Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản
được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần truyền
thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập
của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: "Cái mà tôi cần
nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập ". Hồ Chí
Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: "Không có gì
quý hơn độc lập, tự do". Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết
cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến
thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải
nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải
quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh quy
luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản,
vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân
tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Là một
chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân
1
tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa
yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ
Chí Minh.
Tại thủ đô nước Pháp, từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã từng phân tích
những lý do lịch sử và khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản dễ dàng vào Châu á, dễ
dàng hơn là ở Châu âu” (I, 35). Người còn nói: “ Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân
Châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân
lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ
có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn” (I, 36).
Ngay tại thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chiến lược của cách
mạng Việt Nam là hướng tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản, mà trước hết là tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyết định đó của Người là cơ sở khách quan và
khoa học. Trong một loạt bài viết hồi đó, đặc biệt là trong hai tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” (1925) và “Đường Kách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc một
mặt tố cáo sự bóc lột thậm tệ nhân dân các nước thuộc địa và cả ở chính quốc của
chủ nghĩa đế quốc thực dân, mặt khác tuyên truyền chủ nghĩa Lê nin một cách nhiệt
huyết và với niềm tin vô hạn, đồng thời kêu gọi nhân dân lao động bị áp bức đoàn
kết cùng nhau đánh đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng nền hòa bình thế giới. Người
hiểu rằng, chỉ có con đường duy nhất là làm cách mạng thì mới giành được độc lập
cho dân tộc, và làm theo cách mạng tháng Mười Nga thì mới đem lại tự do và hạnh
phúc cho dân mình. Điều này có nghĩa rằng, đối với các dân tộc thuộc địa, trong đó
có Việt Nam, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trước hết phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, người chủ trương “ làm tư sản dân quyền cách
mạng vá thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (III, 1).
Đây là một trong những luận điểm hết sức sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi
Người vận dụng chủ nghĩa Mác – lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2
Cách mạng là sự đồi mới đổi mới toàn diện trên cơ sở phá bỏ tận gốc chế độ xã hội
cũ lạc hậu, phản động. cuộc cách mạng nào cũng mang tính chất đó.Đảm bảo mọi
quyền lợi ra sao, như thế nào ? lại là một vấn đề khác. Mác đã nói: sự nghiệp cách
mạng là của quần chúng. Hy vọng được hưởng những thành quả của cách mạng,
nên quần chúng tham gia cách mạng như ngày hội và sẵn sàng hy sinh xương máu
chi cách mạng. Tuy nhiên, khảo sát từ thực tiễn, từ đầu những năm 20 của thế kỷ
XX Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét xác đáng: “cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ,nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa
và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục ( tước đoạt ) công nông,ngoài thi nó áp
bức thuộc địa. kách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu
cách mệnh lần nữa mới hằng mong thoát khỏi áp bức. kách mệnh An Nam nên nhớ
những điều ấy” (II, 274 ). Người đi đến khẳng định: “ trong thế giới bây giờ chỉ có
kách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi.( thành công triệt để ),
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,bình đẳng thật,không phải tự
do và bình đẳng giả dối như chủ nghĩa đế quốc Pháp khoe khoe khoang bên An
Nam”…. “ kách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì
phải (dựa vào ) dân chúng ( công nông ) làm gốc, phải có đảng vững bền,phải bền
gan, phải hy sinh, phải thống nhất.Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư( tức chủ nghĩa Mác ) và Lê nin” (II, 280 ).
Như vậy,ngay từ khi tiếp cận chủ nghĩa Mac – Lênin,Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu
và chấp nhận tính hiện đại của học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, bởi Người
nhận thức rằng, chỉ có chủ nghĩa này mới có thể giúp các dân tộc thuộc địa tiến
hành giành độc lập hoàn toàn và từ đó đưa nhân dân của mình tiến tới tới tự do,hạnh
phúc thực sự. Và, cũng vì vậy,ngay từ khi đó,trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã xác
lập một cách bền vững luận điểm độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Hồi đó, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “ Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi
ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng
không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực . đó là một sự thực hiện nhiên đối
với cả hai cuộc cách mạng – cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản.
3
Trong thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền,cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để
thực hiện các khẩu hiệu của mình và chuyển cuộc cách mạng tư sản dân quyền
thành cách mạng vô sản không thể giành được thắng lợi hoàn toàn nếu không có
khối liên minh cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân,nếu không có sự tham
gia tích cực của quần chúng nông dân bị áp bức vào việc thực hiện những khẩu hiệu
của cách mạng” (II, 413 ).
Quan điểm này về sau được Hồ Chí Minh cụ thể hóa, đặc biệt trong “ Chương
trình Việt Minh” (III, 583-586), trong bài báo “Dân Vận” (V, 698-700),cũng như ở
nhiều bài nói,bài viết khác, đều nhằm vận động quần chúng nhân dân, đối với Việt
Nam lúc bấy giờ đại bộ phận nông dân, ủng hộ và tham gia cách mạng, họ không
những được bảo đảm mọi quyền lợi mà còn được Đảng lãnh đạo với mục đích: “
Kháng chiến thẳng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới,tiến đến chủ
nghĩa xã hội,rồi đến chủ nghĩa cộng sản” (VII, 243 ). Dưới hình thức “thường thức
chính trị” ( VII, 201-251), Hồ Chí Minh giải thích một loạt khái niệm một cách giản
dị và đặt ra những nhiệm vụ hết sức cụ thể để cán bộ,đảng viên tuyên truyền mục
đích của Đảng ( lúc này là Đảng Lao động Việt Nam ). Người khẳng định,ngươi cày
có ruộng ( “canh giả hữu kỳ điền” ) chỉ là một chính sách dân chủ, nhưng dưới chế
độ dân chủ mới,về kinh tế,Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo “phát triển nông nghiệp,công
nghệ, thủ công,thương nghiệp,giao thông vận tải,để cải tiến kinh tế và tài chính của
nhà nước,cải thiện đời sống của nhân dân” trên cơ sở năm loại kinh tế khác nhau:
kinh tế quốc doanh; hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư
bản tư nhân; và, tư bản nhà nước (ngày nay gọi là kinh tế nhiều thành phần). Người
phân tích,loại đầu thuộc về chủ nghĩa xã hội và là “lãnh đạo”,loại thứ hai và ba là
nửa chủ nghĩa xã hội,hai loại cuối đương nhiên là chủ nghĩa tư bản. Người còn nhấn
mạnh,việc xây dựng kinh tế phải gắn mật thiết với xây dựng quân đội,xây dựng
chính quyền,xây dựng văn hóa và phát động quần chúng triệt để để thi hành chính
sách ruộng đất. Có thể hiểu “dân chủ mới” là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội,mà Việt Nam cũng như các nước Đông Âu,Trung Quốc phải kinh qua,do hoàn
cảnh lịch sử ở các nước này nên,đa số từ nền nông nghiệp lạc hậu đi lên,quy định.
Đây là một nhận thức rất mới của Hồ Chí Minh về quy luật phát triển các phương
4
thức sản xuất,các chế độ kinh tế -xã hội trong lịch sử xã hội loài người. Đây cũng là
sự vận dụng sáng tạo học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học Mác-Lênin vào hoàn
cảnh Việt Nam. Năm 1960, trong bài viết “ Ba mươi năm hoạt động của Đảng” (X,
7-22),Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm,tư tưởng và quyết tâm của Đảng là nhất
định đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,và người chỉ ra “đặc điểm to nhất của
ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Hai nhiệm
vụ,xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân chủ
ở miền nam, “đều nhằm mục tiêu chung là: củng cố hòa bình,thực hiện thống nhất
nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ”.
Như vậy là,trong bất kỳ hoàn cảnh nào của mỗi giai đoạn,của từng thời kỳ
cách mạng Việt Nam,Hồ Chí Minh cũng kiên trì giữ vững quan điểm “độc lập tự
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Lập trường trước sau như một của Người là
có cơ sở lý luận và thực tiễn,phù hợp với quy luật khách quan,có giá trị bổ sung vào
học thuyết Mác-Lênin và có thể áp dụng rộng rãi đối với các nước có hoàn cảnh
tương tự Việt Nam trên con đường tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay
là tất yếu,vì theo Hồ Chí Minh,chỉ có chủ nghĩa xã hội (và chủ nghĩa cộng sản) mới
có khả năng giải quyết mâu thuẫn về quyền tư hữu tư liệu sản xuất,cái mà từ đó sinh
ra mâu thuẫn giai cấp và tình trạng khủng hoảng về mọi mặt trong lòng chủ nghĩa tư
bả. Và điều quan trọng hơn,chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được mục tiêu:
“Ai cũng no ấm,sung sướng,tự do,ai cũng có thông thái đạo đức” (VII, 251).Luận
điểm “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” hình thành ở thành phố Hồ Chí
Minh từ rất sớm.trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc dành hẳn
một chương viết về “hợp tác xã” (II,313-318) ,mà theo Người hợp tác xã là loại
kinh tế nửa xã hội chủ nghĩa và là “góp gạọ thổi cơm chung” cho khỏi hao của,tốn
công,lại có nhiều phần vui vẻ,cũng có nghĩa rằng hợp tác xã vừa có ý nghĩa một loại
hình tổ chức sản xuất ( thuộc phạm trù kinh tế) vừa bao hàm cả ý nghĩa xã hội. Đúc
rút từ lịch sử hình thành và phát triển loại thành phần kinh tế này, Nguyễn Ái Quốc
chỉ ra rằng,hợp tác xã trước là có ích lợi cho dân,sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư
5
bản và đế quốc chủ nghĩa”. Với Việt Nam,đại bộ phận dân số là nông dân với nền
sản xuất chủ yếu là nông nghiệp và khá phát triển các hoạt động thương nghiệp,tiểu
thủ công nghiệp,việc áp dụng loại hình hợp tác xã là phù hợp và rất cần thiết. Về
cách tổ chức hợp tác xã,Người viết: “ Không phải làng nào cũng phải lập mỗi làng
mỗi hợp tác xã. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy hợp tác xã. Cũng không
phải có hợp tác xã này thì không lập hợp tác xã kia.Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi
nào lập được hợp tác xã nào và có khi hai hợp tác xã –mua và bán –lập chung cũng
được”.
Hồ Chí Minh bàn về hợp tác xã hội trước khi dân tộc giành được độc lập. Đó là tầm
nhìn chiến lược . Luôn luôn nghĩ vê quyền lợi của nước, của dân Ngươi sớm ý thức
tìm phương cáchto63 chức nhân dân để họ tự giác cải thiên điều kiện lao động, cải
thiện đời sống của chính họ và đấu tranh chống sự bóc lột của giai cấp thống trị .
Bàn về hợp tác xã, Người đã trang bị cho quần chúng nhân dân cả lý luân va vũ khí
đê ho chuẩn bị tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần tiên lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội .Hợp tác xã càng phát triển rộng rãi thì cách mạng càng đông lực
lượng và càng bền vững về mọi phương diện (tất nhiên là trong điều kiên của chế
độ dân chủ mới , trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo). Chuẩn bị xây dựng hợp
tác xã cũng là một yếu tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Nghiên
cứu những tinh hoa mà nền văn minh nhân loại đã đạt được, hiểu rõ bản chât va
những ích lợi do chúng đem lại,vận dụng chúng có chọn lọc vào con đường cch1
mạng của nước mình, trực tiếp giúp cho dân mình cải tạo xã hội và cải tạo chính
bản thân họ để vươn tới cuộc sống mới , đó là nét đặc sắc , độc đáo trong tư tưởng
và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đấu tranh đánh đổ cái cũ lạc hậu, phản
động, đồng thời tiến hành xây dựng cái mớ tiên tiến là phương châm ứng sử , là
phương pháp tư duy đúng đắn , xuyên suốt cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh .
Đó chính la cốt lõi của luận điểm kết hợp dộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu và vân dụng chủ nghĩa xã hội khoa học Mác – Lê nin, hơn ai hết
Hồ Chi Minh thấu triết rằng :trong xu thế của thời đại , cách mạng Việt Nam muốn
6
đi đến thắng lợi hoàn toàn , thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu ,vấn đề
còn lại là chọn các bước đi thích hợp, các biện pháp , phương pháp thích hợp để
đảm bảo thắng lợi cho cung thời kỳ , từng giai đoạn . Phải am hiểu sâu sắc, tinh
tường , nắm trắc cái nền tảng , gốc gác , cái cơ bản , chính yếu của học thuyết Mác
– Lênin, một học thuyết đồ sộ có tác dụng cải tạo thế giới một cách triệt để , thì Hồ
Chí Minh mới nói và viết những vấn đề to lớn , phức tạp một cách đơn giản , mạch
lạc, sáng sủa, dễ hiểu ,dễ đi vào long người. Hồ Chí Minh có lối tư duy và diễn đạt
khác người, khó có ai bắt trước nổi; cái khác người ấy lại không xa lạ với quảng đại
quần chúng lao động nghèo khổ, nên họ tiếp thu nhanh , nhớ lâu va dễ làm theo .
Bởi, tư tưởng Hồ Chí Minh gần với nguyện vọng của người lao động , lý luân đấy
mà như không lý luận. Người toàn dùng “ chữ nhỏ ” thôi mà toàn dùng những
“chuyện “ lớn , rất lớn . Tư tưởng Hồ Chí Minh là tổng hòa những mạch tư duy của
người về những vấn đề , những lĩnh vực khác nhau, hòa quyện trong nhau thành
một dòng chủ đạo là độc lập dân tôc và chủ nghĩa xa hội . cách mang Việt Nam
muốn đi đến thắng lợi hoàn toàn , thì toàn bộ tiến trình của nó và ở tưng bước đi cụ
thể của nó không thể tách rời , không được tách rời hai nhiệm vụ cách mạng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa . Phát biểu ngắn gọn và súc tích về sự nghiệp báo
chí cách mạng của mình , tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam ,ngày 6
tháng 4 năm 1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “vê nội dung viết , mà các cô các chú
gọi là “đề tài “, thi tất cả đề tài Bác viết chỉ có một “đề tài “:chống thực dân đê quốc
, chống phong kiến địa chủ , tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó “ (IX , 419 ).
Độc lập dân tộc và chu nghĩa xã hội , như Hồ Chí Minh đã nói, đó là :” Nước
ta hoàn toàn độc lập , dân ta được hoàn toàn tự do , đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành “. Lời nói đó không chỉ là “sự ham muốn tột bậc “ của
người , nó là mục đích cuối cùng của cách mạng , của con đường cách mạng mà
người lựa chọn và dẫn dắt toàn dân thực hiện . Lịch sử cách mạng của dân tộc trên
thế giới , kể cả thành công và thất bại , dã giúp Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi
của cách mạng Việt Nam . thực tiễn của cách mạng tháng Mười Nga đã giúp Hồ
Chí Minh khẳng định con đường đi của cách mạng Việt Nam . Người viết về cách
7
mạng tháng Mười và một tình cảm sâu đậm:” Như ánh mặt trời rạng đông xua tan
bóng tối . Cuộc cách mạng tháng mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài
người “, và :Cách mạng tháng mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên
chính của bọn bóc lột , xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa , một xã hội bảo đảm cho
đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy , đưa quần chúng
lao động đến một cuộc sống xứng đáng , vẻ vang và ngày cang phồn vinh, làm cho
người lao động có một Tổ quốc tư do, hạnh phúc và hùng cường , hướng tới những
chân trời tươi sáng , mà trước kia không thể nghĩ tới “ (VIII, 558 – 560). Ngày trước
, đọc “Luận cương về vấn đề thuộc địa” của Lênin , chủ nghĩa yêu nước của
Nguyễn Ái Quốc được tiếp sức và phát triển tư duy nên tầm cao mới ; sau này , thực
tiễn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với những thành tựu chói
sáng càng thúc giục Hồ Chí Minh phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội .
Tính biện chứng của độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là một khách
quan , tất yếu; có giành được độc lập dân tộc thì mới có điều kiện , nên tảng để tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội . (Điều này không chỉ đúng với các dân tộc thuộc
địa , mà còn đúng với cả các nước tư bản phát triển trong việc chính đảng của giai
cấp công nhân có giành được lại được quyền lãnh đạo về tay giai cấp mình không ,
để từ đó xây dựng chế độ xã hội mới , thiết lập một phương thức sản xuất mới .
Thực tế cho thấy , ngoài Cuộc cách mạng tháng Mười Nga , phong trào cộng sản ở
các nước tư bản chủ nghĩa chưa đủ sức mạnh để lật nhào chế độ tư bản , đánh đổ
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ). Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ,
một mặt la điều kiện để đảm bảo cho những giá trị mà cách mạng dân tộc dân chủ
đạt được , mặt khác đem lại cho quần chúng nhân dân lao động những điều kiện
phát triển mới , có tương lai , có hiện thực nhìn thấy được .
Tiến hành cuộc cách mạnh xã hối chủ nghĩa , chính đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo của giai cấp mình tiến hành một cuộc đổi mới toàn diện , đổi mới tận
gốc chế độ bóc lột , trực tiếp là chủ nghĩa tư bản , tiêu diệt nó bằng cách , như cách
nói của Nguyễn Ái Quốc là cắt đứt cả hai cái vòi của con đỉa đế quốc thực dân , bắt
tay vào xây dựng phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất xã hội chủ
8
nghĩa – một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ để tiến tới chủ nghĩa cộng sản trên
phạm vi toàn thế giới . Trái lại với nền kinh tế tư bản chu nghĩa – nền kinh tế dựa
vào bóc lột giai cấp công nhân ngày càng nặng nề , sự bần cùng hóa quần chúng lao
động và sự cướp bóc của dân tộc bị nô dịch , nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm
thỏa mãn những nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động
trên cơ sợ nhà nước dân chủ nhân dân lắm quyền sở hữu về vật tư sản xuất , đẩy
mạnh công nghiệp hóa , không ngừng tăng năng xuất lao động và phát triển văn hóa
. Hay nói cách khác , nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo :quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ; vì vậy tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng ; cách mạng quan hệ sản xuất , cách mạng khoa
học – kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa trong đó cách mạng khoa học – kỹ
thuật là then chốt – là đòi hỏi khách quan , có tính quy luật .
Thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh đã chứng minh
chân thực và hùng hồn sự kiên định của Người về lập trường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội . Sự kiên định của người xuất phát từ nhân cách “cách
mạng tiên cách tâm”, từ sự kết tinh văn hóa nhân loại , từ truyền thống đến hiện
đại . Khát vọng của người là khát vọng chung của nhân loại cần lao . Người đấu
tranh vì nền tự do của dân tộc mình và vì nền hòa bình thế giới . Người dẫn dắt cách
mang Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và làm phong phú thêm chủ
nghĩa Lênin , góp phần to lớn vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế . Kết
quả hoạt động của người ở mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam đều đóng những giấu
son vào lịch sử dân tộc . Đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và
mười lăm năm sau là sự ra đời của nước Việt Nam độc lập . Thời kỳ này (từ năm
1911, đặc biệt sau năm 1919 ), tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và cơ bản hoàn
thiện v07i1 một loạt luận điểm cách mạng sáng tạo , xác lập cho một cách mạng
Việt Nam một đường hướng rõ nét nhất quán từ lý luận đến hành động cách mạng .
Đường lối khang chiến - kiến quốc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo tiếp tục thực hiên tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và được nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo – lấy nhân nghĩa
thắng hung tàn . Cuộc kháng chiến trường kỳ đã huy động toàn dân tham gia , dựa
9
vào long dân , sức dân để chiến thắng quân xâm lược , chắc thắng mới đánh và đã
đánh là thắng lợi . Toàn dân hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi
đua là yêu nước , yêu nước phải thi dua “ – thi đua đánh giặc va thi đua sản xuất .
“Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hanh tiết kiệm”, không chỉ là tinh thần tự
lực tự cường mà còn là thước đo về đạo đức cách mạng . Hiếm có những dân tộc
nào như Việt Nam co được một cuộc thi đua rầm rộ như thế , một cuộc thi đua biểu
thị sức mạnh của dân tộc và mang tính chất , đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa ,
vì mỗi người dân đều biết đặt lợi ích dân tộc , lợi ích cách mạng nên trên hết thảy ,
sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân , gia đình , làng xóm để giữ vững nền độc lập – tự
do , “thà chết chứ không chịu làm nô lệ “ , “Tổ quốc hay là chết “.Chiến thắng Điện
Biên Phủ , ngày 7 tháng 5 năm 1954 , mở ra cho cách mạng Việt Nam một thời kỳ
mới . hơn lúc nào hết , tư tưởng dộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội càng
được thăng hoa lên đỉnh cao là chủ nghĩa anh hùng cách mạng – anh hung trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, anh hùng trong chiến đấu chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
. Đồng bào và chiến sĩ hai miền, tiền tuyến và hậu phương , cùng thi đua và làm hậu
thuẫn cho nhau để hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam , tiến tới thống nhất
nước nhà và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội . Cũng chưa có một dân tộc nào trên
thế giới thực hiện thắng lợi tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
như ở Việt Nam, điều này lý giải vì sao Việt Nam, một nước đất không rộng , người
không đông, điều kiện kinh tế - xã hội nghèo nàn, lạc hậu, tiêm lực quân sự nhỏ bé ,
lại chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội , Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành
thắng lợi hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kéo dài ròng rã suốt ba mươi năm, làm
nên một Việt Nam huyền thoại trong thế kỷ XX.
Tuy nhiên , thật không đầy đủ và thiếu khách quan nếu không phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới .
Ngay từ những ngày đầu trên đường tim sư thật về khẩu hiệu : Bình đẳng , Tự do,
Bác ái , Nguyễn Ái Quốc đã ý thức sâu sắc rằng:muốn giành lại được độc lập cho
dân tộc thì phải liên minh với nhân dân lao động các nước thuộc địa, với giai câp vô
sản thế giới , phải tạo ra một lực lượng ủng hộ và đấu tranh cho nền hòa bình có quy
10
mô toàn cầu . Đi khắp thế giới , thâm nhập vào đời sống người lao động , tham gia
hoạt động trong các tổ chức cách mạng liên hệ chặt chẽ với các nhân sĩ trí thức ở
nhiều lĩnh vực , và đặc biết là hoạt động báo chí , với trí tuệ và nhân cách , đạo đức
của mình , Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ sự đồng cảm, sự hiểu
biết lẫn nhau , quy tu lương tri vê phía minh . Kết quả đó không chỉ giúp Người
vượt qua những thách thức trong ba mươi năm bôn ba đất khách quê người và giúp
Ngươi hình thanh , hoàn thiện hệ thống lý luân cách mạng , ma sau này còn giúp
dân tộc ta không lẻ loi , đơn chiếc trong cả kháng chiến cứu nước và kiến thiết nhà
nước nhà . Trong bất kỳ hoàn cảnh nào , Việt Nam luôn luôn có những người bạn
sát cánh bên mình.
“Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới “ – đó là một
luận điểm hết sức sáng tạo của Hồ Chí Minh khi Người tiếp thu của chủ nghĩa Mác
Lênin. Người nhận thức rằng :” Thế giới chỉ có hòa bình cuối cùng khi cả các dân
tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở
khắp mọi nơi mà họ gặp nó “ (I , 27). Điều này các nhà yêu nước Việt Nam theo
chủ nghĩa dân tộc (khác với chủ nghĩa dân tộc) trước Hồ Chí Minh chưa thấy được .
Họ chủ chương dựa vào Pháp hoặc Nhật , chứ không phải đoàn kết với người giai
cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để tiến hành giải phóng dân tộc , nen đã
thất bại . Ngược lại Hồ Chí Minh chủ chương xây dựng từ lực lượng từ quần chúng
nhân dân trong nước , tuyên truyền và giác ngộ họ, đưa họ hòa nhập vào dòng thác
cách mạng thế giới , tạo nên sức mạnh vô địch . Vì vậy , cách mạng Việt Nam do
Hồ chí Minh cầm lái vừa có đặc điểm dân tộc vừa mang tính thời đại, có phương
hướng rõ rệt và mỗi bước phát triển đều vững chắc nhờ các biện pháp tổ chức khoa
học , khôn khéo . Mỗi quan hệ giữa cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới được
Hồ Chí Minh củng cố và thúc đẩy không ngừng . Người không chỉ tuyên truyền để
các chiến sĩ cộng sản thế giới hiểu về nỗi khổ cực của người Việt Nam trong cảnh
mất nước phải làm nô lệ , vận động họ ủng hộ cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa
, mà còn nhiệt tình và chân thành vận động giáo dục nhân dân Việt Nam ủng hộ các
cuộc cách mạng , các phong trào đấu tranh của các dân tộc khác với cách mạng
Trung Quốc , Người Viết :” Phong trào giải phóng của Việt Nam là đội quân đồng
11
minh trong cuộc kháng chiến chống Nhật và Trung Quốc . Về tinh thần cũng như về
vật chất , chúng ta đều cần phải cổ vũ và giúp đỡ “ (III, 184 – 185). Với cách mạng
Cuba: “Việt Nam ta với Cuba cùng chung một kẻ thù là đế quốc Mỹ . Cho nên nhân
dân ta càng nhiệt liệt ủng hộ Cuba anh em và tin chắc rằng nhân dân Cuba nhất định
sẽ thắng “ (, 631).
Hồ Chí Minh có một niềm tin đặc biệt vào tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản ,
vì đó là sự đoàn kết của những người lao động cần lao sống trong cảnh áp bức chỉ
có một khát vọng duy nhất là được giải phóng được hưởng những quyền của con
người . Họ đi theo cách mạng và trở thành lực lượng lòng cốt của cách mạng , họ
dám hy sinh tính mạng vì mục đích cao đẹp của cách mạng , bởi họ biết rằng họ
chẳng mất gi cả ngoài xiềng xích , gông cùm mà chủ nghĩa đế quốc đeo vào cổ họ.
Do vậy, đoàn kết dân tộc , đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc tế luôn gắn bó vói
nhau, là động lực đưa cách mạng tới thành công. Hồ Chí Minh nói: “ Đoàn kết ,
đoàn kết , đại đoàn kết . Thành công, thành công , đại thành công” nghĩa là như
vậy . “ Đoàn kết “ bao hàm cả ý nghĩa sức mạnh của tổ chức.
Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng có tổ chức, tổ chức rất chặt chẽ và ở
trình độ cao , tổ chức trong lý luận và trong thực tiễn hoạt động , tổ chức trong xây
cái mới và chống cái lạc hậu , tổ chức trong đời sống vật chất và trong đời sống văn
hóa . Chỉ có tổ chức theo tinh thần cách mạng như vậy mới giành được thắng lợi
hoàn toàn , bởi cách tổ chức ấy là một khoa học và có tính kỷ luật cao, vận dụng
không chỉ trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong cách mạng xã hội chu
nghĩa . Cách tộ chúc ấy là nền tảng đễ thực hiện dân chủ rộng rãi trong toàn xã hội .
Muốn giành được độc lập dân tộc và sau đó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
đều phải có lực lượng cách mạng và trí thức cách mạng. Chính đảng của giai cấp vô
sản có nhiệm vụ xây dựng lực lượng và tuyên truyền , giáo dục quần chúng nhân
dân hiểu biết , nâng cao sự hiểu biết về cách mạng, tức là giác ngộ họ nhận thức đầy
đủ về nghĩa vụ và quyền lợi đối với cuộc cách mạng mà họ tự nguyện đứng vào
hàng ngũ tranh đấu . Sự nghiệp năm mươi năm hoạt động báo chí trong cuộc đời
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm, lập trường cách mạng
một cách triệt để và Người đã để lại một di sản tinh thần vô giá – đó là tư tưởng Hồ
12
Chí Minh.
Đoàn kết các dân tộc bị áp bức và toàn thể lao động trong cuộc đấu tranh cách
mạng vì một nền hòa bình thế giới đã trở thành một nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin – Lênin dã thực hiện thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
Nga tư bản . Sự thành công ấy khuyến khích các dân tộc trên thế giới vùng dậy , nó
là hạt nhân cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển . Những
thành tựu to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đạt được trong
bảy mươi năm của thế kỷ XX là một hiện thực không thể xóa nhòa . Mặc dù tan rã ,
nhưng hình ảnh sinh động của một Liên bang Xô viết vẫn còn và sẽ còn mãi mãi
trong trí nhớ của lịch sử tiến hóa nhân loại ;và , nó sẽ trở lại , phổ biến trên toàn cầu
, bởi những người cộng sản chân chính và toàn thể nhân loại tiến bộ đều hiểu rằng
:sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ vào cuối thế
kỷ XX , về khách quan là do lực lượng đế quốc quốc tế tập trung phá hoại , lũng
đoạn . Về chủ quan là do sư phân liệt trong bản thân nội bộ phong trào cộng sản
quốc tế , lam mất đi sự đoan kết trong sáng đã hình thành trong thực tiễn đấu
tranhcach1 mạng . Là một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc , có nhiều đóng góp quý báu xây
dựng đoàn kết quốc tế , hơn ai hết Hồ Chí Minh rất xót xa , đau lòng trước sư rạn
nứt và mâu thuẫn giữa các đảng anh em, Người thấy trước nguy cơ và hậu quả của
sư rạn nứt này . Trước lúc đi xa , Người căn dặn những người cộng sản Việt Nam :
“Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động , góp phần đắc lực vào việc khôi phục
lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản , có lý , có tình .
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn
kết lại “ (XII , 511 – 512).
Tư tưởng đoàn kết của Hô Chí Minh – đoàn kết dân tộc , đoàn kết giai cấp ,
đoàn kết quốc tế - vừa là mục tiêu chiến lược , vừa là động cơ , phương pháp , biện
pháp trong thực hiện đồng thời hai cuộc cách mạng – độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam . Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập đảng , Hồ Chí Minh nói :
“Nhưng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ ; thắng bân cùng và lạc hậu
13
còn khó hơn nhiều. Ngày nay ở miền bắc hoàn toàn giải phóng , Đảng đoàn kết và
lãnh đạo nhân dân ta thi đua kiến thiết chủ nghĩa xã hội , xây dựng đời sống vui tươi
, no ấm và mỹ tục thuần phong. Hễ còn có một người Việt Nam nào bị bóc lột , bị
nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ .
Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của
nước ta thành một nền kinh tế văn hóa tiên tiến , Đồng thời lại luôn luôn quan tâm
đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của
nhân dân . Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước , đồng thời vi nó gần gũi
tận trong long của mỗi đồng bào ta.
Đảng ta vĩ đại thật , vì ngoại lợi ích của giai cấp , của nhân dân , của dân tộc ,
Đảng ta không có lợi ích gi khác .
Nhiệm vụ hiện nay của đảng ta là lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh thi đua tăng gia
sản xuất , thực hành tiết kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở
vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà “ (X , 4 ).
Đoạn văn trên đây là một sự đúc kết sinh động , thể hiện những luận điểm cơ bản tư
tưởng của Hồ Chí Minh . Ở đây đặc biệt toát lên mục tiêu và nội dung của chủ
nghĩa xã hội một cách đầy đủ , toàn diện và thiết thực ; nó cũng toát lên tính lôgic
biện chứng trong lý luận của Người , một cách tư duy trong sáng , mạch lạc dưới
một hình thức giản dị nhưng có giá trị triết lý sâu sắc của một nhà hiền triết phương
Đông. Cách tư duy của Hồ Chí Minh hàm ẩn bên trong những yếu tố cấu thành của
một học thuyết mang đậm tính nhân văn , nhân đạo , mà hình thức diễn đạt giản dị
bề ngoài chưa hẳn đã nhận thấy ngay được . Toàn bộ các tác phẩm , những bài viết ,
bài nói của Người cũng nhu lối sống nếp sống trong đời sống hàng ngày của Người
đều thấm đượm chủ nghĩa nhân văn , nhân đạo cao cả ấy . Không phải ngẫu nhiên
trong tuyên truyền chủ nghĩa xã hội và giáo dục đạo đức cách mạng , Hồ Chí Minh
lại diễn ra những lời dạy của các nhà tư tưởng tiền bối với một sự đúc kết cô đọng :
“Chúa Giêsu dạy :Đạo đức là bác ái .
Phật Thích ca dạy :Đạo đức là từ bi .
Khổng Tử dạy :Đạo đức là nhân nghĩa “ (VI , 225 ). Người rút ra từ các nhà tiền bối
14
này cái bản chất nhất , cái tiến bộ nhất , cái con người nhất mà giá trị của chúng là
để cải tạo xã hội , cải tạo con người , chứ người không đồng tình với phương pháp
hành xử không mang tính cách mạng triệt để trong toàn bộ học thuyết của họ , mà
chính giai cấp bóc lột ở mọi thời đại sau họ đã lợi dụng đưa con người vào sư mê
hoặc , ngu tối , kéo lùi sự tiến bộ của xã hội loài người . Người ca ngợi sự vĩ đại của
Lê nin :
“Không phải chỉ thiên tài của người , mà là tính coi khinhsu75 xa hoa , tinh
thần yêu lao động , đời tư trong sáng , nếp sống giản dị , tóm lại là đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy , đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến
cho trái tim của họ hướng về người , không gì ngăn cản nổi “ (I , 295 ).
Đạo đức cách mạng chính là gốc của đoàn kết , gốc của chủ nghĩa xã hội . Không có
đạo đức cách mạng thì không thể tiến hành cách mạng . Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng , thì sức mạnh ấy chỉ có được khi đoàn kết họ lại thành một lực
lượng có cùng ý chí và hành động hướng tới mục đích chung , biết đặt lợi ích của cá
nhân dưới lợi ích của cách mạng . Phương châm “cách mạng tiên cách tâm” của Hồ
Chí Minh là như vậy . Mỗi người tham gia vào cuộc cách mạng thì trước hết phải tự
mình xóa bỏ những thói hư tật xấu thì mới có thể tiếp thu những cái tốt , cái đẹp ,
mới có thể giáo dục , vận động những người khác làm cách mạng . Do vậy , quần
chúng nhân dân đi theo cách mạng , trước hết là họ nhận thấy người cách mạng có
đạo đức – những người sẽ đem lại cho họ tương lai tốt đẹp hơn , rằng cuộc sống
mới không chỉ cho họ đời sống tự do mà còn đảm bảo cơm no, áo ấm , quyền làm
chủ, bình đẳng để tư do phát triển hết năng lực của mình . Xã hội ấy phải có một
nền tảng đạo đức chung , một nền văn hóa thống nhất và bền vững . Nhận thức
đúng đắn về một xã hội như vậy là cả một quá trình lâu dài và thường xuyên phải
đấu tranh trên tinh thần vừa xây vừa chống , vừa kháng chiến vừa kiến quốc , tăng
gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm , nói phải đi đôi với làm , tự phê
bình và phê bình, tóm lại là mọi người phải thi đua yêu nước .
Lý luận của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trải
ra trên một bình diện rộng lớn bao quát đầy đủ mọi vấn đề , mọi yếu tố và thiết thực
ngay cho mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể , đem lại những giá trị vật chất và tinh
15
thần cho dân tộc và cho nhân dân . Vì thế , cứ trải qua mỗi chặng đường cách
mạng , những thắng lợi đạt được đã nângvi5 thế của dân tộc nên tầm cao mới trên
trường quốc tế và càng củng cố sự đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân Việt Nam . Đây là bài học quý giá nhất , có tầm chiến lược lớn , được
rút ra từ cách mạng Việt Nam đối với cách mạng ở các dân tộc khác . Độc lập tự
chủ trong mọi hoàn cảnh , tự lực tự cường trong mọi điều kiện và là nhân tố tiến
quyêt để xác lập mối đoàn kết giũa các dân tộc . Hồ Chí Minh viết :
“ Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất chảy về một hướng mới thành suối
thành sông . Biết bao nhiêu giọt nước hợp lại mới thành biển cả . Một pho tượng
hay một lâu đài cũng phải có một cái nền rất vững chắc mới đứng vững được .
Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cá nền . Như
thế là chỉ thấy cái ngọn mà không thấy cái gốc “ (XII, 594).
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: Đảng ta phải luôn luôn lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng , làm kim chỉ lam cho mọi hành động . Người
nói :
“ Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin , tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp
vô sản và của dân tộc ; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong đảng và sự đoàn kết nhất
trí giữa các đảng cộng sản , giữa các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa , đó là
cái đảm bảo chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi .
Từ trước tới nay, đảng ta đã làm đúng như thế . Từ nay về sau , đảng ta nhất
định làm đúng như thế (X,197- 198).
“ Cái nền “, “cái gốc” mà Hồ Chí Minh thường nhắc nhở , được Người diễn
đạt dưới nhiều khía cạnh và nhiều hình thức khác nhau , trong đó quan trọng nhất là
chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống quý báu của dân tộc . Luận điểm độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên cái nền vững chắc ấy và trở
thành nhân tố quan trọng của tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện
nay, đất nước ta đang đứng trước cả thời cơ và thách thức mới trên con đường phát
triển. Những thời cơ, thách thức đó đang tác động mạnh mẽ đến con đường độc lập
16
dân tộc gắn liền với CNXH. Những yếu tố bên trong và bên ngoài đan xen nhau, tác
động lẫn nhau, thậm chí chuyển hoá cho nhau và có những thách thức làm cho nước
ta có nguy cơ chệch hướng XHCN. Thời cơ, thách thức, nguy cơ đi liền với nhau,
chuyển hoá lẫn nhau trong một thời kỳ, một giai đoạn, thậm chí trong cùng một thời
điểm, đã làm cho bức tranh toàn cảnh của một nước Việt Nam đang trên đà phát
triển rất phong phú về sắc màu, và do đó cũng có thể gây nên sự nhìn nhận về các
sự vật và hiện tượng có khác nhau. Tất cả những cái đó đang đặt Việt Nam đứng
trước một thử thách nghiệt ngã trong những năm tới: vừa phải bứt lên mạnh mẽ để
theo kịp bước tiến chung của nhân loại, để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vừa phải giữ vững được con đường độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự phát triển của nước ta sẽ bị chệch hướng XHCN
nếu không khắc phục được những lệch lạc trong việc đề ra chủ trương, chính sách
và chỉ đạo thực hiện. Thực ra, nguyên nhân của chệch hướng XHCN là sự tổng hợp
tất cả các nguyên nhân; của nguy cơ bên trong và bên ngoài; cả nguyên nhân sâu xa
lẫn nguyên nhân trực tiếp.
Để bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền CNXH và thực hiện thắng lợi mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trong giai đoạn mới,
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung
sau: Một là, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; hai
là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; ba là, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia; năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; sáu là, xây dựng nền dân chủ
XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất;bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trở thành
điều kiện tiên quyết, là nhiệm vụ then chốt của cách mạng Việt Nam. Do đó, trong
công tác xây dựng Đảng, phải coi trọng xây dựng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức;
đổi mới phương thức lãnh đạo, ; trong đó, hai mặt cơ bản nhất là: bảo đảm sự đúng
17
đắn của đường lối chính trị và tránh quan liêu xa rời quần chúng. Trong quá trình
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
cần đặc biệt quan tâm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm cho lực lượng vũ trang ba thứ quân
luôn có giác ngộ chính trị cao, có tinh thần yêu nước nồng nàn, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, thực sự là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn
dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Làm tốt những vấn đề nêu trên sẽ góp phần giữ vững độc lập dân tộc, bảo đảm
điều kiện xây dựng đất nước hùng cường, phát triển theo đúng con đường mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
18