Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

LUẬN văn vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.95 KB, 168 trang )

1

LUẬN VĂN-Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên Việt Nam hiện nay

Mục lục

T
rang
1

Mở đầu
Chương 1: Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo

8

dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1 Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức

8

.
truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.2 Yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống

37

.

dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay


Chương 2: Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống

45

cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng ở Hà Nội hiện nay - thực trạng và
nguyên nhân
2.1 Thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
.

cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội

hiện nay
2.2 Nguyên nhân của thực trạng trên
.

45

68


2

Chương 3: phương hướng và Một số giải pháp chủ

77

yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh
viên Việt Nam hiện nay

3.1 Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
.

dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên

Việt Nam hiện nay
3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
.

77

89

giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh
viên Việt Nam hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

107
110
116

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế
kỷ của sự bùng nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên



3

tiến nhất từ trước đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được trong những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều
dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về
mặt kinh tế, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, Việt
Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi diện mạo của mình.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sau gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu
được những thành tựu đáng tự hào. Về cơ bản, chúng ta đã thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã có sự tăng trưởng về
kinh tế, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại,
tình hình kinh tế chính trị cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh
được tăng cường, thế và lực ngày càng được củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu"
trong sự phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất
màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu,
những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng giờ làm băng hoại
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét
đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo
ra một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, một bộ


4

phận thanh niên, sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo đồng tiền,
bng thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.

Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển
kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị
Trung ương lần thứ tư khóa VII, ngun Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ
lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa
đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản
sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển
của một dân tộc phải vươn tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại
không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội
nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được
cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là
những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc
một phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu
chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh
niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền


5

thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã
chuẩn bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và khơng thể thiếu
đó là "truyền thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào của
lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta
"hội nhập" mà khơng bị "hịa tan", phát triển mà không bị "mất

gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã
và đang giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung - sinh viên Việt
Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững
trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó
cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực
tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)" làm
đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây
đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một
số bài viết đã đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn
đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần
Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện
chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 31981; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí


6

Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí
Thơng tin Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại"
của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá trị định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn Quang
Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay
và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh

viên", Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn
Trang chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục
và Đào tạo), 1995; "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" của Thái Duy Tuyên,
Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong
việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt,
Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị
trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh
Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ
nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong


7

nền kinh tế thị trường" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 5,
1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo
dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần
Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề
đạo đức?" của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 4, 2000; "Tình cảm
đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay" của
Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa và đổi mới
các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong
đời sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001;
"Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh

niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết
học, số 2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng
đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc
Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị đạo đức truyền
thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số
5, 2002; "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số
5, 2002; "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền


8

kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của
Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học công
nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn
Đình Hịa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái thiện" truyền
thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay"
của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002; "Quan hệ
biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức
cho thanh niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê
Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh
đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phịng, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 5, 2003 v.v...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý
nghĩa to lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, những cơng trình này
chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở
Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra phương hướng và một


9

số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
từ đó xác định tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay
và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế thành phố
Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là
vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại
học và cao đẳng ở Hà Nội.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


10

5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và
giá trị đạo đức truyền thống. Ngồi ra, tác giả luận văn có tham khảo,
kế thừa các thành tựu của các cơng trình nghiên cứu đã được cơng
bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử
và lơgíc, phân tích và tổng hợp quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội
học... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc
giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà
Nội, bước đầu đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên
Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.


11


- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở
các trường đại học và cao đẳng. Đồng thời, nó cũng góp phần nhất
định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên
cạnh đó, tác giả luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá trị đạo
đức truyền thống quý báu của dân tộc, làm cho đạo đức truyền thống
dân tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà mỗi con người
Việt Nam ln hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


12

Chương 1
Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói
cách khác, ngay từ đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá
trị và giá trị học. Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã
gắn liền với những tri thức triết học. Sau này, khi khoa học có sự phân
ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật

ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó
được sử dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý
học, đạo đức học, kinh tế học... Trong lĩnh vực kinh tế học, "giá trị"
chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật khác khi trao đổi với
nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra đó phải có ích cho
cuộc sống con người và đáp ứng được nhu cầu của con người.
Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị là yếu tố hàng đầu. C.Mác viết:
"Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động


13

được nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau,
nó tạo ra giá trị cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng
loại" [40, tr. 104-105].
Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện
tượng của ý thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người
đối với khách thể mà người đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch
sử của giá trị, đồng thời khẳng định giá trị có thể nhận thức được và
giá trị có tính thực tiễn. Tất cả mọi cái gọi là giá trị đều có nguồn
gốc xuất phát từ chính cuộc sống lao động thực tiễn của con người.
Do vậy, có thể nói, chỉ trong xã hội lồi người mới có cái gọi là giá
trị. Và chính "con người là giá trị cao nhất của mọi giá trị là thước
đo của mọi giá trị. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất
cho sự phát triển người kinh tế - xã hội" [66, tr. 11]
Trong hoạt động thực tiễn, giá trị của một sự vật hiện tượng
đều được xác định bởi sự đánh giá của con người. Sự đánh giá đó
nằm trong quy luật của sự vận động và phát triển tiến lên trong thế

giới, nó phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống con người, cho
lợi ích và tiến bộ xã hội. Có thể nói, "mọi giá trị đều thể hiện mối
quan hệ giữa người với vật; chỉ khi nào sự vật khách quan có ích với
con người thì mới là giá trị" [38, tr. 32] và "nói đến giá trị là nói đến
cái có ích, có lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho sự phát triển của xã


14

hội, nói đến những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu và lợi ích của
con người trong lịch sử" [67, tr. 136].
Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục
tiêu phát triển có viết như sau: "Nói đến giá trị tức là muốn khẳng
định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm
coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến
cái có khả năng thôi thúc con người hành động và vươn tới" [2, tr.
16].
Trong cuốn Từ điển Bách khoa tồn thư Xơ viết định nghĩa:
Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của
các đối tượng thế giới xung quanh đối với con người, giai
cấp, nhóm của tồn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác
định khơng phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là
bởi tính chất cuốn hút (lơi cuốn) của các thuộc tính ấy vào
phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng
thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và
phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong
các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm
thế và mục đích [63, tr. 1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây, có thể
khái quát lại như sau:



15

Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực,
gắn với cái đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem
nó là nhu cầu hoặc có một vị trí quan trọng trong đời sống của
mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến
mà nó luôn vận động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho
phù hợp trong từng thời điểm nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế
khơng phải những cái gì đã có giá trị trong quá khứ đều giữ nguyên
giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy giá trị mang tính lịch sử
khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó
khơng phụ thuộc vào ý thức của con người mà do yêu cầu của từng
thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trị hết sức quan trọng trong đời
sống xã hội, giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình
trong cuộc sống, giá trị giúp con người định hướng và xác định mục
đích cho hành động của mình, là động cơ thúc đẩy hoạt động của
con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào
tiêu chí mục đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia
ra làm hai loại giá trị: Giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh
thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được


16


thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,
phong tục tập quán... Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong
đời sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người
đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống
hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con người, con người
với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của
đời sống xã hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và
đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người
với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo
sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau về vấn đề "truyền thống". Theo Từ điển Bách
khoa Triết học của Liên Xơ, "truyền thống" có nguồn gốc từ tiếng
Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu truyền lại - đó là các giá trị
tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ trước và nó được
gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Trong
cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa
có đoạn viết: "Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó
trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi
nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng
phát triển cuộc sống của chúng ta" [3, tr. 23].


17

Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức
tính, thói quen, những phong tục tập qn xã hội của các thế hệ nối

tiếp nhau, nó mang các đặc trưng: cộng đồng, bình ổn, lưu truyền.
"Nói đến truyền thống là nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm,
tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí...
của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn
định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [3, tr. 16-19].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất, truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp,
được lưu truyền từ đời này qua đời khác, nó đứng vững được trong
thời gian và có thể đương đầu với những biến động của lịch sử. Hơn
nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo ra sức mạnh, sản sinh ra các
giá trị mới, đem lại lợi ích cho con người.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi
là "truyền thống" nhưng khơng đem lại lợi ích cho con người, nhiều
khi nó kìm hãm sự phát triển đây là nghĩa thứ hai, nghĩa tiêu cực
của phạm trù này. Trong cuốn Ngày mười tám tháng Sương mù của
Louis Bonaparte, C.Mác viết rằng: "Truyền thống của tất cả các thế
hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống".
Cịn Hồ Chí Minh, trong bài "Đạo đức cách mạng" (tháng 12-1958)
cũng đã viết: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to;
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể
trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"


18

Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận
thiết yếu của đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát
triển cuộc sống của chúng ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống
khơng tách rời nhận thức các giá trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ

giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống
bên trong của dân tộc. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết
tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là những chuẩn
mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con
người với con người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta
gọi là giá trị đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của truyền thống
nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa. Trải
qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã rèn
luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước,
yêu thương con người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương,
chịu khó... Những đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng
niu quý trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc,
chính là nói đến truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó
chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ đời này
qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn phát huy phát triển
cho phù hợp với xã hội hiện tại.


19

Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo
đức truyền thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên
cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó. Chính vì vậy, khi nói đến những
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến những phẩm chất
tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc ta được cô đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác
nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một

tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có
của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát
triển. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng
đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước và giữ
nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo
nên một bản sắc hết sức độc đáo.
1.1.2. Nội dung cơ bản của một số giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
được hình thành, lắng đọng và phát triển qua hàng mấy nghìn năm
lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả dân tộc. Là kết quả
của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách
quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa Đơng Nam á, với địa
hình chạy dài theo bờ biển và tiếp nối giữa ba vùng: miền núi, đồng


20

bằng, bờ biển. Khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều,
giàu tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện thuận lợi và cũng khơng ít
khó khăn cho nghề trồng lúa nước.
Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hẹp lại phải
trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh chống ách đô hộ, chống kẻ thù từ
bên ngoài mà thường là những kẻ thù hùng mạnh hơn ta gấp bội
phần. Vì lẽ đó người dân Việt Nam ln ln tập hợp lại thành một
khối đại đồn kết, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và mở mang bờ
cõi.
Chính trong q trình ấy, văn hóa Việt Nam đã có dịp giao
lưu với văn hóa bên ngồi, trong đó văn hóa phương Đơng đã ảnh

hưởng mạnh mẽ đến nền văn hóa tín ngưỡng và tơn giáo của dân tộc
Việt Nam. Đặc biệt là tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo xâm
nhập vào Việt Nam từ rất lâu và đã đi sâu vào đời sống tín ngưỡng
người dân Việt Nam.
Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn,
yêu thương chúng sinh. Phật giáo cho rằng, có một thế giới vĩnh
hằng, tồn tại tích cực siêu việt, đó là cõi "niết bàn", nhưng muốn
đến được nơi cực lạc đó thì con người phải sống từ bi, ăn hiền, ở
lành, xa lánh mọi ham muốn vật chất, mọi thú vui hưởng lạc, sống
không tranh giành, yêu thương nhau. Đương nhiên, tư tưởng này
vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng ảnh


21

hưởng đến những truyền thống vốn có của ta, làm sâu đậm thêm
truyền thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và
về con người, là một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà
Khổng Tử là người khởi xướng) đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời
sống đạo đức của xã hội Việt Nam. Những nội dung tư tưởng của
Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam cương; ngũ thường... cũng
dần thấm sâu vào đời sống, trở thành lối sống, cách ứng xử ở đời
của người Việt Nam và được Việt hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho
truyền thống vốn có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm
tinh thần đồn kết thân ái, gắn bó và tinh thần chống áp bức, đơ hộ
khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam khơng chỉ giao lưu với văn hóa phương
Đơng mà cịn có sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là

văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào lưu văn hóa, tơn giáo đó du
nhập vào Việt Nam đã được nhân dân Việt Nam kế thừa có chọn lọc
để hình thành nên những nét riêng đặc trưng cho mình, nhưng cái
riêng đó nó vẫn ln ẩn chứa cái chung tạo nên sự tương đồng trong
việc hình thành nên các giá trị đạo đức của các dân tộc khác trên thế
giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên
nhiều phương diện nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa


22

riêng của mình, hội nhập mà khơng hịa tan, khơng đánh mất mình
và vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp quý báu
của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên
qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó là lịng u nước nồng nàn; lịng tự tơn, tự cường
dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa
tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức
hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối
sống [10, tr. 10-11].
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc Việt Nam, đã có rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà
khoa học bàn về vấn đề này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền

thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: lịng u nước, truyền thống
đồn kết, lao động cần cù và sáng tạo; trong đó yêu nước là bậc
thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [25, tr. 7486].


23

Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc ta với bảy nội dung như sau: "Yêu nước, cần cù, anh hùng,
sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" [22, tr. 108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn
trong cơng tác tư tưởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa
truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng
nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương
thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động..." [15, tr.
19].
Trong chương trình khoa học cơng nghệ cấp nhà nước: "Con
người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội" (KX-07) đã khẳng định: Cốt lõi của các giá trị truyền thống là
đạo đức, phẩm chất nhân cách con người Việt Nam bao gồm: tinh
thần u nước, vì nghĩa, lịng thương người...
Tuy cịn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp thang giá
trị đạo đức. Nhưng nhìn chung, các quan điểm các ý kiến đều thống
nhất cao độ ở một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao
nhất trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xun qua tồn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ
đại đến hiện đại" [20, tr. 100], là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị
của các giá trị" [22, tr. 94], là "động lực tình cảm lớn nhất của đời
sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức của dân tộc ta" [48, tr. 74].



24

Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm yêu quê
hương đất nước mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu
quê hương đất nước là một thứ tình cảm hết sức thiêng liêng, nó
xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt
Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có giặc ngoại
xâm, sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hịa bình biết chăm lo xây
dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng yêu nước của dân tộc ta
đã trở thành triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa
yêu nước. GS. Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là sản
phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ tình cảm tự
nhiên của mỗi người đối với quê hương mình tiến lên thành lý
tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt
xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và bảo
vệ nước nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ
đầu đã gắn bó con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của
mình, chính vì vậy truyền thống u nước của dân tộc Việt Nam bắt
nguồn từ tình yêu đối với quê hương làng xóm, yêu cây đa, bến
nước, sân đình, nơi có ơng bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con
cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người
hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng
cuộc sống.


25


Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc
ngoại xâm. Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống
giặc ngoại xâm của dân tộc. Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt
Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất, "thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", già trẻ
gái trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "cịn cái lai quần cũng đánh".
Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta
vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả tổ tiên,
giữ vững nơi chơn rau, cắt rốn của mình. Kiên quyết chống lại chính
sách đơ hộ của ngoại bang, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong
bất kỳ hồn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam
không hề giảm sút mà nó ln ln được hun đúc, âm ỉ cháy trong
lòng mỗi người dân nước Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ
thuở vua Hùng dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí
Minh. Với hơn 1000 năm đấu tranh giành độc lập từ 197 (TCN) đến
938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cho đến cuộc
khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến thắng giòn
giã, đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân
tộc ta liên tiếp đánh tan quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh...
Đến thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ XIX đến
năm 1975, chúng ta đã đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp, Mỹ.
Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải phóng hoàn


×