Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

luận văn Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.62 KB, 95 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất

nước, là lực lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực. Lịch sử nhân loại đã chứng
minh rằng sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc
phần lớn vào thế hệ thanh niên. Nhưng do tuổi còn trẻ, thiếu kinh nghiệm nên
thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và
toàn xã hội. Chính vì vậy, việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thanh niên là
một việc làm thường xuyên và cần thiết.
Ở mọi thời đại, trong mọi giai đoạn lịch sử, đạo đức được coi là nhân tố
quan trọng trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Vì thế, vấn
đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đã và đang là mối quan tâm hàng đầu
của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Đất nước ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 25 năm đổi
mới, nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ những mặt tích cực trong sự phát triển
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích
kỷ, vụ lợi, những thói hư, tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày,
từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống, phá vỡ những nét
đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra
một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, thanh niên nói
riêng có lối sống chạy theo đồng tiền bằng mọi giá, quay lưng lại với văn hóa,
truyền thống dân tộc.
Hà Nội là thủ đô – trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước, là
một trong những địa phương có số lượng dân cư lớn nhất cả nước với 6,5 triệu
người, trong đó thanh niên khoảng trên 2 triệu người. Đây là lực lượng nòng cốt


cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.


2

Theo suốt chiều dài lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc, Hà Nội
là một vùng đất nổi tiếng với những nét đẹp văn hóa truyền thống. Trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp
lớp thanh niên của Hà Nội lên đường nhập ngũ, góp phần to lớn vào sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, thanh niên
Hà Nội đã có những cống hiến to lớn với những tấm gương anh hùng trong
chiến đấu, học tập, lao động và sản xuất. Để xứng đáng là chủ nhân tương lai
của đất nước, ngoài việc trau rồi kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn, còn
cần phải chú trọng đến việc trau rồi phẩm chất đạo đức, lối sống. Liệu chúng ta
có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý
tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Chúng ta đã
chuẩn bị "hành trang" gì cho họ để họ đứng vững trong kinh tế thị trường hiện
nay? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc", những
truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã
giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất
gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ. Tất cả những điều đó đã và đang
giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung - thanh niên Hà Nội nói riêng nâng
cao hơn nữa bản lĩnh của mình, vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc
sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên là yêu cầu hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý
do để tác giả của luận văn chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc cho thanh niên Hà Nội hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Đi sâu nghiên cứu về những giá trị đạo đức truyền thống, giáo dục, kế

thừa và phát huy giá trị này không phải là mới. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho thanh niên ở Việt Nam hiện nay không phải là nhiều.


3

Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều công
trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía
cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam", Trần Văn Giàu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1993; “Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo
đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, tháng 6 - 1996; "Giáo
dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999;
"Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay" của
Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa và đổi mới các giá trị
đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Lý tưởng
đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện
nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001; "Giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền
kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Kế
thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số biểu hiện của sự
biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Quan
hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh
niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh,
2002; “Mấy vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003; “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền

thống cho sinh viên Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Doãn Thị Chín,
2004; “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2006; Bộ Giáo dục và Đào tạo


4

đã đưa ra chỉ thị số 2516/BGD&ĐT ngày 18/05/2007 về thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành
giáo dục; “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh
viên Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Trương Thị Phương
Thảo, 2009;…
Như vậy, vấn đề giá trị đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
đã có nhiều tác giả nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Nhìn chung,
các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối với việc kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta. Tuy
nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Hà Nội hiên nay. Vì vậy,
tác giả mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề này dưới góc độ triết học trong
luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng, thực trạng giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho thanh niên Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó, đưa
ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho đối tượng này ở Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải tập trung vào giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó

chỉ ra tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho thanh niên ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
thanh niên ở Hà Nội – nguyên nhân và một số vấn đề nảy sinh.


5

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc cho thanh niên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vấn đề giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho thanh niên ở Hà Nội hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ chí Minh, đường lối chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về đạo đức và giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo, kế thừa thành tựu của các công trình
khoa học khác đã được công bố liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử - logic,
phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ
thể như hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học… để thực
hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc

giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên Hà Nội
hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho thanh niên Hà Nội, từ đó, đề xuất phương hướng và


6

một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho thanh niên ở Thủ đô hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và
giảng dạy môn Đạo đức học, Triết học, Xây dựng Đảng... trong các Học viện,
các trường đại học, cao đẳng và các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để đề ra kế hoạch, giải pháp
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho thanh niên ở Thủ đô.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.


7

Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC, TẦM QUAN TRỌNG
VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC CHÚNG CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
1.1.1. Giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống
Ngay từ thời cổ đại, gắn liền với triết học, con người đã có những hiểu

biết ban đầu sơ khai về “giá trị”, “giá trị học”. Nhưng phải đến cuối thế kỷ
XIX, khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Hiện nay,
khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân
văn khác nhau như triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học…
Dưới góc độ Kinh tế chính trị học, giá trị là giá trị của hàng hóa, nó là
một trong hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa, là lượng lao động xã hội kết
tinh trong hàng hóa. Do vậy, những hàng hóa nào có lượng hao phí lao động
xã hội kết tinh càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. C. Mác viết:
“Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được nhân
lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị cao
hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại” [24, tr.104 - 105].
Trong triết học, khi đề cập đến phạm trù giá trị có nhiều quan điểm khác
nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng
của ý thức, là biểu hiện thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà
người đó đang đánh giá. Còn những người theo chủ nghĩa tiên nhiệm (duy
tâm khách quan), coi giá trị là sự tồn tại của những bản chất tiên nghiệm,
những chuẩn mực lý tưởng tồn tại bên ngoài sự vật không phụ thuộc vào nhu
cầu và ham muốn của con người. Những người theo thuyết tự nhiên chủ nghĩa
lại coi giá trị là biểu hiện những nhu cầu tự nhiên của con người, từ đó làm
nảy sinh các quan điểm xã hội, kinh tế và thực dụng.


8

Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử của giá
trị, đồng thời khẳng định giá trị có thể nhận thức được và giá trị có tính thực
tiễn. Tất cả mọi cái gọi là giá trị đều có nguồn gốc xuất phát từ chính cuộc
sống lao động thực tiễn của con người. Do vậy, có thể nói, chỉ trong xã hội
loài người mới có cái gọi là giá trị. Và chính con người là giá trị cao nhất của
mọi giá trị là thước đo của mọi giá trị. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc

chắn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Nguyễn Trọng Chuẩn thì: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định
mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn
liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái khả năng thôi thúc
con người hành động và vươn tới” [5, tr.16].
Theo tác giả Hồ Sỹ Quý:
Giá trị là thuật ngữ… dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa xã hội của
các hiện tượng. Về thực chất, toàn bộ sự đa dạng của hoạt động
người, của các quan hệ xã hội, bao hàm cả những hiện tượng tự
nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các “giá trị khách quan”
với tính cách là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là được đánh
giá trong khuôn thước của thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và
xấu… [35, tr.42].
Để phân loại giá trị, tùy theo mục đích tiếp cận, người ta có thể phân chia
thành nhiều loại giá trị. Nhưng cách phân loại thông thường và phổ biến là
chia giá trị thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người.
Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí,
nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,
phong tục tập quán… Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống


9

tinh thần và chúng trở thành chuẩn mực để con người phân biệt cái đúng, cái
sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người
với con người, con người với xã hội.
Trong hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội thì giá trị đạo
đức là một yếu tố vô cùng quan trọng, nó là những chuẩn mực, những khuôn

mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi
của con người trên cơ sở tự giác, tự nguyện.
Đạo đức là phẩm chất nhân cách cơ bản của con người. Đạo đức truyền
thống là cốt lõi của đạo đức dân tộc. Nó phản ánh bộ mặt, nhân cách, là điều
kiện để con người phát triển bền vững, nhân tố tạo nên sự phát triển của xã
hội. “Đạo”, theo nghĩa Hán Việt là đường đi, lẽ sống, chuẩn mực; “đức” là
cái biểu hiện cao đẹp trong hành vi, lối sống của con người. Đạo đức được
hiểu là người biết đi theo lẽ sống, chuẩn mực tốt đẹp. Đạo đức, theo nghĩa
hẹp, là luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của
con người. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm
trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Theo Giáo
trình Đạo đức học Mác – Lênin của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh viết:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người thông qua quan hệ với nhau và trong quan hệ
với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội. [21, tr.7].
Như vậy, giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ thống giá trị tinh thần
của đời sống xã hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá
hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội, chúng


10

được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội.
Giá trị đạo đức xét theo lịch đại có thể phân chia thành giá trị đạo đức
truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Trong từng thời kỳ lịch sử, cơ sở xác

định hệ thống giá trị đạo đức của mỗi nhóm người, cộng đồng, dân tộc, mỗi
nước có những nội dung và định hướng khác nhau. Những giá trị đạo đức của
một thời kỳ lịch sử được xác định không phải là ý muốn chủ quan của mỗi cá
nhân, mà xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội và
phải góp phần phát triển nhân cách, phát triển con người, góp phần vào việc
thiết lập quan hệ con người với con người, con người với tự nhiên, với môi
trường sống nhằm làm cho xã hội phát triển.
Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, dù có ý
thức hay không có ý thức trong quá trình tồn tại và phát triển cũng hình thành
truyền thống. Truyền thống là những giá trị tinh thần của con người được hình
thành trong hoạt động, quan hệ ứng xử và được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác, được mọi người nhận thức, thừa nhận, tự giác thực hiện, và tự giác
điều chỉnh nhờ dư luận của cộng đồng, xã hội.
Khi nói đến truyền thống, thường nói đến những giá trị văn hóa, tinh
thần, đạo đức tốt đẹp, có ý nghĩa tích cực như lòng yêu nước, tính cần cù, óc
sáng tạo, trọng nhân nghĩa, kính thầy, ham học...Những giá trị tinh thần tốt
đẹp, có tác dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con
người vượt qua khó khăn trong cuộc sống hiện tại để phát triển xã hội, và
hoàn thiện nhân cách. Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm
những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ
nối tiếp nhau, nó mang các đặc trưng cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. “Nói
đến truyền thống là nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán,
thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí… của một cộng


11

đồng người đã được hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [ 6, tr.81].
Theo Từ điển bách khoa triết học của Liên Xô, “truyền thống” có nghĩa

là sự chuyển giao, lưu truyền lại – đó là các giá trị tinh hoa văn hoa lưu truyền
từ những thế hệ trước và nó được giữ gìn ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã
hội nhất định.
Như vậy, dưới góc độ khoa học thì truyền thống bao hàm cả những yếu
tố tích cực và tiêu cực. Truyền thống là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền
từ đời này qua đời khác, nó đứng vững được trong thời gian và có thể đương
đầu với những biến động của lịch sử. Hơn nữa những giá trị ấy có khả năng
sáng tạo ra sức mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con
người. Truyền thống đó mang ý nghĩa tích cực. Còn ngược lại cái gọi là
truyền thống nhưng không mang lại lợi ích cho con người, kìm hãm sự phát
triển của con người thì đó là truyền thống mang ý nghĩa tiêu cực mà chúng ta
cần lên án và loại bỏ. Trong phạm vi luận văn này, tác giả xin góp phần làm
rõ truyền thống có ý nghĩa tích cực hay là giá trị truyền thống mà cụ thể ở
luận văn này là giá trị đạo đức truyền thống.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh
thần của dân tộc, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác
định là những chuẩn mức, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử
giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Chẳng hạn như ở
Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt nam
đã tạo dựng được những giá trị đạo đức truyền thống như tinh thần yêu nước,
yêu thương con người, truyền thống cần cù, kiên cường bất khuất….những
đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
mà hàng ngàn đời nay nhân dân ta vẫn nâng niu, lưu giữ, thể hiện trong các


12

chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân
với cá nhân và cá nhân với xã hội. Xét trong mối tương quan với thế giới và

khu vực, đặc biệt là với các dân tộc Phương Đông, các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta có nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, do trải qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước nên giá trị đạo đức truyền thống nổi lên
hàng đầu của nước ta đó là tinh thần yêu nước, giá trị này bao trùm và chi
phối các giá trị đạo đức truyền thống khác, tạo nên cốt lõi của giá trị tinh thần.
Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là
nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã hình thành và bảo lưu trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
ta được cô đúc, được thử thách, được tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo
những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to
lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp
cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Đó chính là truyền thống độc đáo
mang bản sắc riêng có của dân tộc ta. GS. Trần Văn Giàu đã viết: Giá trị đạo
đức truyền thống là những cái gì sừng sững, vững chắc, cao vọi, tôn nghiêm
như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu điểm để các tầng lớp đồng bào theo
đó mà gióng hướng mà không đi lạc, mà phân biệt chính tà, phải trái, nên
chăng, tốt xấu để mọi người xác định thái độ, hành tung của mình [13, tr.93].
1.1.2. Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, cho nên những giá trị tinh thần và đạo đức, nhân
cách của người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa là bắt nguồn từ hoàn cảnh địa
lý, môi trường tự nhiên, lịch sử xã hội.
Từ khi lập nước đến nay, Việt Nam chủ yếu vẫn là một nước nông
nghiệp. Nghề nông là một nghề lao động vất vả, không chỉ đòi hỏi nhiều sức
lao động, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Trong khi đó, điều kiện tự


13

nhiên của Việt Nam lại mưa nắng thất thường do nằm ở khu vực nhiệt đới gió

mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và đông nam, gây ra nhiều thiên
tai, hạn hán, mất mùa. Chính những đặc điểm này đã ảnh hưởng tới sự hình
thành hệ giá trị của dân tộc Việt Nam, tạo nên sự gắn bó cộng đồng bền chặt,
sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau, đặt nền móng cho tinh thần lao động cần cù,
tiết kiệm. Bên cạnh đó, do có nhiều tài nguyên thiên nhiên và là đầu mối giao
thông quốc tế quan trọng, nên Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều
quốc gia. Bởi vậy, muốn bảo vệ đất nước, người Việt Nam phải hy sinh nhiều
lợi ích riêng của mình, cùng nhau đoàn kết bảo vệ những lợi ích chung.
Với những đặc điểm tự nhiên, sự khó khăn của cư dân vùng lúa nước, sự
đe doạ liên tục của nạn ngoại xâm như vậy, muốn tồn tại và phát triển, con
người Việt Nam phải cùng nhau chung sức trong lao động sản xuất và trong
các quan hệ xã hội khác. Việc gắn đời sống của mình với cộng đồng cũng là để
bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó, trong nấc thang giá trị xã hội, việc ưu tiên
các giá trị cộng đồng, hay nói cách khác, việc đề cao các giá trị đạo đức là đặc
điểm nổi bật trong đời sống của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, sự phát triển ưu
trội của các giá trị đạo đức còn có một nguyên nhân khác, đó là pháp luật chưa
phát triển (phải đến tận thế kỷ XI, bộ luật đầu tiên của Việt Nam mới ra đời).
Do vậy, khi chưa có sự điều chỉnh hành vi con người bằng pháp luật, thì sự tồn
tại của phương thức điều chỉnh bằng đạo đức là điều hiển nhiên.
Trên nền tảng của văn hoá bản địa, với điều kiện địa lý thuận lợi, Việt
Nam còn tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là văn hoá
Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Nho giáo được truyền vào nước ta, tính đến nay đã trên 2000 năm. Nho
giáo là một học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ
quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù
hợp với điều kiện xã hội Việt Nam, Nho giáo từng bước được giai cấp thống


14


trị Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt là trong quản lý đất nước. Bằng ảnh
hưởng của giai cấp thống trị, Nho giáo đã ăn sâu vào tâm lý người Việt Nam.
Mặc dù còn có những quan niệm tiêu cực, như trọng nam khinh nữ, phân biệt
đẳng cấp, bè cánh, coi thường lao động chân tay... song Nho giáo cũng có
những yếu tố tích cực, đó là việc đề cao chữ nhân, lòng thương người, trọng
người hiền tài, người cao tuổi… Cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực của Nho
giáo đều tác động tới nhân cách con người Việt Nam.
Với tư tưởng từ bi, bác ái, Phật giáo của nền văn hoá Ấn Độ đã dễ dàng
thâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Các giáo lý Phật giáo cùng với việc các
nhà sư sống hoà đồng với người dân đã tạo nên sự gần gũi giữa Phật giáo và
người dân. Bởi lẽ, người Việt Nam từng chịu nhiều đau thương, mất mát qua
các cuộc chiến tranh, sống lam lũ, khổ sở và thường xuyên phải chống chọi
với thiên nhiên khắc nghiệt, nên luôn mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Bằng thuyết nhân quả luân hồi, ở hiền gặp lành, Phật giáo khuyến khích
con người ăn ở nhân đức để có được cuộc sống tốt đẹp cho thế hệ sau. Phật
giáo đã góp phần nâng cao đời sống đạo đức của người dân, dẫu chỉ là về mặt
tinh thần. Họ tiếp nhận Phật giáo như là một yếu tố tâm lý làm cân bằng cuộc
sống vốn khốn khó của mình. Phật giáo cũng củng cố cách sống nhân nghĩa,
chân tình của người Việt Nam.
Cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo cũng có ảnh hưởng nhất định
tới nhân cách con người Việt Nam. Bên cạnh những yếu tố mê tín dị đoan,
Đạo giáo đã đem lại thêm cho nhân dân ta là tinh thần đoàn kết, hữu ái của
nông dân lao động và một phần cái ý thức về sức mạnh có chính nghĩa của
mình chống mọi sự bất công, áp bức, hà hiếp của vua chúa, cường hào, ác bá.
Chính đặc điểm hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm cho các
giá trị đạo đức được bồi đắp thường xuyên trong suốt chiều dài lịch sử. Cùng
với thời gian, những giá trị này trở nên ổn định và được lưu truyền từ thế hệ


15


này sang thế hệ khác và trở thành động lực, sức mạnh, bản sắc của nhân cách
con người Việt Nam.
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt
Nam, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam
bàn về vấn đề này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần
cù và sáng tạo; trong đó lòng yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống
giá trị đạo đức của dân tộc [17, tr.74-86].
Còn theo Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc bao gồm: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương
người, vì nghĩa” [13, tr.108].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc” đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc: tinh thần cộng đồng gắn kết cá
nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng
nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức hy
sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân;
là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [8, tr.56].
Các quan điểm trên của Đảng và các nhà khoa học tuy còn sự khác biệt
nào đó trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức truyền thống. Nhưng nhìn
chung, các quan điểm, các ý kiến trên đều thống nhất cao độ ở một điểm. Đó
là coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức



16

truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó được ví như “sợi chỉ đỏ” xuyên qua
toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là động lực tình cảm lớn nhất
của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức của dân tộc.
1.1.2.1. Tinh thần yêu nước
Tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã
hội mà nội dung của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá
khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Thực ra,
trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc,
sự hình thành cũng như biểu hiện của nó lại có sự khác nhau. Ở Việt Nam,
chúng ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức cao quý nhất
của dân tộc Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang
bậc giá trị truyền thống, và là hằng số trong mỗi người Việt Nam, "là tiêu
điểm của mọi tiêu điểm". Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức
giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc.
Tinh thần yêu nước Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị,
đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến
những người thân yêu ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành
tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là
sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
Tình yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước,
nó còn được thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới,
hầu như dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm
lăng. Nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời
gian từ thế kỷ III TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành



17

hơn nửa thời gian cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống
ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Không có
một dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và
với những kẻ thù mạnh hơn mình rất nhiều. Chính tinh thần yêu nước nồng
nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm
lược. Qua những cuộc chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu
nước đã trở thành dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một dạng
triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn Việt Nam. Nhận xét về truyền thống
yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó bước qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước" [26. tr.171].
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, thử thách và
khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó được bổ sung và phát triển qua
từng thời kỳ, là một trong những giá trị đạo đức truyền thống cao quý và bền
vững nhất của dân tộc ta. Chính vì vậy, yêu nước là niềm tự hào dân tộc và là
một truyền thống cực kỳ quý báu mà chúng ta cần kế thừa và phát huy trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, truyền thống đó thể hiện ở sự
nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào khả năng sức mạnh tự
lực, tự cường của dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.2.2. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết
Ý thức về tinh thần đoàn kết của người Việt Nam đã trở thành một truyền
thuyết - truyền thuyết về hai chữ "đồng bào" - mọi người cùng sinh từ một cái
bọc mà ra. Truyền thuyết này phản ánh nhu cầu và mong ước của người xưa
về sự gắn bó giữa những con người với nhau.



18

Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau là một trong
những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, nó được hình thành trong
quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên nhiên khắc nghiệt. Bởi
trong những điều kiện khó khăn đó, con người muốn vượt qua họ phải
“chung lưng, đấu cật”, góp sức, góp trí với nhau. Vì vậy, tinh thần đoàn kết
cộng đồng sâu sắc, được hình thành là một lẽ tất nhiên trong đời sống của con
người, để đáp ứng nhu cầu khách quan đang đòi hỏi. Tinh thần đoàn kết cũng
đã hòa vào dòng chảy của chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của
chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đây
quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Đoàn kết thể hiện trong mọi thành
công và thất bại, “có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia”. Đặc biệt tinh thần
đoàn kết thể hiện rõ nhất và quý nhất khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Khi đói rét
thì “nhường cơm xẻ áo”, khi khó khăn, hoạn nạn thì “chị ngã em nâng”…
Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên được thể hiện trong gia
đình, làng xã và hơn hết là tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Trong gia đình sức
mạnh đoàn kết được thể hiện: Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”.
Trong lao động sản xuất và đời sống hàng ngày thì tinh thần đoàn kết được thể
hiện: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Tinh thần đoàn kết trong cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh
thần đoàn kết dân tộc và không ngừng được nâng cao trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn
dân tộc nhất là khi có ngoại xâm. Tư tưởng đoàn kết giữa các dân tộc anh em
được thể hiện rất sớm trong cách lý giải về sự ra đời của dân tộc Việt Nam
trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”. Đây chính là sự khẳng định
truyền thống đoàn kết anh em giữa các dân tộc.



19

Từ kinh nghiệm thực tế, cha ông ta nhận thức rằng tinh thần đoàn kết toàn
dân là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta đánh thắng mọi thế lực ngoại
xâm. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, nếu không tạo được sự
đoàn kết nhất trí cao thì nguy cơ nước mất nhà tan sẽ xảy ra. Thất bại của nhà
Hồ thế kỷ XIV là một ví dụ. Do không thống nhất được lòng dân, nên dù có
thời cơ, vũ khí tân tiến vẫn không bảo vệ được độc lập dân tộc. Hoặc trong các
thế kỷ XVI - XVIII chiến tranh phân chia Trịnh - Nguyễn, Nam - Bắc triều là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy yếu của đất nước, làm cho thực dân Pháp
có cơ hội xâm lược nước nhà. Lịch sử cũng chứng minh, dân tộc Việt Nam đã
đánh thắng bao thế lực ngoại bang, dù chúng có sử dụng những chính sách cực
kỳ xảo quyệt, thâm độc. Từ chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của
các thế lực phong kiến phương Bắc đến chính sách chia rẽ của thực dân Pháp,
đế quốc Mỹ lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Chính
nhờ có truyền thống đoàn kết mà chúng ta mới có được một dân tộc độc lập
như ngày nay. Những câu như "đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết", hay "một
cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao"... không chỉ là một
lời khuyên nhủ, mà còn là phương châm, mục đích của sự đoàn kết dân tộc. Nó
trở thành sức mạnh tinh thần và đặc trưng cho nhân cách con người Việt Nam
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần
vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng
như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Dễ mười lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Để nói về sức mạnh đoàn kết,
trong bài thơ “Hòn đá” rất giản dị, Người đã chỉ rõ một chân lý “Biết đồng
sức, biết đồng lòng, việc gì khó, cũng làm xong” [28, tr.34]. Người khẳng
định: “sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung

quanh tổ quốc. Dù địch hung tàn và xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm


20

bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” [28, tr.40]. Người còn khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công.
Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình” [27, tr.198].
Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong việc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, là điều kiện tất yếu để thể hiện ý chí tự lực, tự cường dân tộc, ngay
cả khi đất nước hòa bình hay có chiến tranh. Nó đã trở thành điểm tựa tinh
thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
1.1.2.3. Truyền thống nhân nghĩa, bao dung, khát vọng hòa bình, yêu hòa bình.
Lòng thương người của dân tộc Việt Nam xuất phát từ tình cảm yêu quý
con người - "người là hoa của đất". Chính trong quá trình lao động sản xuất
và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, cha ông ta đã rút ra triết lý: con người là vốn
quý hơn cả, không có gì có thể so sánh được. Mọi người luôn luôn "thương
người như thể thương thân" và vì lẽ đó, trong quan hệ đối xử hàng ngày,
người Việt Nam luôn coi trọng tình, luôn đặt tình nghĩa lên trên hết - "vì tình
vì nghĩa ai vì đĩa xôi đầy". Chữ "tình" chiếm một vị trí quan trọng trong đời
sống của người dân. Trong gia đình, đó là tình cảm vợ chồng "đầu gối tay
ấp", tình anh em "như thể tay chân", tình cảm đối với bố mẹ: "Công cha như
núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Rộng hơn là tình
cảm đối với làng xóm : "Sớm khuya tối lửa tắt đèn có nhau”. Và, rộng hơn cả
là tình yêu đất nước: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước
thì thương nhau cùng, Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy là khác giống nhưng

chung một giàn"... Chính sự coi trọng chữ "tình" mà trong những xung đột,
người Việt Nam thường cố gắng giải quyết theo phương châm "có lý có tình",


21

"chín bỏ làm mười". Bởi với họ, tình cảm con người là cao quý hơn cả, không
thể vì những điều khác mà bỏ đi được, "một mặt người hơn mười mặt của".
Tinh thần thương yêu con người còn biểu hiện trong sự tương trợ và giúp đỡ
lẫn nhau theo kiểu "lá lành đùm lá rách", "chị ngã em nâng", "một con ngựa
đau cả tàu không ăn cỏ"... ở tình cảm bao dung, vị tha: "đánh kẻ chạy đi,
không ai đánh kẻ chạy lại". Họ không những vị tha với nhau, mà còn vị tha
với cả kẻ thù. Lịch sử đã từng ghi lại rằng vua Quang Trung sau khi đánh bại
quân Thanh còn cấp lương thực và phương tiện cho đám quân về nước, với
những tù binh chiến tranh, họ luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu
sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về nước. Chính tư tưởng “đem đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó.
Lòng yêu thương con người của dân tộc ta từ lâu đã trở thành nếp nghĩ,
hành động phổ biến trong nhân dân, chi phối quan hệ của người với người
trong xã hội. Lòng thương người là một trong những truyền thống đáng tự hào
của dân tộc ta. Bác Hồ của chúng ta là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa.
Xuất phát từ lòng yêu thương con người – người lao động, yêu quê hương đất
nước Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác
hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu viết:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người”. Lòng nhân
ái của con người đã trở thành sức mạnh, nó thấm sâu vào đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn
con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như
những đứa con lạc bầy cần được cưu mang. Bác nói: giống như bàn tay cũng

có ngón dài, ngón ngắn nhưng đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục
người, có người thế này, người thế khác nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên
ta, đều là người Việt Nam, nên cần khoan dung độ lượng. Hàng năm, Đảng và


22

Nhà nước thường có những đợt giảm án cho những phạm nhân cải tạo tốt,
điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ truyền
thống đó đòi hỏi chúng ta phải biết kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Tóm lại, tình thương yêu con người là giá trị đạo đức đặc trưng của dân
tộc ta, một giá trị rất đáng tự hào. Nó gắn liền với tình yêu thương đồng loại
và là "cái gốc của đạo đức”. Không có lòng nhân ái thì không thể có lòng yêu
nước, thương nhân dân được.
1.2.2.4. Truyền thống cần cù, tiết kiệm, sáng tạo trong lao động
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, sáng tạo trong lao động là một giá trị đạo
đức có từ lâu đời của dân tộc ta. Nó được hình thành và phát triển cùng với
quá trình chống thiên nhiên khắc nghiệt và quá trình chống giặc ngoại xâm.
Thực ra, để kiến tạo ra của cải vật chất thì bất cứ dân tộc nào cũng phải lao
động, cũng phải chịu khó, và họ cũng có thể tự hào về những thành quả đã tạo
dựng được của mình, nhưng dân tộc Việt Nam lại là một trường hợp đặc biệt.
Bởi lẽ, Việt Nam là một nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời. Lao động
nông nghiệp là loại hình lao động vất vả, cần nhiều thời gian, công sức mới có
hạt gạo, bát cơm để ăn. Hơn nữa, thiên nhiên lại quá nhiều nắng gió, mưa bão
mà nhiều khi, mùa nắng thì hạn cháy đồng, mùa mưa lại lũ lụt. Quanh năm
suốt tháng, người dân Việt Nam phải lo đắp đập, đào mương lấy nước tưới,
đắp đê phòng chống bão lụt.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã từng nói rằng những người nước ngoài đến
Việt Nam, họ đều hết sức ngạc nhiên khi thấy mọi cơ năng của con người
Việt Nam đều được dùng để làm việc: đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh

nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay. Ngoài sự khéo léo, đó còn là một minh
chứng cho sự cần cù, chịu khó của người Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt
Nam lại luôn chịu sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Bất cứ cuộc xâm
lăng nào, bên cạnh nhiều lý do khác, cũng đều là sự cướp bóc của cải, phá


23

hoại mùa màng sản xuất. Do đó, để khắc phục hậu quả, nhân dân Việt Nam
không còn cách nào hơn là phải lao động cần cù. Như thế, đầu tiên, lao động
cần cù như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo cho sự sinh tồn của dân tộc. Sau
đó, trong sự đấu tranh gian khổ với thiên nhiên, với cuộc sống luôn bị kẻ thù
xâm lăng, lao động cần cù đã trở thành một phẩm chất đạo đức không thể
thiếu đối với con người Việt Nam. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao
động đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó “một nắng, hai sương” và tiết
kiệm trong sinh hoạt để duy trì và bảo vệ cuộc sống và xây dựng Tổ quốc.
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm
bởi lẽ, "buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện", "khi có mà chẳng ăn de,
đến khi ăn hết thì dè chẳng ra". Vì vậy, “cần” mà không “kiệm” thì khác
nào: “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Nên ông cha ta thường nhắc
nhở con cháu rằng: “Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất bát lấy ai
bạn cùng”. Từ xưa đến nay nhân dân ta luôn ca ngợi đức tính cần cù bằng
những câu ca dao tục ngữ như: “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”,
“năng nhặt, chặt bị” hay “cày đồng đang buổi ban trưa, mồ hôi thánh thót
như mưa ruộng cày” đã trở nên quá đỗi quen thuộc với người Việt Nam. Đó
không chỉ là hình ảnh đẹp mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của
dân tộc ta. Đức tính cần cù đã được thể hiện rõ nét trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau của dân tộc và đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã có nhận xét: Nói chung, nhân dân
nước nào cũng cần cù …. Nhưng không ai chối cãi rằng nhân dân Việt Nam

rất cần cù, hơn nữa còn “cần cù đến mức anh hùng tột bậc” như nhân dân Việt
Nam thì không phải nơi nào cũng có [13, tr.153–156].
Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm,
chính, so sánh với bốn mùa của trời, bốn hướng của đất, nếu thiếu một mùa
thì không thành trời; thiếu một hướng thì không thành đất; nếu thiếu một đức


24

thì không thành người [27, tr.631]. Người cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là
thước đo văn minh của một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là
một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng, là cốt lõi
của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, đức tính cần cù, sáng tạo được biểu hiện rõ nét trong lao động
sản xuất, trong khoa học – kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Các
phong trào thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực. Ở nơi biên
cương, trên đồng ruộng hay trong các nhà máy, xí nghiệp…
1.1.2.5. Truyền thống hiếu học
Truyền thống hiếu học của người dân Việt Nam được hình thành từ
nhiều thế hệ. Hiếu học là tinh thần ham học hỏi, tự nguyện và khát khao vươn
tới tri thức của con người. Hiếu học cũng là một giá trị truyền thống tiêu biểu
của người Việt Nam. Truyền thống này, được hình thành từ sự kết hợp giữa
trí thông minh, sáng tạo của người dân Việt Nam và tư tưởng giáo dục tích
cực của Nho giáo. Theo đánh giá của nhiều nhà ngiên cứu thì truyền thống
hiếu học của người Việt Nam sớm ra đời là do những ảnh hưởng tích cực của
Nho giáo, truyền thống “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Truyền thống “tôn sư
trọng đạo” là một nội dung trong học thuyết của Khổng Tử. Khi vào Việt
Nam đã trở thành nội dung đạo lý của người Việt Nam. Ngay từ khi còn nằm
trong nôi đã được nghe lời ru của mẹ.
“Qua sông phải bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Truyền thống đó đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở
thành triết lý sống của người Việt Nam. “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ,
mồng ba tết thầy” hoặc “Không thầy đó mày làm nên”. Là cây phải có gốc, là
sông phải có nguồn, để trở thành con người đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ
công ơn thầy vừa là đạo lý, vừa là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân


25

tộc ta. Người xưa từng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri
đạo” có nghĩa là ngọc không mài rũa thì không thành đồ dùng được, con
người không học thì không biết đạo.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục, với truyền thống hiếu
học, tôn trọng người hiền tài, nên ngay từ xưa cha ông ta đã biết bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường Đại học quốc lập
thành lập đầu tiên ở nước ta. Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại Bảo
thứ ba, năm 1442 ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám có ghi: Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém
thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai
không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi học sinh cả nước tháng 9/1945 đã
nhấn mạnh: “Non sông ta có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm châu được hay không
chính là nhờ một phần lớn vào công học tập của các cháu”.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã ý thức một cách sâu sắc
rằng “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người.
Chính những giá trị đạo đức truyền thống này đã tạo nên lịch sử vẻ vang

của dân tộc Việt Nam. Chúng là nhân tố quan trọng định hướng tư tưởng, tình
cảm, hành động của con người Việt Nam trong suốt quá trình phát triển của
mình. Chúng đã tạo nên những con người biết sống xả thân vì nghĩa, vì đồng
bào, dân tộc bất kể con người đó thuộc tầng lớp, giai cấp nào trong xã hội. Có
thể nói, các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam không chỉ tạo nên sức mạnh
cho nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong lịch sử mà nó còn
là động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước.


×