BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
VŨ XUÂN TÙNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Phạm Thái
Học viên: Vũ Xuân Tùng
Lớp: Cao học luật, Khóa 29
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Ngƣời Cam Đoan
Vũ Xuân Tùng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự
BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS
Cơ quan điều tra
CQĐT
Điều tra viên
ĐTV
Tố tụng Hình sự
TTHS
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
BỊ CAN .......................................................................................................................6
1.1. Khái niệm, nội dung, cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị
can ..........................................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm “quyền và nghĩa vụ của bị can” .............................................6
1.1.2. Nội dung quyền và nghĩa vụ của bị can ...................................................9
1.1.3. Cơ sở việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can ................................13
1.1.4. Ý nghĩa việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can .............................17
1.2. Kinh nghiệm lập pháp quốc tế về quyền và nghĩa vụ của bị can ............19
1.2.1. Công ước Châu âu về quyền con người của người bị buộc tội ..............19
1.2.2. Pháp luật TTHS Hoa Kỳ quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can .....23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................25
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN ..............................................26
2.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về quyền và nghĩa
vụ của bị can qua các thời kỳ lịch sử ................................................................26
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn 1945 - 1988 ..................26
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của bị can theo Luật tố tụng hình sự năm 1988 ......29
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của bị can theo luật Tố tụng Hình sự năm 2003 .....32
2.2. Quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị can ......36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................46
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA BỊ CAN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................................47
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can ................47
3.1.1. Khái qt tình hình xây dựng và hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự về
quyền và nghĩa vụ bị can ở Việt Nam hiện nay ................................................47
3.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can ...............49
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của Pháp luật tố tụng
hình sự về quyền và nghĩa vụ của bị can ..........................................................57
3.2.1. Kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................58
3.2.2. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật ...................................................62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................66
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục
đích xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày
càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ
công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”.
Hoạt động giải quyết vụ án hình sự là nơi quyền lực nhà nước được thể hiện
rõ ràng nhất thông qua các biện pháp cưỡng chế và liên quan chặt chẽ với quyền
con người; cũng chính là nơi quyền con người dễ bị xâm hại nhất. Việc đảm bảo
cho những người tham gia tố tụng được bình đẳng và được pháp luật bảo vệ và vấn
đề cấp thiết cần đặt ra đặc biệt là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hơn
thế phải khẳng định rằng “Họ chưa phải là người có tội”, chính vì vậy việc Nhà
nước đảm bảo họ được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ là việc
làm hết sức cần thiết. Tuy nhiên việc đảm bảo quyền khơng có nghĩa là những
người này tách khỏi những nghĩa vụ mà họ cần phải thực hiện trong quá trình tham
gia tố tụng. Tổng thể những điều đó tập hợp thành một chế định quan trọng trong
Luật tố tụng hình sự là chế định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội nói chung
và bị can nói riêng.
Nhưng khơng phải lúc nào quyền và nghĩa vụ của bị can cũng được thể chế
hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự cụ thể, đầy đủ như ngày nay. Sự ra đời của Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 1988, tiếp theo là Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã tạo ra những thay đổi rõ rệt về quy định quyền,
nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự. Nói như vậy khơng có nghĩa là chế định
quyền và nghĩa vụ của bị can theo luật tố tụng hình sự Việt Nam đã hồn hảo. Bởi
lẽ, thực tiễn tố tụng hình sự trong những năm qua cho thấy, có những quyền của bị
can được quy định khá rõ ràng và đầy đủ nhưng lại chưa có cơ chế đảm bảo thực
hiện, dẫn đến tình trạng sự tồn tại những quyền đó cịn mang tính hình thức, chưa
thực sự là phương tiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể này. Chính bởi
vậy, chế định quyền và nghĩa vụ của bị can theo luật tố tụng hình sự vẫn ln được
2
các nhà làm luật, những người nghiên cứu pháp luật, những người áp dụng pháp
luật và rất nhiều người dân quan tâm.
Để đáp ứng nhu cầu cải cách nền tư pháp, đáp ứng xu hướng bảo vệ quyền con
người theo luật pháp quốc tế, cần có một nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ pháp lý
của bị can theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về bị can theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam với quy mơ là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Cho nên, việc
nghiên cứu chế định về bị can để làm rõ những vấn đề trên có ý nghĩa quan trọng và
cần thiết. Chính vì lý do đó, chúng tơi chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của bị can
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với hy vọng có thể góp phần làm sáng tỏ hơn chế định về bị can, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy định về “Quyền và nghĩa vụ của bị can theo Luật tố tụng hình sự” là một
quy định quan trọng, có liên quan chặt chẽ và mật thiết với nhiều quy định khác
trong luật tố tụng hình sự. Trước hết, quy định này được ghi nhận trong hầu hết Bộ
luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, từ khi Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 ra đời, cũng được ghi nhận một cách khá đầy đủ và thành một
chỉnh thể thống nhất. Bởi quá trình giải quyết vụ án hình sự đều xoay quanh bị can
nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
phụ thuộc rất nhiều vào việc tuân thủ đúng pháp luật của các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đầu tiên, quy định quyền và nghĩa vụ của bị can được đề cập, phân tích trong
một số giáo trình mang hàm lượng khoa học cao như: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự
(NXB Hồng Đức, 2018) do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng
hình sự (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016) do TS. Phạm Mạnh Hùng chủ biên;
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự (NXB Cơng an nhân dân, 2010) của trường Đại học
Luật Hà Nội do PGS.TS Hồng Thị Minh Sơn chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam (Nxb Đại học Quốc gia, 2001) do TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên;….
Tiếp đến, quyền của bị can thường bị xâm phạm nên có rất nhiều cơng trình
khoa học quan tâm đến vấn đề bảo vệ những quyền này. Đáng chú ý là: cuốn sách
3
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1999) của Luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải; cuốn sách Về bảo đảm quyền, lợi ích
hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009) của TS. Trần Quang Tiệp; cuốn sách Bảo vệ quyền con người
trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003) của TS.Trần Quang Tiệp.
Bên cạnh đó, có rất nhiều khía cạnh có liên quan đến quyền của bị can được đề
cập đến trong các cơng trình khoa học khác như: luận án tiến sĩ luật "Thực hiện quyền
bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự" của Hoàng Thị Sơn (Đại học Luật
Hà Nội, 2003); luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay" của Hồng Hải Hùng (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000); Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện
nay” của Lê Minh Đức (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2020)…
Ngồi ra, vấn đề quyền và nghĩa vụ của bị can còn được đề cập ở các mức độ
khác nhau trong các công trình của một số tác giả khác như:
1) Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình
sự (tạp chí Tịa án nhân dân, số 9/1992) của PGS.TS Trần Văn Độ;
2) Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự: Khái qt từ góc độ lịch
sử nhân loại (tạp chí Tịa án nhân dân, số 7/2009) của tác giả Nguyễn Thành Long;
3) Các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự nhìn từ góc độ
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2010) của tác giả
Hồ Sĩ Sơn;
4) Một số ý kiến về việc người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp
hành hình phạt tù xin kết hơn (tạp chí Tịa án nhân dân, số 10/2010) của tác giả Trần
Ngọc Tú;
5) Chuẩn mực quốc tế về đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự (tạp
chí Kiểm sát, số 13/2006) của tác giả Tưởng Duy Kiên;
6) Quyền của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự- những hạn
chế, bất cập qua thực tiễn áp dụng (tạp chí Tịa án nhân dân, số 4/2009) của tác
Vũ Huy Khánh...
4
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu nêu trên chỉ quan tâm đến vấn đề
quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can mà ít quan tâm đến những
quyền còn lại hoặc nghĩa vụ của bị can. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận - thực tiễn
xung quanh chế định quyền và nghĩa vụ của bị can cũng đòi hỏi cần phải được tiếp
tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn và áp dụng pháp luật
TTHS về quyền và nghĩa vụ của bị can, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã được cơng bố; từ đó, có thể chỉ ra được
những khó khăn, bất cập khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can để kiến một số
giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chế định này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của bị can trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
Tìm hiểu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ
của bị can qua các thời kỳ lịch sử.
Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng về quyền và nghĩa vụ
của bị can, thực tiễn áp dụng, bất cập trong việc áp dụng. Từ đó đưa ra giải pháp
hồn thiện quy định việc áp dụng pháp luật tố tụng
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Những quy định của pháp luật đã ban hành trước đó và hiện
hành về quyền và nghĩa vụ của bị can dưới góc độ Luật TTHS Việt Nam.
- Về phạm vi nghiên cứu: Quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019 (5 năm)
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: nghiên cứu trên cả nước
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khách quan, khoa học, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
5
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Những quy định của bộ luật TTHS trước
đây, đồng thời tập trung nghiên cứu quy định của bộ luật TTHS năm 2015 về quyền
và nghĩa vụ của bị can.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết pháp luật: Từ việc nghiên cứu bộ luật
TTHS qua các thời kỳ, luận văn đã phân tích và so sánh từ đó tổng hợp những nhóm
quyền và nghĩa vụ của bị can.
- Phương pháp thống kê hình sự: Thu thập, phân tích, so sánh, tổng hợp,
đánh giá các tài liệu phản ánh về thực trạng hoạt động tố tụng liên quan đến việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng
Về phương diện khoa học, Luận văn cung cấp một số vấn đề lý luận cơ bản,
kết quả so sánh, phân tích về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ và
pháp luật quốc tế đem lại nhiều cơ sở để đề xuất nhiều quan điểm mới trong việc
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can. Một số giải pháp Luận văn đưa ra có tính
mới, là tài liệu tham khảo có chất lượng cho các nhà làm luật.
6. Bố cục Luận văn
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của bị can
Chƣơng 2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và nghĩa
vụ của bị can
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can
trong tố tụng hình sự và kiến nghị hồn thiện.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN
1.1. Khái niệm, nội dung, cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ của
bị can
1.1.1. Khái niệm “quyền và nghĩa vụ của bị can”
* Khái niệm “quyền” và “nghĩa vụ”
Trong khoa học pháp lý và các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nhận định
khác nhau về quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ pháp luật. Nhưng tựu
chung lại có một số nhận định sau:
Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận cho được hưởng, được
làm, được địi hỏi.1
Quyền là khả năng thực hiện ý chí của mình được pháp luật, xã hội hoặc lẽ
phải chấp nhận.2
Quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật
công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai được ngăn cản, hạn chế.3
Quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản,
hạn chế.4
Quyền là: thế lực có thể định đoạt được việc này, việc khác: quyền cơng dân,
quyền chính trị, quyền đầu phiếu.5
Quyền là hành vi của chủ thể được pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện
trong xã hội. Chủ thể quyền thể hiện ý chí của mình thơng qua việc thực hiện hay
khơng thực hiện quyền đó.6
Dù có những luận điểm và cách tiếp cận khác nhau nhưng chúng ta có thể
nhận thấy một số điểm chung thống nhất giữa các quan điểm trên như sau:
Từ điển Soha (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang />Từ điển Wikipedia (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang />3
Thư viện pháp luật (2018), thuật ngữ Quyền, tại trang />4
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội,tr.395
5
Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
6
Lê Minh Đức (2020), Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1
2
7
Quyền là những quy định về hành vi của chủ thể trong thực tiễn được pháp
luật công nhận và bảo đảm thực hiện; chủ thể có quyền thể hiện ý chí của mình qua
việc thực hiện hay khơng thực hiện các quyền đó.
Liên quan đến khái niệm về nghĩa vụ thì trong lĩnh vực pháp luật và đời sống
có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chủ yếu là các quan điểm sau đây:
Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là
bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có
giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích
của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).7
Nghĩa vụ là việc bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác mà
pháp luật hay đạo đức quy định.8
Nghĩa vụ là những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của
người khác.9
Nghĩa vụ là hành vi của chủ thể bắt buộc phải thực hiện hoặc không thực
hiện trong quan hệ xã hội được pháp luật quy định, ban hành (bảo đảm thực hiện
bằng các chế tài). Áp đặt ý chí của chủ thể nghĩa vụ thơng qua việc tn thủ hoặc thi
hành các nghĩa vụ đó.10
Những quan điểm trên khác nhau về góc độ nhìn nhận, tuy nhiên có một số
điểm chung sau:
Nghĩa vụ là hành vi của chủ thể bắt buộc phải thực hiện hoặc không thực
hiện trong quan hệ xã hội được pháp luật xây dựng, ban hành; ý chí của chủ thể
nghĩa vụ bị áp đặt bằng việc tuân thủ hoặc chấp hành các nghĩa vụ đó
* Khái niệm “bị can”
Thuật ngữ “bị can” được sử dụng xuyên suốt trong quá trình hình thành
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Thuật ngữ này đã được sử dụng lần đầu
trong Sắc lệnh số 13 ngày 24.1.1946 của Chủ tịch nước về tổ chức Tòa án và các
ngạch thẩm phán nhưng giai đoạn này vẫn chưa có một định nghĩa pháp lý rõ
Thư viện pháp luật (2018), thuật ngữ Nghĩa vụ, tại trang />tab=0)_ nguồn: Bộ luật dân sự 2015,
8
Từ điển Soha (2018), thuật ngữ Nghĩa vụ, tại trang />BB%A5,
9
Viện Khoa học pháp lý (2006), tlđd (4), tr.320
10
Lê Minh Đức (2020), tlđd (6).
7
8
ràng như thế nào là bị can, bị cáo. Đến Bộ luật TTHS năm 1988 thì khái niệm bị
can mới được quy định: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”11; sau đó Bộ
luật TTHS năm 2003 tiếp tục kế thừa khái niệm của bị can. Tuy nhiên, đến Bộ
luật TTHS năm 2015 thì khái niệm “bị can” được mở rộng về phạm vi chủ thể
nhưng cơ bản nội dung không thay đổi: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi
tố về hình sự”.12
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1998 thì bị can là “người phạm tội hay bị
nghi là có tội đang trong thời gian điều tra xét xử”13. Còn theo Từ điển Tiếng Việt
thơng dụng năm 2016 thì bị can là “người có can dự, dính líu vào một tội nào đó bị
thẩm vấn hoặc bị đưa ra xử ở Tòa”14. Hiện nay, có rất nhiều cơng trình khoa học
đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm “bị can” nhưng tựu chung lại có một số
quan điểm cơ bản sau đây:
Quan điểm thứ nhất, ngay sau khi cơ quan điều tra quyết định khởi tố bị can
thì người bị khởi tố là bị can. Quan điểm này xuất phát từ hoạt động thực tiễn, vì
sau khi ra quyết định khởi tố bị can thì CQĐT đã tiến hành các hoạt động điều tra
(hỏi cung bị can, khám xét, thu giữ vật chứng,…) sau đó mới chuyển các tài liệu
này đến VKS phê chuẩn.
Quan điểm thứ hai, sau khi Viện kiểm sát quyết định phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can thì người đó mới là bị can. Quan điểm này việc CQĐT khởi tố bị can
chỉ là căn cứ pháp lý ban đầu, sau khi VKS có quyết định phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can thì người đó mới được xác định là bị can và bị áp dụng các biện pháp
tố tụng (bắt, tạm giam, truy tố,…)15.
Quan điểm thứ ba, bị can là người bị tình nghi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được ghi nhận trong pháp luật hình sự, đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi
tố và có quyết định phê chuẩn của VKS để điều tra làm rõ hành vi phạm tội, phải
chịu sự tác động về mặt pháp lý và có thể bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế
cần thiết được quy định trong pháp luật TTHS16.
Điều 34 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988.
Điều 60 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
13
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội, tr. 156
14
Phạm Lê Liên (Chủ biên) (2016), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr. 46
15
Nguyễn Tiến Sơn (2008), “Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố bị can, thay
đổi, bổ sung phê chuẩn quyết định khởi tố bị can”, Kiểm sát 23, tr. 15
16
Nguyễn Sơn Hà (2015), Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo,
Luận án tiến sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 51
11
12
9
Chúng ta có thể thấy, khái niệm “bị can” được đề cập rất nhiều trong các
cơng trình nghiên cứu khoa học và mỗi quan điểm có những điểm hợp lý nhất định.
Cho nên việc xác định khi nào một người hoặc pháp nhân có tư cách là bị can rất
quan trọng, vì khi một người hoặc pháp nhân được xác định là bị can, đồng nghĩa
với việc họ sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của mình. Người hoặc pháp nhân đó có
thể bị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế (tạm giam,…) đối
với họ theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy, khái niệm bị can có thể hiểu:
Bị can là người hoặc pháp nhân được xác định là chủ thể đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về tội phạm được quy
định trong Bộ luật hình sự, và phải chịu sự tác động về mặt pháp lý được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự.
* Khái niệm “quyền và nghĩa vụ của bị can”
Quyền và nghĩa vụ của bị can không chỉ đơn thuần là quyền và nghĩa vụ của
cá nhân hay pháp nhân trong hoạt động tố tụng hình sự mà cịn có vai trị trong việc
phục vụ mục đích của tồn xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển của mỗi quốc gia trong
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền. Từ những phân tích nêu trên, chúng ta
có thể đưa ra khái niệm quyền và nghĩa vụ của bị can như sau:
“Quyền và nghĩa vụ của bị can được Nhà nước ghi nhận trong Bộ luật Tố
tụng Hình sự, cho phép người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự có thể sử
dụng và bắt buộc thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của cơ quan
tiến hành tố tụng”.
1.1.2. Nội dung quyền và nghĩa vụ của bị can
* Về “Quyền của bị can”
Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên thế giới, không phân biệt sắc tộc, màu da, tôn giáo, quốc
tịch. Tất cả các quyền này được pháp luật mỗi quốc gia ghi nhận, bảo hộ và bảo
đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy nhiên trong TTHS, bị can là người đang bị cơ
quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự do đó tất yếu sẽ bị hạn chế một số
quyền hoặc tạm thời không thể thực hiện được một số quyền con người. Dưới góc
độ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, bị can là đối tượng dễ có
nguy cơ bị xâm phạm các quyền tự do dân chủ, nhất là quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…
10
Để hiểu và tiếp cận các quyền của bị can có rất nhiều tiêu chí phân loại khác
nhau (như các giai đoạn tố tụng hình sự, độ tuổi, đối tượng, áp dụng biện pháp ngăn
chặn,…); tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung vào một số tiêu chí sau:
Thứ nhất, những quyền chung của bị can
Trong suốt quá trình xây dựng pháp luật TTHS ở Việt Nam và một số quốc
gia khác, về cơ bản đã tiếp thu và ghi nhận các chuẩn mực này, tuy nhiên có chọn
lọc để phù hợp hơn với các điều kiện về kinh tế, xã hội, văn hóa ở từng quốc gia,
từng thời điểm lịch sử. Qua nghiên cứu, có thể tổng hợp và phân chia các quyền cụ
thể được quy định trong BLTTHS thành một số nhóm quyền sau đây:
Nhóm quyền tiếp cận thơng tin buộc tội của cơ quan THTT: Nhóm quyền này
thể hiện sự cơng bằng, khách quan trong q trình truy cứu TNHS của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, vừa bảo đảm cho bị can có quyền tiếp cận các
thông tin về việc buộc tội, hoạt động buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong nhóm quyền này được liệt kê thành các quyền: quyền được biết lý do mình bị
khởi tố, truy tố về tội gì (điểm, khoản, điều quy định trong BLHS); quyền được thơng
báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; nhận các quyết định của cơ quan THTT như
(khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; bản kết luận điều tra;
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định).
Nhóm quyền tranh tụng, quyền bào chữa: Đây là nhóm quyền đặc trưng và
quan trọng nhất của bị can. Nhóm quyền này khơng chỉ giúp bị can tham gia vào
q trình làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà còn giúp họ có được những chứng cứ để
bảo vệ chính mình trước sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo ngun
tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự, bao gồm các quyền như: có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; được trình bày lời khai, ý kiến và
khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội; bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu cơ quan THTT
chứng minh mình vơ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình và u cầu cơ
quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó; được đọc, ghi chép bản sao các
loại tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội kể từ khi kết thúc giai đoạn điều tra.
Nhóm quyền tác động đến hoạt động của cơ quan, người THTT: Nhóm quyền
này thể hiện vai trò làm chủ của nhân dân được Hiến pháp nước CHXHCN Việt
11
Nam ghi nhận dưới nhiều hình thức khác nhau, theo đó bị can khi phát hiện vi phạm
trong TTHS, vi phạm quyền cơng dân có thể thực hiện các quyền này. Trong hoạt
động TTHS, cá nhân với tư cách tham gia tố tụng là bị can có các quyền về tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo…. Nhóm quyền này bao
gồm các quyền như: đề nghị giám định, định giá tài sản khi; đề nghị thay đổi người
có thẩm quyền THTT, người giám định, người định giá tài sản để đảm bảo sự vô tư
và khách quan trong quá trình giải quyết vụ án; hoặc khiếu nại các quyết định, hành
vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT khi phát hiện có quyết định,
hành vi khơng đúng hoặc khơng khách quan. Thơng qua nhóm quyền này bị can
khơng những bảo vệ được quyền lợi của mình mà cịn góp phần nâng cao ý thức áp
dụng pháp luật của cơ quan và người THTT.
Thứ hai, quyền của bị can là người dưới 18 tuổi
Người dưới 18 tuổi là người chưa có đầy đủ khả năng nhận thức, khả năng
điều khiển hành vi nên ngồi các quyền được quy định chung thì bị can là người
dưới 18 tuổi có một số quyền đặc biệt sau:
Quyền đặc thù khi bị khởi tố, điều tra, truy tố phù hợp với tâm lý lứa tuổi: Đây
là quyền ưu tiên cơ bản mà bị can là người dưới 18 tuổi được thụ hưởng khi tham gia
vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong quá trình này, nếu có bị can là người
dưới 18 tuổi địi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên, phải là người có hiểu biết về tâm lý
học, khoa học giáo dục, cũng như hoạt động điều tra, truy tố đối với họ. Các trình tự,
thủ tục tố tụng, các cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ. Bị can là người dưới 18 tuổi có
quyền được đối xử phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận
thức của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự với bộ máy tố tụng thân thiện,
bảo đảm lợi quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
Quyền được ưu tiên trợ giúp pháp lý: đó là bị can là người dưới 18 tuổi có
quyền được các cơ quan THTT chỉ định người bào chữa trong trường hợp người đại
diện hợp pháp của bị can hoặc bản thân họ khơng mời người bào chữa, có quyền
tham gia tố tụng với sự có mặt của người đại diện là gia đình, đại diện nhà trường,
Đồn thanh niên và những người khác theo quy định của pháp luật. Những người
này có quyền tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự để bảo đảm lợi ích tốt nhất
của người dưới 18 tuổi.
12
Quyền ưu tiên được áp dụng biện pháp ngăn chặn phi giam giữ: Việc áp
dụng bất kỳ biện pháp ngăn chặn nào đối với bị can là người dưới 18 tuổi không
những ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản mà còn tác động về các tâm sinh
lý của họ, dễ tạo tâm lý tiêu cực cũng như ảnh hưởng đến tiến trình và định hướng
phát triển bình thường của người dưới 18 tuổi dẫn đến việc phát triển lệch lạc về
sau. Do đó, cơ quan THTT phải hết sức thận trọng và hạn chế tối đa việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do với đối tượng này.
Quyền được bảo vệ, giữ bí mật cá nhân: đây là một trong những nội dung của
quyền về đời tư nói chung được quy định tại Cơng ước về các quyền của trẻ em.
Nội dung cơ bản của những quy định này là các thông tin cá nhân của người chưa
thành niên phải được tôn trọng đầy đủ trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố
tụng. Cơ quan có thẩm quyền THTT khơng được cơng khai những thơng tin có thể
dẫn đến việc xác định danh tính người chưa thành niên là bị can, có thể ảnh hưởng
đến khả năng tiếp cận sự giáo dục, việc làm hoặc sự an tồn của họ. Đồng thời, phải
có những biện pháp để bảo đảm rằng người chưa thành niên sẽ không bị xác định
thông qua những phương tiện thông tin truyền thông
Thứ ba, quyền của bị can là pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận
và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình
sự khi có đủ các điều kiện như: hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp
nhân thương mại, hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương
mại hoặc có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.
Mọi hoạt động tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị truy cứu trách nhiệm
hình sự được thơng qua người đại diện theo pháp luật. Trường hợp người đại diện
của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố hoặc không thể tham gia tố tụng được thì
pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện. Tại thời điểm khởi tố, điều tra,
truy tố mà pháp nhân khơng có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người
cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định một
người đại diện cho pháp nhân đó.
Có thể thấy rằng, khác với thể nhân, pháp nhân không thể tự mình tham gia
tố tụng hình sự mà phải thơng qua người đại diện theo pháp luật. Vì vậy, Bộ luật
13
TTHS năm 2015 đã bổ sung chế định về người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân; đồng thời, quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong quá trình
tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người đại diện của pháp nhân. Pháp nhân,
thông qua một cá nhân cụ thể, thể hiện ý chí của mình, có quyền đưa ra các lý lẽ,
lập luận, đưa ra lời khai, ý kiến, chứng cứ, đồ vật, tài liệu.. để bảo vệ cho pháp nhân
trong quá trình tham gia tố tụng hình sự.
* Về “Nghĩa vụ của bị can”
Quyền và nghĩa vụ là hai mặt của những quy định về địa vị pháp lý đối với
mọi chủ thể trong các hoàn cảnh pháp lý khác nhau. Nghĩa vụ là những quy định mà
Nhà nước bắt buộc chủ thể khi ở trong hồn cảnh pháp lý đó phải thực hiện mà khơng
có sự lựa chọn. Đối với bị can, nghĩa vụ phải thực hiện có liên quan đến hoạt động
TTHS mà các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đang thực hiện. Tuy
rằng, theo ngun tắc suy đốn vơ tội, bị can chưa được xem là có tội nhưng khi bị
xác định là bị can trong vụ án thì chủ thể này phải chấp hành các nghĩa vụ của bị can
mà pháp luật TTHS quy định, bao gồm các nghĩa vụ: phải có mặt theo giấy triệu tập
của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong trường hợp vắng mặt khơng vì lý
do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Ngồi ra, phải chấp hành các quyết định,
yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với họ.
Cùng với các quy định về nghĩa vụ của bị can, BLTTHS đã quy định các biện
pháp, chế tài để xử lý các vi phạm về nghĩa vụ của bị can nhằm đảm bảo sự chấp
hành của bị can, giữ vững kỷ cương, tính nghiêm khắc của pháp luật.
1.1.3. Cơ sở việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can trong pháp luật TTHS Việt Nam
và trên thế giới là tất yếu phải có, xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện “quyền con
người”, đó là khi chức năng buộc tội xuất hiện sẽ làm phát sinh chức năng bào
chữa, gỡ tội cho họ như khi đã bị khởi tố hình sự và xác định một người là bị can thì
phải tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền chống lại sự buộc tội từ phía cơ quan
tố tụng. Đồng thời, quy định quyền của bị can còn là cơ sở để giúp cho việc xét xử
đúng người, đúng tội; không làm oan, sai trong tố tụng hình sự.
Đây là vấn đề đang được quốc tế quan tâm, hiện thực hóa trên nhiều văn kiện
quốc tế về quyền con người như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948
14
(UHDR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Cơng ước chống tra tấn, đối
xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985…Đây là cơ sở đầu tiên và quan
trọng nhất của việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can trong pháp luật TTHS.
Pháp luật TTHS Việt Nam luôn coi trọng vấn đề “quyền con người” nhưng cũng có
những giới hạn và cơ chế bảo đảm quyền khác với quốc tế, không chỉ quyền con
người, nhà nước ta đã và đang hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của công dân trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực TTHS.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can trên cơ sở đảm bảo thực hiện các
nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như: bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân; bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an
tồn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; ngun tắc suy đốn vơ tội;
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,…. Các nguyên tắc này là nền tảng
cho việc xây dựng các quy trình TTHS và bị can là một chủ thể quan trọng nằm
trong hoạt động TTHS này.
Quy định quyền và nghĩa vụ của bị can cịn có liên quan đến trách nhiệm của
VKS nhân dân. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, ngồi trách nhiệm thực hiện
các biện pháp để buộc tội đối với bị can, cơ quan này cịn có trách nhiệm bảo đảm
hoạt động điều tra được thực hiện đúng pháp luật, bảo đảm được quyền và nghĩa vụ
cơ bản của một công dân, pháp nhân trong giai đoạn này. Bất cứ hành vi xâm phạm
đến quyền cơ bản của công dân bị xâm phạm trong q trình giải quyết, nếu VKS
nhân dân khơng kịp thời phát hiện và xử lý sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả
giải quyết vụ án.
Cuối cùng, việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn của hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Như đã phân tích ở trên,
hoạt động TTHS là nơi “quyền con người” dễ bị xâm hại nhất, thời gian này có thể
kéo dài từ vài tháng cho đến vài năm tùy vào quá trình điều tra, truy tố, xét xử
hoặc yếu tố khác dẫn đến nguy cơ “quyền con người” của bị can bị xâm hại càng
cao. Do đó, phải có quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị can vừa đảm bảo
quyền con người, vừa “kìm hãm” sự lạm quyền của các cơ quan có thẩm quyền,
người có thẩm quyền.
15
Nhà nước đã thừa nhận và quy định các quyền và nghĩa vụ của bị can nhưng
để các quy định này được thực hiện đúng cần phải có cơ chế đảm bảo những quyền
đó được thực hiện trên thực tế. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, nhà nước ta đã
khơng ngừng hồn thiện, tạo ra các cơ chế bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của bị can phù hợp với thực tiễn thi hành. Cụ thể:
- Thứ nhất, về nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự
Với phương diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can, Bộ luật TTHS hiện
hành đã ghi nhận một số nguyên tắc quan trọng đảm bảo “quyền con người” của bị
can trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như:
Ngun tắc “suy đốn vơ tội”: Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án
kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngun tắc này về mặt lý luận đã bổ
sung, giải nghĩa cho khái niệm “bị can”, là người chưa có tội. Bên cạnh đó, về mặt
thực tiễn đã hình thành nên ý thức, ứng xử của cơ quan, người THTT và mọi chủ
thể khác đối với người bị buộc tội nói riêng và bị can nói riêng trong q trình giải
quyết vụ án hình sự. Đây là yếu tố tiên quyết để đảm bảo không xảy ra các hành vi
vi phạm quyền và nghĩa vụ của bị can.
Nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của bị can”: theo nguyên tắc này, bị
can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trường hợp bị can tự bào
chữa, trên cơ sở vận dụng các quyền khác mà pháp luật cho phép như: đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật; đề nghị giám định, định giá tài sản; ghi chép bản sao tài liệu
buộc tội… để chứng minh mình vơ tội. Trường hợp khơng tự bào chữa, bị can có
thể nhờ người khác bào chữa, đồng thời cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ bảo
đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa thuận lợi nhất.
- Thứ hai, về trình tự và thủ tục tố tụng
Trình tự, thủ tục tố tụng là những yêu cầu đặt ra đối với cơ quan, người tiến
hành tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Pháp luật TTHS, đã lồng ghép các quy định có liên quan đến việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của bị can khi thực hiện những hành vi tố tụng đối với họ. Từng
giai đoạn, hoạt động tố tụng cụ thể thì trình tự, thủ tục tố tụng được xây dựng trên
cơ sở phù hợp với tâm, sinh lý của bị can để đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ cho
họ. Tất cả các hoạt động TTHS, đều được thể hiện trên các quyết định, thông báo,
biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án, do đó những trình tự, thủ tục này đặt ra những yêu
16
cầu cao hơn, chặt chẽ hơn về nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng
trong quan hệ với bị can.
- Thứ ba, quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Xuất phát từ bản chất lý luận và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, pháp
luật TTHS Việt Nam đã phân định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan tiến
hành tố tụng ở từng giai đoạn tố tụng. Cụ thể:
Cơ quan điều tra là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nhằm
xác minh sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc truy tố bị can ra trước
Tòa án.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong hoạt động truy cứu TNHS đối với một
chủ thể, VKS vừa thực hiện chức năng buộc tội nhưng vừa kiểm sát các hoạt động
tố tụng của cơ quan, người THTT được thực hiện đúng pháp luật, trong đó có việc
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can.
Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất trong hệ thống cơ quan tư pháp có
quyền kết án một chủ thể bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Hậu quả pháp lý của
hoạt động xét xử đem lại bất lợi rất lớn cho một chủ thể về hình phạt, án tích… Vai
trị của Tòa án là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, do đó
trong hoạt động xét xử của mình, pháp luật TTHS quy định Tịa án có quyền ra
quyết định như trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hủy án, kiến nghị… đối với các vi
phạm về quyền và nghĩa vụ đối với bị can của CQĐT, VKS.
- Thứ tư, quy định về nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng
Đây là các chủ thể có quyền hạn thực hiện nhiệm vụ theo quy định
BLTTHS nhằm chứng minh tội phạm, không bỏ lọt và oan sai. Trong TTHS nói
chung và giai đoạn điều tra nói riêng, giữa người tiến hành tố tụng và bị can tồn
tại sự khác biệt về ứng xử công bằng, do vậy với các quyền và nghĩa vụ được
BLTTHS quy định, bên buộc tội có khả năng áp đặt, ép buộc bên kia phải nhận tội
và bên bị buộc tội lại dễ dàng bị áp đặt bởi bên buộc tội. Việc quy định nghĩa vụ
tố tụng của người tiến hành tố tụng là chế định quan trọng điều chỉnh hành vi ứng
xử của người tiến hành tố tụng, tạo điều kiện cho bị can thực hiện các quyền cơ
bản của mình trong đó có quyền bào chữa, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh và
công bằng của pháp luật.
17
- Thứ năm, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát
nhân dân
Thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam hay hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo… VKS đảm bảo
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để bất
cứ người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền
công dân, bị xâm phạm sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự nhân phẩm một cách trái
pháp luật; đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam đúng luật định, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý được chấp hành nghiêm chỉnh, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam…
Với những nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp ghi nhận, VKS trở thành cơ
quan mang tính chất "vừa thực hiện, vừa giám sát" và có cơ chế xử lý các vi phạm
bị phát hiện trong hoạt động tư pháp nói chung và trong lĩnh vực hình sự nói riêng.
Do đó, có thể khẳng định VKS đóng vai trị rất quan trọng, cùng với các thiết chế,
yếu tố khác để đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của bị can trong TTHS.
1.1.4. Ý nghĩa việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can
Ý nghĩa về mặt lý luận: Trong xun suốt q trình lập pháp nói chung và
trong lĩnh vực TTHS nói riêng, các quy định quyền và nghĩa vụ của bị can khơng
thể bị xóa bỏ vì ý nghĩa quan trọng của nó trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự, thực hiện quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, quy định này là vấn đề
cần được nghiên cứu ở từng thời điểm lập pháp khác nhau trên cơ sở thực tiễn vận
dụng các quy định trong BLTTHS. Từ đó các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu có thể
đánh giá những điểm tích cực, hạn chế của quy định TTHS nói chung và quy định
quyền và nghĩa vụ của bị can nói riêng.
Ý nghĩa về pháp lý: Việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can giúp pháp
luật của quốc gia tiệm cận hơn với pháp luật quốc tế. Như đã phân tích ở trên, luật
pháp quốc tế từ lâu đã thừa nhận và coi trọng vấn đề quyền con người trong hoạt
động TTHS. Trên cơ sở các quan điểm lập pháp, nguyên tắc của pháp luật quốc tế
các quốc gia xây dựng quy phạm pháp luật tương đối phù hợp với thực tiễn quốc gia
mình nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cơ bản của pháp luật quốc tế. Ở mỗi quốc gia
có chế độ chính trị khác nhau, tất yếu cách thức sử dụng quyền lực nhà nước khác
18
nhau dẫn đến cách thức lập pháp cũng khác nhau, tuy nhiên đối với các vấn đề pháp
lý liên quan đến “quyền con người” đều được quy định trong pháp luật các quốc gia
trên quốc tế vì đây là một trong những yếu tố cơ bản khi quyết định hợp tác quốc tế
giữa các quốc gia, các doanh nghiệp đầu tư.
Đối với pháp luật quốc gia, việc quy định quyền và nghĩa vụ của bị can là cơ
sở cho hoạt động TTHS được thực hiện đúng pháp luật, khách quan. Bảo đảm cho
việc thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của bị can cũng chính là việc các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình trong TTHS, khơng để
xảy ra việc lạm dụng các biện pháp điều tra, áp dụng các biện pháp ngăn chặn để
phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Đây là yếu tố quan trọng để có được
sự tin tưởng của cơng dân vào hoạt động truy cứu, xử lý trách nhiệm hình sự của
các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước.
Ý nghĩa về xã hội: Các quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong
TTHS có ý nghĩa trong việc bảo đảm quyền con người. Thể hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền trong hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động lập pháp của Nhà nước
đã bảo đảm thực hiện quyền con người. Tuy rằng, hoạt động TTHS là lĩnh vực dễ
gây sự ác cảm của các chủ thể bị xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nhà nước,
nhưng nếu các quy định này chặt chẽ, đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa
vụ của bị can, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ, đúng pháp luật thì sẽ tạo niềm tin
cho các chủ thể này và các chủ thể có liên quan khác. Đây là yếu tố quan trọng tác
động đến ý thức xã hội, ý thức chính trị của mỗi cơng dân, đồng thời tác động đến
các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một quốc gia.
Ý nghĩa về thực tiễn: Trong thực tiễn quá trình giải quyết vụ án hình sự ngay
từ khi khởi tố bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can là “công cụ” pháp lý bảo vệ bị
can khi hiện nay vẫn tồn tại thực trạng bị can bị xâm phạm các quyền cơ bản. Ví dụ
như: đánh đập, ép cung, dùng nhục hình, ép buộc khai báo trong khi đó pháp luật
cho phép bị can có quyền khai báo… Điều này đã ảnh hưởng đến uy tín của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, uy tín của nhà nước và cịn gây ra tâm lý khơng tin
tưởng vào nhà nước của cơng dân. Do đó, các quy định này hạn chế được sự xâm
hại, tác động của các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền, tạo nên sự thận
trọng, chắc chắn trong việc nhận thức, đánh giá vụ án hình sự, khơng làm oan người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
19
Đồng thời, bị can chưa bị coi là người phạm tội, các quy định về quyền,
nghĩa vụ của bị can là cơ sở để chính bị can, người bào chữa cho bị can bảo vệ
quyền lợi của bị can trước sự buộc tội từ phía cơ quan có thẩm quyền. Điều này
đảm bảo yêu cầu quan trọng trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo xử
lý đúng người, đúng tội, không để oan sai và bỏ lọt tội phạm.
1.2. Kinh nghiệm lập pháp quốc tế về quyền và nghĩa vụ của bị can
1.2.1. Công ước Châu âu về quyền con người của người bị buộc tội
Trong hệ thống văn bản pháp luật hình sự của Cộng đồng Châu Âu, Công
ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản (tiếng Anh: Convention for the
Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms) là một hiệp ước quan
trọng, là nền tảng cơ bản của việc xây dựng pháp luật để bảo vệ quyền con người
trong hoạt động TTHS. Cơng ước này cịn có tên gọi Cơng ước Châu Âu về quyền
con người hay Công ước Châu Âu về nhân quyền (sau đây gọi là Công ước Châu
Âu về quyền con người, được kết kết vào ngày 04/11/1950 tại thủ đô Roma của
nước Ý bởi Ủy hội Châu Âu mới được thành lập thời đó, có hiệu lực từ ngày
03/9/1953. Công ước Châu Âu về quyền con người tuy ra đời muộn so với sự phát
triển pháp luật TTHS của Châu Âu nhưng có nhiều điểm tiến bộ trong việc bảo vệ
quyền con người. Sự ra đời này là kết quả của sự thỏa hiệp giữa các nước thành
viên trong Cộng đồng Châu Âu (EU), là nền tảng cơ bản cho việc giải thích pháp
luật, áp dụng pháp luật của từng quốc gia thành viên.
Trong nội dung của Công ước bao gồm nhiều điều khoản bảo đảm quyền cơ
bản của con người, ví dụ như: Điều 3 (Cấm tra tấn); Điều 4 (Cấm chiếm hữu nô lệ
bắt lệ thuộc và lao động cưỡng bức), Điều 6 (Xét xử công bằng, trong đó có quyền
của người bị buộc tội)… Nội dung Điều 6 Công ước này đề cập đến những nguyên
tắc cơ bản chi phối hoạt động TTHS, bảo đảm quyền của người bị buộc tội và
những quyền cơ bản của người bị buộc tội (trong đó có bị can) trong vụ án hình sự
tại Điều 6.2 và Điều 6.3. Theo đó, Cơng ước này ghi nhận các quyền cơ bản sau17:
- Quyền được thông báo kịp thời về lý do bị buộc tội (Điều 6.3a)
Phạm Thị Hồng Đào (2017), Bảo đảm quyền của người bị buộc tội theo điều 6 – Công ước Châu Âu về
quyền con người, Trang thông tin điện tử Bộ tư Pháp, />aspx? UrlListProcess=/qt/ tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi&ListId=75a8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27
b6&SiteId=b11f9e79-d495-439f-98e6-4bd81e36adc9&ItemID=2089&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a796d6-64e9cb69ccf3.
17