ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRUNG ƯƠNG
VIỆT NAM
KHOA : ÂM NHẠC
Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc
BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC PHẦN
Môn học : Tâm Lý Học
Giảng viên : TS Bùi Thị Thanh Diệu
Sinh viên : Tạ Anh Đức
Ngành
: Sư Phạm Âm Nhạc
Đề tài : Phân tích đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học và rút ra kết
luận Sư phạm cần thiết
Bài làm
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu học sinh tiểu học là gì?
Là những em ở độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi, đang theo học chương trình giáo dục
phổ thông cấp tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Trẻ ở độ tuổi này có những đặc điểm
về sự phát triển sinh lý như sau:
- Thể lực phát triển tương đối cả về chiều cao và cân nặng.
- Hệ xương trong q trình cốt hóa (trở nên cứng dần) vì đang trong thời
kì phát triển nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập…
- Hệ cơ đang trong thời kì phát triển mạnh. Vận động đã tương đối hồn
chỉnh, cho phép trẻ tiến hành các vận động cơ bản.Vì vậy, các em thường
thích các trị chơi vận động chân tay.
- Hệ tuần hồn chưa hồn thiện vì vậy dễ làm học sinh chóng mệt và dễ
xúc động trong các hành vi của mình.
- Hệ thần kinh phát triển mạnh. Não dần hồn thiện về chức năng. Do đó,
học sinh rất hứng thú với các trị chơi trí tuệ (đố vui trí tuệ, làm các bài
tốn mẹo…).
- Ngồi ra, cuối cấp tiểu học ở một số học sinh, nhất là học sinh nữ, do gia
tốc phát triển, các em đã có những biểu hiện của hiện tượng tiền dậy thì
khiến cơ thể có nhiều biến đổi mạnh mẽ, cao lớn trông thấy, đời sống tâm
lí, tính cách cũng có những điểm khác biệt nhất định so với các bạn cùng
trang lứa.
Nhìn chung, tuy chưa được hoàn thiện về cấu tạo và chức năng, nhưng với
những tiền đề về mặt thể chất như vậy đã cho phép học sinh có đủ điều
kiện tâm sinh lí cần thiết để tham gia vào môi trường, hoạt động học tập
và các mối quan hệ mới trong trường tiểu học. Vì tâm lý và sinh lý có mối
quan hệ qua lại lẫn nhau nên sự phát triển thể chất của học sinh tiểu học,
có bước phát triển đáng kể so với lứa tuổi mầm non sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển tâm lý.
Ngay khi bước vào lớp 1 học sinh nhanh chóng đối mặt khó khăn khi thay đổi
hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang hoạt động học tập là chính. Trẻ có thể gặp
những khó khăn như sau :
- Khó khăn đến từ mơi trường học tập: Với việc thay đổi môi trường là
nhà trường. Trẻ phải tập trung chú ý liên tục từ 30-35phút. Đòi hỏi trẻ
phải tập trung trong thời gian dài hơn và phải học tập cả buổi để thu nhận
kiến thức. Trẻ phải học lĩnh hội kiến thức trừu tượng nhiều hơn từ việc
phải biết viết, biết tính tốn và nhiều mơn phải học khác.
- Khó khăn tự phục vụ: Trẻ phải tự đi vệ sinh, tự rửa tay, mặc quần áo, sắp
xếp sách vở vào cặp, kiểm tra sách vở trước khi ra về, gìn giữ dụng cụ học
tập.
- Khó khăn tính kỷ luật: Trẻ phải tập khả năng kiềm chế bản thân, khơng
chạy nhảy lung tung, hạn chế nói chuyện trong giờ học, đi học đúng giờ,
phải học cách giơ tay phát biểu. Làm bài tập về nhà. Chấp hành nội quy từ
nhà trường.
- Khó khăn về nhận thức: Trẻ phải nhận biết mặt chữ, ghép vần. Tính tốn
trong phạm vi 10, phải biết cách cầm bút… điều đó tạo ra cho trẻ khơng ít
khó khăn. Từ đó gây cho trẻ sự lúng túng nhiều trẻ không thực hiện được
dẫn đến kết quả kém.
- Khó khăn trong cách ứng xử tình huống: Một số trẻ bố mẹ đến đón
muộn, bị lạc đường, bị bạn đánh hoặc bị mắc lỗi khi học bài, bị phê bình
trước lớp hay thậm chí bị xâm hại tình dục… Dẫn đến trẻ khơng biết sẽ
xử lý như thế nào ngoài nhũng hành vi bộc phát như khóc lóc, sợ hãi,
đánh lại bạn học, nỗi sợ bị bỏ rơi. Điều đó gây ức chế tâm lý cho trẻ.
- Khó khăn từ phía gia đình: Từ mầm non trẻ đến trường là hoàn toàn để
vui chơi. Tuy nhiên khi trẻ đến Tiểu học nhiều phụ huynh lại quan tâm
nhiều tới thành tích học tập, điểm số…. điều đó vơ hình chung tạo nên áp
lực cho trẻ. Nhiều phụ huynh thậm chí sắp xếp cho con họ một lịch trình
học thêm dày đặc chạy theo thành tích mà quên đi thời gian vui chơi, thư
giãn của trẻ.
- Khó khăn từ phía nhà trường: Mục tiêu thành tích từ phía nhà trường,
phía thầy cơ hay là mối quan hệ giữa Giáo viên, Phụ huynh và Học sinh
có sự thiên vị, sự so sánh hay thậm chí có sự phân biệt đối xử giữa các em
từ đó có thể có những tác động tiêu cực đến trẻ.
Để tránh sự bỡ ngỡ và tránh tâm lý rụt rè của học sinh người giáo viên
Không cần ép buộc phải học tập căng thẳng ngay từ đầu. Hãy tạo khơng
khí vui vẻ, thoải mái để học sinh tự tin khi bước vào môi trường học tập
mới. Ln ln khích lệ động viên học sinh, tránh sự chê bai hay so sánh
giữa các em. Kết hợp từ phía gia đình trang bị cho các em các kỹ năng
phòng vệ, kỹ năng ứng xử, kỹ năng sống cần có khi bước vào mơi trường
học tập mới.
Ngồi những đặc điểm về mặt sinh lý cơ thể và những khó khăn của học sinh
Tiểu học phải đối mặt ra, thì đặc điểm về hoạt động mơi trường sống và hoạt
động giao tiếp cũng góp phần hình thành nên đặc điểm tâm lý của trẻ.
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến
tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt
động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học
tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
- Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật
sang các trò chơi vận động.
- Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân
và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, qt dọn nhà cửa,...Ngồi ra, trẻ cịn tham
gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
- Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của
trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
Những thay đổi kèm theo
- Trong gia đình: Các em ln cố gắng là một thành viên tích cực, có thể
tham gia các cơng việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các
gia đình neo đơn, hồn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải
tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: Do nội dung, tích chất, mục đích của các mơn học đều
thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp,
hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học
tập tốt.
- Ngoài xã hội: Các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang
tính tập thể (đơi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em
muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
- Hoạt động giao tiếp gồm có các mối quan hệ giao tiếp như sau :
- Giao tiếp với giáo viên Ở trường mầm non, mối quan hệ giữa cô giáo và
trẻ khá gần gũi. Trẻ bộc lộ tình cảm một cách tự nhiên. Nhưng ở Tiểu học,
mọi chú ý đều hướng đến là giáo viên nên dù trẻ có muốn hay khơng thì
vẫn phải đối diện với cơ bằng sự lễ phép và vâng lời. Hơn nữa quan hệ với
cô giáo mang tính chất cơng việc và giáo viên thường xun kiểm tra,
đánh giá hành vi của trẻ. Do vậy trẻ sẽ có cảm giác rụt rè, sợ hãi hoặc là
yêu mến và có sự thiên vị khác nhau giữa các cô là điều không tránnh
khỏi.
- Giao tiếp với bạn bè giao tiếp mang tính tập thể nên học sinh xuất hiện
mối quan hệ tình bạn. Do sự khác biệt về điều kiện kinh tế , ngôn ngữ,
vùng miền. Lúc này một số trẻ nảy sinh sự tâm lí ganh tị về nhiều mặt,
gây mất đồn kết. Một số trẻ khơng hịa nhập được do tính rụt rè sẽ trở
nên cơ lập.
- Giao tiếp với các học sinh lớp trên:Vì trẻ cảm thấy bản thân nhỏ bé hơn
các anh chị nên trẻ thường có cảm giác sợ hoặc có thái độ tránh các anh
chị lớp trên khi giao tiếp.
- Giao tiếp với gia đình Vì trẻ em có vị thế xã hội mới, Bản thân mỗi học
sinh sẽ cảm thấy khác đi trong mối quan hệ gia đình. Học sinh cảm thấy
lớn hẳn lên, có trách nhiệm hơn với bản thân và gia đình. Biết vâng lời và
giúp đỡ bố mẹ
Biết được những đặc điểm nêu trên thì thầy cơ phải tạo điều kiện giúp
đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong cơng việc gia
đình, quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập.
Mặt khác, sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ) và tích
cách cũng góp phần to lớn trong việc hình thành phát triển tâm lý của học sinh
Tiểu học.
Về mặt nhận thức cảm tính của học sinh Tiểu học
- Các cơ quan cảm giác:Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác
đều phát triển và trong q trình hồn thiện.
- Tri giác: Mang tính tổng qt, ít đi vào chi tiết và thường khơng ổn định và
ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối
tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật
hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ. Và ở độ tuổi này tri
giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng và tri giác có
tính chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết
làm các bài tập từ dễ đến khó,...)
Nhận thấy điều này, người giáo viên cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt
động học tập mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với thường
ngày, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. Từ đó
tạo hứng thú học tập cho trẻ.
Về mặt nhận thức lý tính của học sinh Tiểu học
- Tư duy: Mang tính xúc cảm và mang nặng tính trực quan hành động, tư
duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết
khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức cịn sơ
đẳng ở phần đơng học sinh tiểu học.
- Tưởng tượng: Học sinh phát triển phong phú hơn nhờ có bộ não phát
triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dặn. Thể hiện qua những đặc điểm sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững
và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện. Tưởng
tượng sáng phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả
năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai
đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự
việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, Giáo viên cần phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em
bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc,
đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các
hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển q trình
nhận thức lý tính của mình một cách tồn diện.
Về mặt ngơn ngữ của học sinh tiểu học
Về mặt ngơn ngữ Nói thì học sinh Tiểu học dần dần thành thạo. Học sinh
Tiểu học đến lớp 5 thì ngơn ngữ Viết đã thành thạo và bắt đầu hồn thiện về mặt
ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngơn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự
đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thơng
qua các kênh thơng tin khác nhau. Nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư
duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thơng qua
ngơn ngữ nói và viết của trẻ. Đặc biệt thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có
thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngơn ngữ có vai trị hết sức quan trọng nên các nhà giáo dục phải có ý
thức trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng
hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và khơng lời, có thể là sách văn
học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể
cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện,
dạy trẻ cách viết nhật kí thơng qua các hoạt động từ nhà trường...Tất cả đều
có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
Về mặt chú ý, tập trung của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ cịn yếu, khả năng kiểm
sốt, điều khiển chú ý cịn hạn chế và chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ
lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan
sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trị chơi hoặc có cơ giáo xinh đẹp, dịu
dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập
trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở
trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ,
một cơng thức tốn hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất
hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho
phép để làm một việc nào đó và cố gắng hồn thành công việc trong khoảng thời
gian quy định.
Biết được điều này Giáo viên nên giao cho trẻ những công việc đòi hỏi
sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động
theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đảm báo tính vừa sức và
tính cá biệt từng trẻ điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả giáo dục trẻ.
Về mặt trí nhớ của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lơgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển và chiếm ưu thế. Nhiều học
sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa
để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài
liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ tăng cường chiếm
ưu thế. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ
có chủ định cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ
của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng
thú của các em.
Nắm được điều này, Giáo viên phải giúp các em biết cách khái quát
hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan
trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải
đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em
tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
Về mặt ý chí của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu
cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen,
quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực
thi hành vi ở các em còn yếu. Các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục
đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn
thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí cịn thiếu bền vững,
chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu
phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở Nhà giáo
dục phải thực sự kiên trì bền bỉ trong cơng tác giáo dục, muốn vậy thì trước
hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt
trẻ.
Về mặt tính cách của học sinh
- Tính cách: Các em chưa có sự ổn định, đơi khi người lớn dễ nhầm
tưởng các trạng thái tâm lý tạm thời là những nét tính cách. Những nét tính cách
mới hình thành đó có thể thay đổi dưới tác động của giáo dục gia đình, nhà
trường và xã hội. Nguyên nhân là do sự điều chỉnh ý chí đối với hành vi cịn yếu
nên thường có khuynh hướng hành động ngay lập tức dưới ảnh hưởng của kích
thích bên ngồi và bên trong (tính xung động trong hành vi). Nên ta thấy hành vi
của các em dễ có tính tự phát.
Ngồi ra học sinh tiểu học cịn có nhiều những nét tính cách tốt như lịng vị tha,
tính ham hiểu biết, tính chân thực, lịng thương người, tính hồn nhiên nên các
em rất cả tin, các em tin vào sách vở, tin vào người lớn, tin vào khả năng của
bản thân .
Vì vậy giáo viên cần sự điều chỉnh bản thân sao cho phù hợp với lứa tuổi các
em. Thầy cô cần có sự phối hợp nhịp nhàng với gia đình về việc hình thành,
cung cấp lý thuyết và tác động phù hợp đến các em trong việc giáo dục động
cơ từ bên ngoài lẫn bên trong. Sao cho để mỗi em thực hiện, nảy sinh mỗi
hành vi đều bắt nguồn từ động cơ bên trong là vì cái tốt đẹp chứ khơng phải
là vì lợi ích bản thân học sinh. Phát huy tối đa tính tích cực học sinh trong
việc hình thành thói quen và phát triển nhận thức, ý thức. Đồng thời uốn nắn
kịp thời nếu có hành động, hành vi động cơ tiêu cực đến từ các em.
- Tính bắt trước: Các em học sinh Tiểu học thích bắt chước hành vi cử
chỉ của những nhân vật trong phim, hành vi từ người lớn...
Tính bắt chước như là con dao hai lưỡi nên người Giáo viên cần phải
xem xét tính bắt chước như là một điều kiện thuận lợi cho việc giáo
dục bằng những tấm gương cụ thể, nhưng cũng phải tính đến những
biểu hiện tiêu cực của tính bắt chước.
- Tính hứng thú và ước mơ của học sinh : Sự hứng thú học tập của học
sinh Tiểu học dần dần chiếm ưu thế hơn so với hứng thú vui chơi. Vì ở lứa tuổi
này học tập là hoạt động chủ đạo của các em và kết quả học tập kết hợp với lời
nhận xét của giáo viên có tác dụng như là sự củng cố sự hứng thú học tập của
trẻ.
Và ở lứa tuổi này các em có nhiều ước mơ trong sáng, tươi sáng và ly kỳ.
Vì vậy giáo viên nên vun đắp bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh
bằng cách không ngừng nâng cao trình độ sư phạm lẫn chun mơn .Các
thầy cô giáo không nên xem bản thân chỉ là người dạy học, truyền thụ kiến
thức một cách đơn thuần mà trước hết hãy là nhà tâm lý, hãy là nhà giáo
dục, là người truyền cảm hứng, truyền niềm tin và truyền những giá trị cao
quý vào cuộc sống các em . Tô màu và chắp cánh thêm những ước mơ cho
các em.
- Tính độc lập (Ý thức và tự ý thức): Học sinh đã có ý thức và tự ý thức
nhưng nhận thức cịn chưa cao, chưa chính xác và còn nhiều sai lệch. Các em
chưa vững tin vào bản thân, thường hay dựa vào ý kiến và chi phối bởi thái độ
đến từ cha mẹ thầy cô và bạn bè. Vì thế trẻ em thường bắt trước cử chỉ, hành vi
của người lớn đặc biệt là thầy cô.
Năng lực tự chủ đã phát triển nhưng cịn yếu, tính tự phát cịn nhiều, cịn thiếu
kiên nhẫn, chóng chán. Do đó, khó giữ trật tự, kỷ luật trong mọi hoạt động. Sự
vi phạm này thường xảy ra một cách vô ý thức. Có khi trong giờ học các em lại
trêu chọc bạn hay nói thật lớn... Điều đó thể hiện tính hiếu động cao ở lứa tuổi
nhi đồng.
Chính vì thế, người giáo viên cần cẩn trọng với hành vi, cử chỉ, lời nói của
mình. Tránh thiên vị, phân biệt đối xử giữa các em. Hãy đặt bản thân vào vị
trí của người học sinh để bình tĩnh lắng nghe. Giáo viên sẵn sàng nói lời xin
lỗi đầu tiên và sau lời xin lỗi mọi chuyện của các em thường được giải tỏa.
Hãy đối xử các em bằng tấm lòng thương yêu và sự chân thành của người
nhà giáo.
- Đời sống tình cảm: Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể
trực tiếp và ln gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này
khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi
giận. Biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vơ tư....
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi.
Ở lớp cuối cấp, năng lực làm chủ tình cảm của học sinh được phát triển. Các em
biết kiềm nén những cảm xúc xấu, có khi biết che giấu, che đậy cảm xúc thật
của mình. Điều đó thể hiện sự phong phú trong tình cảm, cảm xúc của học sinh.
Tình cảm trí tuệ của học sinh đang hình thành và phát triển. Các em dần dần biết
chăm lo đến kết quả học tập, hài lịng khi có kết quả học tập tốt đồng thời khơng
hài lịng khi kết quả học tập kém.
Tình cảm thẩm mĩ cũng đang được phát triển. Các em rất thích cái đẹp, như vẻ
đẹp thiên nhiên, đất nước, tình yêu quê hương, con người. Các em thích những
bản nhạc, bài ca hùng tráng, thích vẽ tranh, thích tơ điểm cho đời sống thêm đẹp.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà
giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em, nên dẫn dắt các em đi từ
hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải ln chú ý củng cố
tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trị chơi nhập vai,
đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân
cư....
Tóm lại, để làm tốt vai trị của mình. Giáo viên nên vừa là người truyền thụ
kiến thức vừa là một nhà tâm lý học. Điều đó địi hỏi mỗi người giáo viên luôn
không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ Sư phạm. Ngồi ra cịn
phải ln trau dồi năng lực nhận thức về Tâm lý học học sinh. Từ đó giáo viên
mới có thể tự mình quản lý tốt cảm xúc cá nhân và quản lý tốt cảm xúc của học
sinh. Tự biết chuyển hóa cảm xúc của giáo viên từ tiêu cực trở thành tích cực.
Người giáo viên biết làm thế nào có thể tự giải quyết và tìm ra phương hướng
giải quyết những sự cố liên quan đến từ học sinh. Từ đó nghề thầy giáo khơng
cịn là cơng việc nặng nề, áp lực. Người giáo viên cảm thấy thoải mái, nhẹ
nhàng, cảm thấy hạnh phúc hơn, thấy bản thân có giá trị hơn khi đóng góp sức
mình vào cơng cuộc xây dựng giáo dục ‘Trồng người’.