nghiên cứu những quy định về quyền của bị đơn tại phiên tòa
sơ thẩm; thực trạng áp dụng pháp luật, những bất cập, tồn tại, từ đó, đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm.


4
Luận văn nghiên cứu những quy định về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ
thẩm theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 từ khi Bộ luật này có hiệu lực pháp
luật cho đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng trong chương 1 và chương 2 để phân
tích quy định của pháp luật về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm, chỉ ra những
hạn chế, bất cập.
- Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng trong hai chương nhằm đánh
giá những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn
về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở các quy phạm pháp luật, cơng
trình chỉ ra những bất cập của luật và hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp được sử dụng trong hai chương nhằm
đánh giá tình hình thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về quyền của bị đơn
tại phiên tịa sơ thẩm, trên cơ sở đó, tổng hợp kết quả nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng khi so sánh các quy
định của pháp luật về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 với các quy định trước đó về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm.
Mỗi phương pháp nghiên cứu đem lại những hiệu quả nhất định trong việc
làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định mục đích của luận văn, thơng qua đó, truyền
tải được những nội dung cần làm rõ, đó cũng là mục tiêu người viết hướng đến.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học của luận văn: Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ quy định
của pháp luật về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự, cụ thể là làm rõ về thời hạn triệu tập lại bị đơn tham gia phiên tòa sơ
thẩm sau khi Tịa án hỗn phiên tịa, xác định u cầu phản tố và việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu phản tố của bị đơn, quan hệ pháp luật tranh chấp và thời hiệu khởi
kiện, để đưa ra những giải pháp hồn thiện pháp luật, đảm bảo tính thi hành cao
trong thực tế.
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham
khảo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án, Luật sư, nghiên cứu, áp dụng thực tiễn trong việc áp dụng Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 về quyền của bị đơn tại phiên tịa sơ thẩm. Ngồi ra, luận văn
cịn có thể sử dụng để học tập nghiên cứu về quyền của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm.


5
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm có 02 chương như sau:
Chương 1: Quyền được tham gia phiên tòa, thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố
1.1. Quyền của bị đơn trong việc tham gia, vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm
dân sự.
1.2. Quyền của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung yêu cầu
phản tố tại phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Chương 2: Quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự của bị đơn

2.1. Quyền được tiếp cận, đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự tại
phiên tịa sơ thẩm dân sự.
2.2. Quyền được đánh giá về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và
pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của bị đơn trong vụ án.


6
CHƯƠNG 1
QUYỀN ĐƯỢC THAM GIA PHIÊN TÒA,
THAY ĐỔI, BỔ SUNG YÊU CẦU PHẢN TỐ
1.1. Quyền của bị đơn trong việc tham gia, vắng mặt tại phiên tòa sơ
thẩm dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt “bị đơn” là bên bị kiện1 tức là một bên trong mối
quan hệ tranh chấp bị kiện tụng trước Tịa án. Theo đó, bên bị kiện là một chủ thể
trong vụ án bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Bên thứ ba là bên có liên quan là khi Tòa án giải quyết vụ án họ phải thực
hiện nghĩa vụ hoặc được hưởng quyền lợi từ việc tranh chấp của bên nguyên đơn và
bị đơn trong vụ án.
Trong vụ án dân sự các đương sự tham gia tố tụng thơng thường gồm hai chủ
thể chính là nguyên đơn và bị đơn. Quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự là quyền
năng mà pháp luật tố tụng dân sự quy định và đảm bảo thực hiện cho bị đơn tham
gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho mình hoặc lợi ích cơng cộng, lợi ích của nhà nước2. Quyền của bị đơn tại
phiên tòa sơ thẩm là quyền năng mà pháp luật tố tụng dân sự quy định và được đảm
bảo thực hiện để bị đơn tham gia tố tụng và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình
hoặc lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước.
Quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 70, Điều 72
BLTTDS. Theo đó, bị đơn được Tịa án thơng báo về việc bị khởi kiện; chấp nhận
hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn,

nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của
nguyên đơn; đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án và có quyền khởi kiện
vụ án khác trong trường hợp yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không được Tòa
án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án.
Theo Điều 228 BLTTDS, nếu Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự
hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
phải có mặt tại phiên tịa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn
Kỳ Duyên- Ngọc Hằng- Đăng Khoa (2012), Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, tr.101.
Trần Thị Diệu Linh (2017), Quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, thực tiễn áp dụng tại
Tòa án, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.9
1
2


7
phiên tịa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tịa án phải
thơng báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự về việc hỗn phiên tòa. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nếu bị đơn
khơng có u cầu phản tố vắng mặt mà khơng có người đại diện tham gia phiên tịa
thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ; bị đơn có u cầu phản tố vắng mặt mà
khơng có người đại diện tham gia phiên tịa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và
Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản
tố đó theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 228 BLTTDS, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án khi bị đơn và
người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tịa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt
hoặc bị đơn vắng mặt tại phiên tịa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa và
các trường hợp khác theo quy định của BLTTDS.
Theo điểm 5 Mục IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07-4-2017 của

Tòa án nhân dân tối cao về Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, trường hợp bị đơn đã
ủy quyền hợp lệ cho cho người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng thì Tịa án
chỉ tống đạt cho người đại diện của bị đơn mà không phải tống đạt cho bị đơn. Việc
tống đạt cho người đại diện của bị đơn được thực hiện theo quy định tại Chương X
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án chỉ tống đạt cho bị đơn khi việc ủy
quyền tham gia tố tụng giữa bị đơn và người đại diện của họ chấm dứt hoặc việc
tống đạt liên quan đến những nội dung không thuộc phạm vi ủy quyền. Theo điểm
10 Mục IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07-4-2017 của Tòa án nhân
dân tối cao, trường hợp hợp tác xã chưa bị giải thể, chưa bị tuyên bố phá sản nếu
người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã chết thì những xã viên còn sống hoặc
những thành viên hợp tác xã còn sống có quyền bầu hoặc cử người đại diện tham
gia tố tụng. Trường hợp không thể bầu hoặc cử người đại diện tham gia tố tụng thì
Tịa án u cầu thành viên hợp tác xã còn sống tham gia tố tụng.
Trường hợp hợp tác xã chưa bị giải thể, chưa bị tuyên bố phá sản nhưng
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật hợp tác xã năm 2012 thì Ủy
ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác
xã phải ra quyết định giải thể hợp tác xã đó. Tịa án yêu cầu Ủy ban nhân dân giải
quyết theo thẩm quyền và căn cứ điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp hợp tác xã đã
có quyết định giải thể mà việc xử lý tài sản chung và vốn của hợp tác xã được giải


8
quyết theo Điều 36 Luật hợp tác xã năm 2003, khoản 2 Điều 48 Luật hợp tác xã
năm 2012, Điều 21 Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21-11-2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã năm 2012, phần tài sản chung
không chia được giao cho chính quyền địa phương quản lý thì người đại diện cho
chính quyền địa phương (nơi quản lý tài sản của hợp tác xã) sẽ là người kế thừa
quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã và tham gia tố tụng tại Tòa án.
Theo Án lệ số 12/2017/AL về xác định trường hợp đương sự được triệu tập

hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tịa án đã hỗn phiên tịa:
“[1] Về tố tụng: Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại
phiên tịa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội
đồng xét xử đã quyết định hỗn phiên tịa để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm được mở lại vào ngày 26-02-2014, bị đơn và luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt. Trường hợp Hội đồng xét xử đã
quyết định hỗn phiên tịa và việc hỗn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở
lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải
xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều
199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự để hỗn phiên tịa. Tịa án cấp phúc
thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tịa, từ
đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng
quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn”.
Với các quy định và Án lệ nêu trên về quyền được vắng mặt tại phiên tòa sơ
thẩm của bị đơn, tác giả nhận thấy có bất cập nhất định.
Một, về sự vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm. Theo quy định tại Điều
227 BLTTDS, trường hợp bị đơn vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng hay
khơng chính đáng, Tịa án phải hỗn phiên tịa. Trường hợp Tòa án triệu tập bị đơn
tham gia phiên tòa lần thứ hai mà bị đơn vắng mặt với lý do bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan thì Tịa án có thể hỗn phiên tịa. Theo quy định này, tùy trường
hợp, HĐXX có thể hỗn hoặc tiếp tục xét xử. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra nếu Tịa án
hỗn phiên tòa lần thứ hai với lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên bị
đơn không tham gia phiên tịa là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay


9

khơng. Bởi, nếu Tịa án hỗn phiên tịa và mở phiên tịa lần thứ ba và những lần
khác khi khơng còn lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan thì việc Tịa án cấp
sơ thẩm mở nhiều phiên tịa như vậy đúng khơng. Đây là vấn đề phát sinh trong
thực tế và các Thẩm phán xử lý không giống nhau. Có trường hợp, bị đơn đang
mang thai có giấy xác nhận của bệnh viện cần phải nghỉ dưỡng thai trong thời gian
dài; bị đơn bị tai biến đang điều trị bệnh thời gian dài thì có Tịa án hỗn phiên tịa,
có Tịa án khơng hỗn phiên tịa. Vì nếu Tịa án hỗn phiên tịa nhiều lần thì ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các đương sự khác, ngược lại, nếu khơng
chấp nhận hỗn phiên tịa thì ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị đơn.
Ví dụ: Hơn 3 năm chưa xử xong vì bị đơn liên tục lấy lý do hỗn phiên tịa3.
Ngun đơn là vợ chồng ơng Đồn Văn Vinh, bà Đỗ Thị Kim Ngân (bố mẹ
của ơng Đồn Minh Qn, trú tại phường Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội) và bị đơn
là ông Nguyễn Lương Thế, Giám đốc Công ty Kim Anh cùng vợ là bà Nguyễn Kim
Anh (hộ khẩu tại 82 và 132 Tôn Đức Thắng, Đống Đa, tạm trú tại 106 phố Linh
Lang phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội). Ơng Thế cho rằng bản thân không
bảo đảm sức khỏe với lý do huyết áp cao vì thay đổi thời tiết nên tiếp tục xin hỗn
phiên tịa. Đại diện VKS đã đề nghị HĐXX trưng cầu ý kiến giám định của nhân
viên y tế. Nếu đủ căn cứ ông Thế đảm bảo sức khỏe thì đề nghị HĐXX tiếp tục làm
việc. HĐXX đã đồng ý mời nhân viên Trung tâm y tế quận Cầu Giấy đến để kiểm
tra sức khỏe. Qua kiểm tra, nhân viên y tế này đã đưa ra nhận định ơng Thế có
huyết áp cao, chưa tiên lượng được sức khỏe có đảm bảo hay khơng, bệnh nhân cần
theo dõi nghỉ ngơi. Tuy nhiên, HĐXX cho rằng tại phiên tòa sẽ được mở lần thứ tư,
nếu sức khỏe ơng Thế khơng đảm bảo thì có quyền ủy quyền cho người khác hoặc
gửi văn bản nêu ý kiến xin xét xử vắng mặt. Sau đó, bà Nguyễn Kim Anh cũng có
đơn xin hỗn phiên tịa vì lý do sức khỏe. Vậy trong trường hợp này việc vắng mặt
của bị đơn là có căn cứ hay khơng có căn cứ?
Ví dụ: Bản án số 06/2021/DS-ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân thành
phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang về việc “Tranh chấp đất đai” giữa nguyên đơn ông
Khưu Thành Đông và bị đơn ơng Võ Minh Luận4. Ngày 11/01/2021, Tịa án ban
hành quyết định đưa vụ án ra xét xử và ấn định thời gian mở phiên tòa ngày

18/01/2021, đến ngày mở phiên tòa là ngày 18/01/2021 nguyên đơn vắng mặt lần
thứ nhất nên căn cứ khoản 1 Điều 227 BLTTDS, Tịa án ra quyết định hỗn phiên
3

truy cập lúc
19h ngày 05.12.2021.
4
Phụ lục số 01.


10
tòa và ấn định phiên tòa được mở lại ngày 25/01/2021, trong thời gian hỗn phiên
tịa ngun đơn th Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và Luật
sư thực hiện các thủ tục tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn và được Tòa án chấp nhận, do chưa nghiên cứu hồ sơ nên phiên tòa
ngày 25/01/2021 người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn vắng mặt,
Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 227 BLTTDS tiếp tục ra quyết định hỗn phiên tịa và
ấn định phiên tòa được mở lại ngày 01/4/2021. Vấn đề đặt ra người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho ngun đơn sau khi có quyết định hỗn phiên tịa ngày
18/01/2021 thì Tịa án triệu tập ngun đơn tham gia phiên tịa ngày 25/01/2021 có
phải là triệu tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn hay khơng.
Đối với vụ án trên có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng sau khi có quyết định hỗn phiên tịa ngày
18/01/2021 thì ngun đơn thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì phiên
tịa mở lại ngày 25/01/2021 mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn vắng mặt thì phải hỗn phiên tịa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 BLTTDS.
Quan điểm thứ hai cho rằng sau khi có quyết định hỗn phiên tịa ngày
18/01/2021 người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngun đơn vắng mặt phiên
tịa ngày 25/01/2021 thì Tịa án tiến hành xét xử vắng mặt vì Tịa án triệu tập nguyên
đơn cũng chính là triệu tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn.

Theo quan điểm của tác giả đối với vụ án trên người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn tham gia tố tụng sau khi Tịa án có quyết định hỗn phiên
tịa theo thủ tục sơ thẩm thì những lần Tòa án đã triệu tập đương sự tham gia phiên
tịa cũng chính là những lần đã triệu tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự tham gia phiên tòa để đảm bảo vụ án được xét xử liên tục, nếu hỗn phiên
tịa nhiều lần làm cho vụ án kéo dài và ảnh hưởng hưởng nghiêm trọng đến quyền
lợi của bị đơn, tác giả thống nhất theo quan điểm thứ hai.
Hai, về thời hạn triệu tập lại bị đơn tham gia phiên tòa sơ thẩm sau khi Tịa án
hỗn phiên tịa. Theo khoản 1 Điều 233 BLTTDS, thời hạn hỗn phiên tịa là khơng
q 01 tháng, đối với phiên tòa xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn là không quá 15
ngày, kể từ ngày ra quyết định hỗn phiên tịa. Với quy định này, BLTTDS chỉ quy
định thời gian tối đa để mở phiên tịa nhưng khơng quy định thời gian tối thiểu mở lại
phiên tòa. Điều này dẫn đến trường hợp phát sinh trên thực tế đó là khi triệu tập lần
thứ hai để mở phiên tịa sơ thẩm, có Tịa án ấn định thời gian quá ngắn, không đảm
bảo cho bị đơn tham gia phiên tịa, do đó, Tịa án xét xử vắng mặt bị đơn gây thiệt hại


11
đến quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Đối chiếu với quy định BLTTDS hiện hành thì
việc triệu tập bị đơn là không vi phạm pháp luật nhưng là nguyên nhân không đảm
bảo bị đơn bảo vệ quyền của mình. Hiện nay BLTTDS chưa quy định rõ ràng và Tịa
án nhân dân tối cao cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp trên.
Ví dụ: Bản án số 05/2021/DS-ST ngày 10/3/2021 của Tòa án nhân dân thành
phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang về “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” giữa
nguyên đơn ông Khưu Văn Quang và bị đơn ơng Khưu Ngọc Hải 5.
Ngày 19/02/2021, Tịa án nhân dân thành phố Hà Tiên đã ban hành quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXX-DS và ấn định phiên tòa dân sự sơ thẩm được
mở vào lúc 08 giờ 00 ngày 05/3/2021. Phiên tòa ngày 05/3/2021, bị đơn ông Khưu
Ngọc Hải vắng mặt lần thứ nhất nên căn cứ khoản 1 Điều 227 BLTTDS Tòa án ra
quyết định hỗn phiên tịa Tịa án và ấn định phiên tòa dân sự sơ thẩm được mở lại

vào lúc 08 giờ 00 ngày 09/3/2021. Trong vụ án trên từ ngày hỗn phiên tịa đến ngày
mở lại phiên tịa chỉ trong 04 ngày, như vậy có đảm bảo quyền của bị đơn được tham
gia phiên tịa dân sự sơ thẩm khơng. Hiện nay cũng có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng căn cứ khoản 1 Điều 233 BLTTDS thì thời hạn
hỗn phiên tịa thời hạn hỗn phiên tịa là khơng q 01 tháng, đối với phiên tịa xét
xử vụ án theo thủ tục rút gọn là không quá 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn
phiên tịa. BLTTDS chỉ quy định thời hạn tối đa, khơng quy định thời hạn tối thiểu
nên Tòa án mở lại phiên tòa trong 04 ngày là đúng quy định pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng mặc dù khoản 1 Điều 233 BLTTDS chỉ quy định
thời hạn tối đa nhưng không quy định thời gian tối thiểu, trong vụ án trên Tòa án
mở lại phiên tòa trong thời hạn 04 ngày là quá ngắn vi phạm thủ tục tố tụng và ảnh
hưởng đến quyền của bị đơn tham gia tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều
70, Điều 72 BLTTDS.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ nhất. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành
một số Tòa án vẫn chưa áp dụng đúng quy định tại khoản 1 Điều 233 BLTTDS, để
áp dụng thống nhất pháp luật đề nghị Tịa án nhân dân tối cao có hướng dẫn cụ thể
trong việc áp dụng quy định tại Điều 233 BLTTDS.
Ví dụ: Quyết định giám đốc thẩm số 07/2017/HNGĐ-GĐT ngày 11/7/2017
của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng6.
5

Phụ lục số 02.
Quyết định giám đốc thẩm số 07/2017/HNGĐ-GĐT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà
Nẵng, tranh-chap-ly-hon-2721, truy cập lúc 21h ngày 05.12.2021.
6


12
Anh Nguyễn Văn B và chị Lê Thị Q kết hơn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký
kết hơn ngày 12/5/2008, tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện V, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu
thuẫn. Do mâu thuẫn anh B có đơn xin ly hôn chị Q. Bản án số 114/2015/HNGĐST ngày 20/11/2015 đã quyết định: Cơng nhận sự thuận tình ly hơn giữa anh
Nguyễn Văn B và chị Lê Thị Q; công nhận sự thỏa thuận về nuôi con.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã kháng nghị bản
án số 114/2015/HNGĐ-ST ngày 20/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế do có vi phạm về thủ tục tố tụng.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 07/2017/HNGĐ-GĐT ngày 11/7/2017 của
Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng đã xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy bản án số 114/2015/HNGĐST ngày 20/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế,
giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử
lại theo đúng quy định của pháp luật. Với nhận định: Anh B thừa nhận đơn xin xét xử
vắng mặt đề này 22/10/2015 đứng tên chị Lê Thị Q là do anh giả chữ ký của chị Q.
Ông Nguyễn Văn V cán bộ UBND xã và ơng Lê Văn B, phó chủ tịch UBND xã P
thừa nhận chị Q không trực tiếp đến Ủy ban nhân dân xã yêu cầu chứng thực, mà anh
B tự cầm đơn xin xét xử vắng mặt đề tên chị Lê Thị Q đến yêu cầu chứng thực chữ
ký của chị Q, vì tin tưởng và để tạo điều kiện cho người dân nên ông B đã xác nhận
chữ ký. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân xã P, huyện V chứng thực chữ ký của chị Lê
Thị Q trong đơn xét xử vắng mặt là không đúng trình tự thủ tục theo quy định của
Nghị Định số 23/2015-NĐCP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về chứng thực chữ ký
dẫn đến việc Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử vắng
mặt chị Lê Thị Q là không đúng theo quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của chị Q.
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sự chủ quan trong việc xác định
sự vắng mặt của bị đơn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị Q là
quyền tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định.
Ba, hoạt động cấp, tống đạt, thơng báo của Tịa án sơ thẩm chưa đúng, đầy
đủ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLTTDS, người thực hiện việc cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người được cấp, tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người được cấp, tống đạt, thơng báo
phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời điểm để tính



13
thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng. Theo quy
định tại Điều 177 BLTTDS, người được cấp, tống đạt, thông báo là cá nhân thì văn
bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho họ. Đương sự phải ký nhận theo quy định.
Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo đã chuyển đến nơi cư trú mới và
đã thông báo cho Tịa án việc thay đổi nơi cư trú thì phải cấp, tống đạt, thông báo
theo địa chỉ nơi cư trú mới của họ. Đương sự phải ký nhận hoặc điểm chỉ theo quy
định. Trường hợp người được cấp, tống đạt, thơng báo từ chối nhận văn bản tố tụng
thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ
lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã,
phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng. Biên bản phải được
lưu trong hồ sơ vụ án. Tuy pháp luật quy định như trên nhưng trong một số vụ án,
Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt không đúng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị
đơn trong việc tham gia phiên tịa sơ thẩm.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hang hóa giữa ngun đơn Cơng
ty TNHH Sông Hồng với bị đơn Lê Văn Lập - Chủ DNTN Tân Lập.
Vào năm 2010 nguyên đơn là Công ty TNHH Sơng Hồng (viết tắt Cơng ty
Sơng Hồng) có ký hợp đồng bán cho ông Lê Văn Lập - Chủ DNTN Tân Lập số
lượng 3.000m3 gỗ với giá trị hợp đồng khi ký kết là 17.100.000.000 đồng. Hai bên
thỏa thuận củng loại gỗ, địa điểm giao, thời ghian thanh tốn tiền. Cơng ty Sơng
Hồng đã giao được 1.159,54m3 gỗ với số tiền sau thuế là 6.686.004.820 đồng, ông
Lập đã thanh tốn cho Cơng ty Sơng Hồng số tiền 04 tỷ đồng và cịn nợ lại Cơng ty
Sơng Hồng 2.686.004.820 đồng. Do ông Lập vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên Công ty
Sông Hồng không tiếp tục giao gỗ cho ơng Lập. Ngồi ra, ơng Lập cịn mua thêm
của Cơng ty Sông Hồng số gỗ thành tiền là 362.262.000 đồng nhưng vẫn chưa
thanh tốn. Cơng ty Sơng Hồng khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng mua bán gỗ
với DNTN Tân Lập và buộc trả số tiền 2.686.004.820 đồng. Bị đơn không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu

ngun đơn khơng giao được đủ số gỗ thì u cầu tính giá hiện tại để bồi thường
hợp đồng cho ông.
Bản án KDTM sơ thẩm số 05/2017/KDTM-ST ngày 07/4/2017 của TAND
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang7 đã xử: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi
kiện của Công ty Sông Hồngđối với bị đơn về việc yêu cầu tính lãi. Tuyên bố chấm
7

Phụ lục số 03.


14
dứt hợp đồng mua bán gỗ giữa Công ty Sông Hồng với DNTN Tân Lập. Buộc ông
Lập phải trả cho Công ty Sông Hồng số tiền 3.048.266.820 đồng.
Bản án KDTM phúc thẩm số 14/2017/KDTM-PT ngày 11/10/2017 của
TAND tỉnh Kiên Giang8 đã hủy bản án sơ thẩm với lý do:
Tòa án cấp sơ thẩm lập biên bản không tống đạt được văn bản tố tụng cho bị
đơn mà không thực hiện thủ tục niêm yết là chưa thực hiện là chưa thực hiện đúng
quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời khơng
có căn cứ khác thể hiện bị đơn biết được các lần triệu tập, thơng báo của Tịa án đối
với bị đơn khi họ không nhận được văn bản tố tụng của Tịa án.
Tịa án cấp sơ thẩm ra thơng báo cho ông Lập về việc thực hiện yêu cầu phản
tố. Tuy nhiên, thơng báo này khơng được Tịa án thực hiện thủ tục tống đạt hợp lệ là
niêm yết khi khơng tống đạt được văn bản tố tụng.
Ví dụ: Tịa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại vì
tống đạt văn bản tố tụng không đúng9.
Anh Khánh và chị Xuân đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND phường
Nguyễn Trãi, trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, đến
cuối năm 2012 thì chị Xuân bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân từ đó. Xét thấy
tình cảm vợ chồng khơng cịn, nên anh Khánh xin ly hơn. Có một con chung tên
cháu là Trần Nhật Thành, sinh ngày 30/4/2007. Bản án sơ thẩm quyết định: Xử cho

anh Khánh được ly hôn chị Xuân.
Ngày 06/02/2017, chị Xuân kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm và
đề nghị Tòa án phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại từ đầu. Ngày
16/02/2017 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ra Quyết định kháng nghị số: 01/QĐKNPT
ngày 16/02/2017 đối với Bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm với nội dung: Vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm giao cho Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Ngày 24/4/2017 Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang đã
xét xử theo trình tự phúc thẩm vụ án trên theo hướng chấp nhận kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm số 25/2016 ngày 30/12/2016, thời gian mở phiên tòa vào 08 giờ ngày
16/01/2017. Tòa án cấp sơ thẩm gửi cho chị Xuân qua đường Bưu điện bằng phương
8

Phụ lục số 04.
/>-Toa-an-cap-phuc-tham-huy-ban-an-so-tham-de-xet-xu-lai-445/, truy cập lúc 20h ngày 07.12.2021.
9


15
pháp bảo đảm, có phiếu nhận đơn ngày 03/01/2017. Tại phiên tịa ngày 16/01/2017,
Tịa án ra Quyết định hỗn phiên tịa với lý do: Chị Xn vắng mặt khơng có lý do và
quyết định thời gian mở lại phiên tòa vào 14 giờ ngày 19/01/2017. Về việc gửi Quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 25/2016 cho chị Xuân chưa đảm bảo tính hợp lệ
của việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 2 Điều 175
BLTTDS. Tòa án cấp sơ thẩm gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và Giấy
triệu tập số 2 cho chị Xuân mới chỉ được thể hiện bằng phiếu nhận đơn ngày
03/01/2017 của Bưu cục Minh Khai, mà chưa có văn bản xác nhận có chữ ký của
người nhận của dịch vụ bưu chính gửi lại cho Tịa án nên việc thực hiện cấp, tống đạt,
thơng báo của Tịa án sơ thẩm khơng được coi là hợp lệ. Đến ngày 19/01/2017 Tịa án

cấp sơ thẩm mở phiên tòa lần thứ 2 chị Xn vắng mặt khơng có lý do, Tịa án vẫn
tiến hành xét xử là vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của chị Xn
trong việc khơng nhận được văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 BLTTDS.
Tương tự vụ án trên, một số vụ án Tòa án chưa xác định đầy đủ quy định của
pháp luật về nghĩa vụ cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của TAND quy định
tại Điều 170 BLTTDS. Sai sót này chủ yếu là xác định chưa đúng về điều kiện tống
đạt, thông báo cho bị đơn là cá nhân bằng hình thức trực tiếp, niêm yết cơng khai và
thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 177, Điều
179, Điều 180 BLTTDS. Theo quy định trong các điều luật này, việc cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng cho đương sự phải đảm bảo yêu cầu và thủ tục như luật
định. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, Tịa án cấp sơ thẩm đã chưa tuân thủ
chặt chẽ, đầy đủ và thiếu sự chính xác khi tác nghiệp.
Ví dụ: Trao đổi về thủ tục niêm yết văn bản tố tụng dân sự của Tòa án10.
Tháng 12/2017, chị Nguyễn Thị T khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn
Mạnh H, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ 14, khu 8, phường
G, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành hịa giải nhưng khơng thành vì lý do
anh H vắng mặt. Ngày 09/5/2018, Tòa án mở phiên tòa nhưng anh H vắng mặt nên
Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và ấn định ngày mở lại phiên tòa vào ngày
23/5/2018. Đến ngày 23/5/2018, anh H vẫn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án tiến hành
xét xử vắng mặt anh H với lý do đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Hội đồng xét xử
quyết định: Chấp nhận đơn ly hôn của chị T đối với anh H.
10

truy cập lúc 22h ngày 07.12.2021.


16
Trong vụ án này, thông báo thụ lý vụ án và giấy báo đương sự, thông báo về
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa

vụ án ra xét xử trước khi tiến hành niêm yết, Tịa án có biên bản về việc anh H ở địa
phương nhưng khơng nhận hoặc có lần bố anh H nhận thay nhưng ông bố anh H từ
chối ký vào biên bản. Đối với biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và quyết định hỗn phiên tịa, trong hồ sơ khơng có tài liệu nào thể
hiện việc Tịa án đã làm mọi biện pháp nhưng không thể cấp, tống đạt, thông báo
trực tiếp các tài liệu này cho anh H. Tòa án đã tiến hành niêm yết. Khi Tòa án niêm
yết các văn bản trên đều thể hiện dấu niêm yết tại trụ sở Tòa án, UBND phường G
và nhà văn hóa khu 8, phường G.
Trong vụ án này, việc niêm yết của Tịa án có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Tòa án đã tiến hành niêm yết văn bản đúng quy định
của pháp luật, anh H vắng mặt là do anh cố tình trốn tránh khơng có mặt theo giấy
báo, giấy triệu tập của Tịa án được thể hiện qua biên bản do Tòa án lập, bố anh H
nhận thay nhưng khơng ký Tịa án có biên bản thể hiện anh ở địa phương nhưng
không nhận văn bản.
Quan điểm thứ hai: Tòa án niêm yết văn bản tố tụng, thông báo, giấy báo
đương sự tại trụ sở Tòa án, UBND phường G là đúng nhưng niêm yết tại nhà văn
hóa khu 8, phường G chưa đảm bảo đúng quy định tại Điều 179 BLTTDS. Bởi lẽ,
mục đích của việc niêm yết là thơng báo cho đương sự biết để thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Theo tài liệu xác minh, hiện nay anh H vẫn đang sinh sống tại
địa phương, có nhà ở riêng. Nơi cư trú của anh H là nhà anh H, chứ khơng phải là
tại nhà văn hóa khu 8, phường G. Do đó việc niêm yết là sai quy định.
Quan điểm thứ ba: Đối với Thông báo thụ lý vụ án và giấy báo đương sự,
thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án niêm yết tại trụ sở Tòa án, UBND
phường G là đúng nhưng niêm yết tại nhà văn hóa khu 8, phường G chưa đảm bảo
đúng quy định tại Điều 179 BLTTDS nhưng trước khi tiến hành niêm yết, Tòa án
đã có biên bản về việc anh H ở địa phương nhưng không nhận hoặc bố anh H nhận
thay nhưng từ chối ký vào biên bản. Như vậy, anh H biết về những thơng báo, giấy
báo của Tịa án nên dù Tòa án niêm yết tại khu dân cư nhưng vẫn có thể xem làm
hợp pháp. Đối với biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ

và quyết định hỗn phiên tịa, Tịa án tiến hành niêm yết ở nhà văn hóa khu 8,
phường G nhưng hồ sơ chưa có tài liệu nào thể hiện không thể cấp, tống đạt, thông


17
báo trực tiếp các tài liệu này cho anh H. Việc niêm yết không đảm bảo được việc
thông báo cho anh H biết được nội dung biên bản công khai chứng cứ và ngày Tòa
án mở lại phiên tòa.
Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, anh H cho rằng anh H chỉ gặp
thẩm phán, thư ký Tòa án duy nhất 01 lần tại Công an phường G và khơng được
nhận hay biết việc niêm yết của Tịa án nên anh khơng có mặt và khơng biết việc
Tịa án giải quyết vụ án. Như vậy, việc niêm yết của Tòa án chưa đảm bảo đúng quy
định đã ảnh hưởng đến quyền của bị đơn trong việc biết, tham dự phiên tịa và thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong vụ án ly hôn.
Từ những bất cập trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 227 và Điều
233 BLTTDS theo hướng như sau:
Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự
“1. Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của
họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tịa;
nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa, trừ trường hợp
người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tịa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hỗn phiên tịa.
2. Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tịa, trừ
trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tịa án hỗn phiên tịa, trường hợp phải mở lại
phiên tịa lần thứ ba thì Hội đồng xét xử phải xét xử; nếu vắng mặt khơng vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:

a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tịa thì
bị coi là việc từ bỏ quyền khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;
b) Bị đơn khơng có u cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
khơng có u cầu độc lập vắng mặt mà khơng có người đại diện tham gia phiên tịa
thì Tịa án tiến hành xét tiến hành xét xử vắng mặt họ;
c) Bị đơn có u cầu phản tố vắng mặt mà khơng có người đại diện tham gia
phiên tịa thì coi như từ bỏ u cầu phản tố và Tịa án quyết định đình chỉ giải quyết


18
đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị
đơn có quyền yêu cầu lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật;
d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà
khơng có người đại diện tham gia phiên tịa thì coi như từ bỏ u cầu độc lập và
Tịa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ
trường hợp người đó có đơn đề nghị xétịa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với
yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện
lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật;
đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tịa án
vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự tham gia tố tụng sau khi Tịa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục sơ thẩm thì những lần Tịa án đã triệu tập đương sự tham gia phiên tịa
cũng chính là những lần đã triệu tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự tham gia phiên tòa”.
1.2. Quyền của bị đơn trong việc đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung yêu
cầu phản tố tại phiên tòa sơ thẩm dân sự
Theo Điều 200 BLTTDS, cùng với việc phải nộp cho Tịa án văn bản ghi ý

kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối
với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp:
Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến
loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu
của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự
liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc
giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu
phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải.
Theo Điều 244 BLTTDS, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.


19
Theo Điều 246 BLTTDS, Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thoả thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thoả
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử
ra quyết định cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án.
Theo khoản 7 Mục II Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Tòa
án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ về trường hợp tại phiên tòa sơ
thẩm, đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu thì việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố
hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn,

đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi được Chủ tọa hỏi có thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, u cầu độc lập hay khơng thì đương sự có
quyền trình bày về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu mà không phải làm lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và khơng phải nộp tiền tạm ứng án
phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự thì phải ghi rõ trong bản án.
Trước đây, tại Điều 12 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội dồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ hai Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm của Bộ luật tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự về quyền phản tố của bị đơn được hướng dẫn như Điều 200 BLTTDS.
Với các quy định như trên về quyền đưa ra yêu cầu phản tố, thay đổi, bổ
sung yêu cầu phản tố tại phiên tòa sơ thẩm của bị đơn, tác giả nhận thấy có những
bất cập sau:
Thứ nhất, xác định yêu cầu phản tố và việc thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố
của bị đơn. Theo khoản 4 Điều 72 BLTTDS, quyền đưa ra yêu cầu phản tố là quyền
của bị đơn. Theo Điều 244 BLTTDS, tại phiên tịa sơ thẩm bị đơn có quyền thay
đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá
phạm vi yêu cầu phản tố ban đầu. Quy định này đảm bảo quyền tự định đoạt của
đương sự quy định tại Điều 5 BLTTDS nhưng phải đảm bảo việc giải quyết vụ án
của Tòa án khi áp dụng BLTTDS. Qua thực tiễn thi hành, một số Tòa án vẫn chưa


20
áp dụng đúng quy định về quyền đưa ra yêu cầu phản tố và việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu phản tố của bị đơn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn và kéo dài việc
giải quyết vụ án dân sự.
Ví dụ: Thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của bị đơn11.

Cụ S nộp đơn khởi kiện anh P và chị N yêu cầu chia thừa kế phần di sản của
cụ H gồm 1/2 phần đất 33.242,8 m2, chia cho cụ và 11 người con gồm: Ta, K, Đ, H,
Ma, N, D, V, U, L, T, không chia cho M và P vì đã được cho đất. Ngày 27/8/2015,
anh P có đơn phản tố cho rằng phần nợ phải trả cho chị Th và Ngân hàng với số tiền
193.622.000 đồng và 20 chỉ vàng 24k là do vợ chồng anh xuất tiền ra trả, nay anh
yêu cầu cụ S trả lại vợ chồng anh. Tại phiên tòa sơ thẩm anh P còn yêu cầu phải trả
lại 82.000.000 đồng tiền cơng sức đóng góp của anh trên phần đất.
Bản án sơ thẩm số 106/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 của TAND huyện TVT
quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của anh P về yêu cầu những người được chia
thừa kế phải trả cho anh số tiền là 123.074.577đồng và số vàng là 13,77 chỉ vàng
24k. Tách yêu cầu của anh P đối với số tiền 82.000.000 đồng (cơng sức đóng góp,
cải tạo đất đối với di sản thừa kế) để các đương sự có u cầu thì giải quyết bằng
vụ kiện khác. Anh P kháng cáo.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Đối với yêu cầu của anh P về 82.000.000
đồng tiền cải tạo đất, những cải tạo này có trên phần đất mà án sơ thẩm phân chia
cho các thừa kế. Án sơ thẩm lại cho rằng yêu cầu này là ngồi phạm vi u cầu
khởi kiện nên khơng xem xét và tách ra giải quyết bằng một vụ án khác là khơng
giải quyết một cách tồn diện, khơng đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số
106/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện TVT; chuyển hồ sơ
vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện TVT giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Với vụ án trên, theo Tịa án cấp sơ thẩm thì u cầu của anh P đối với số tiền
82.000.000 đồng là yêu cầu mới được đặt ra tại phiên tịa sơ thẩm nên khơng phải là
yêu cầu phản tố ban đầu nên không giải quyết. Cơ sở để Tòa án cấp sơ thẩm quyết định
như trên là căn cứ vào khoản 3 Điều 200 BLTTDS. Theo đó, bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ và hịa giải. Việc anh P đưa ra yêu cầu tại phiên tịa khơng thể xem là
u cầu phản tố và khơng đảm bảo về thời hạn được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
11


truy cập lúc
15h ngày 08.12.2021.


×