Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

LUẬN VĂN: Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.04 KB, 127 trang )












LUẬN VĂN:
Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay










mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng
nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc
sống của nhiều dân tộc trên thế giới.


Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh tế, lại
trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi diện mạo
của mình.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau gần 20 năm đổi
mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào. Về cơ bản, chúng ta đã
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã có sự tăng trưởng về kinh tế, phá
được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, tình hình kinh tế chính trị cơ
bản là ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, thế và lực ngày càng được củng
cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu" trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ
lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng giờ làm
băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của
văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận không nhỏ
lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh niên, sinh viên nói riêng có lối
sống chạy theo đồng tiền, buông thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.

Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo
tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại
Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng
định: Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa.
Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống
sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái
mới tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa

trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn.
Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những
giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn
bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền thống dân
tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất
gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho
thanh niên Việt Nam nói chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản
lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề
hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn
chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện

nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)" làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía
cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện
chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền
thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống
và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp
chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết
học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá trị - định hướng

giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995;
"Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối
sống cho sinh viên", Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn Trang
chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự
biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo
đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp
chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức
người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997;
"Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước
ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong

nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Vấn đề khai
thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí
Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán,
1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hoàng
Trung, Tạp chí Triết học, số 4, 2000; "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức
trong điều kiện hiện nay" của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá
trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí
Triết học, số 3, 2001; "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh
niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001;
"Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh
đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị
đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền
kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Kế thừa tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ

Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn
Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học công nghệ và đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ
"cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay"
của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 5, 2003 v.v
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối
với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta.

Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó
đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác định
tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các
trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục đạo
đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài ra, tác giả luận
văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu đã được công
bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp quy
nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài
đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục những
giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, bước đầu đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở các trường đại học và cao đẳng. Đồng

thời, nó cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả
luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân
tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà
mỗi con người Việt Nam luôn hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói cách khác, ngay từ
đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trước thế kỷ XIX,
những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức triết học. Sau này, khi khoa
học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ
giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử dụng trong
các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học Trong
lĩnh vực kinh tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật khác khi trao
đổi với nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống
con người và đáp ứng được nhu cầu của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị
là yếu tố hàng đầu. C.Mác viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là
một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo
ra giá trị cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [40, tr. 104-105].


Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của ý
thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà người đó
đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử của giá trị,
đồng thời khẳng định giá trị có thể nhận thức được và giá trị có tính thực tiễn. Tất cả
mọi cái gọi là giá trị đều có nguồn gốc xuất phát từ chính cuộc sống lao động thực tiễn
của con người. Do vậy, có thể nói, chỉ trong xã hội loài người mới có cái gọi là giá trị.
Và chính "con người là giá trị cao nhất của mọi giá trị là thước đo của mọi giá trị. Đầu
tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển người kinh tế - xã hội" [66,
tr. 11]
Trong hoạt động thực tiễn, giá trị của một sự vật hiện tượng đều được xác định
bởi sự đánh giá của con người. Sự đánh giá đó nằm trong quy luật của sự vận động và
phát triển tiến lên trong thế giới, nó phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống con
người, cho lợi ích và tiến bộ xã hội. Có thể nói, "mọi giá trị đều thể hiện mối quan hệ
giữa người với vật; chỉ khi nào sự vật khách quan có ích với con người thì mới là giá
trị" [38, tr. 32] và "nói đến giá trị là nói đến cái có ích, có lợi cho nhân dân, cho dân
tộc, cho sự phát triển của xã hội, nói đến những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu và lợi
ích của con người trong lịch sử" [67, tr. 136].
Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển có
viết như sau: "Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái
đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và vươn tới" [2, tr. 16].
Trong cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết định nghĩa:

Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng
thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm của toàn bộ xã hội
nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự
nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào
phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu,
các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa

nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong
lý tưởng, tâm thế và mục đích [63, tr. 1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây, có thể khái quát lại như
sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái
đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị
trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển
của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó luôn vận
động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong từng thời điểm nhất
định. Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đã có giá trị trong quá khứ
đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy giá trị mang tính lịch sử
khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý
thức của con người mà do yêu cầu của từng thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá
trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp con người
định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là động cơ thúc đẩy hoạt
động của con người.

Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí mục đích
phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá trị: Giá trị vật
chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí
tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật, phong tục tập quán Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời
sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái
đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người
với con người, con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và

được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người
với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi
của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về vấn đề "truyền thống". Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô, "truyền
thống" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu truyền lại - đó là các
giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ trước và nó được gìn giữ ở
các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Trong cuốn Giá trị truyền thống trước
những thách thức của toàn cầu hóa có đoạn viết: "Từ đây, cái được gọi là truyền thống
chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào
nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của
chúng ta" [3, tr. 23].

Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức tính, thói quen,
những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, nó mang các đặc trưng:
cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. "Nói đến truyền thống là nói đến phức hợp những tư
tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí
của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [3, tr. 16-19].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất,
truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ đời này qua đời khác, nó
đứng vững được trong thời gian và có thể đương đầu với những biến động của lịch sử.
Hơn nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo ra sức mạnh, sản sinh ra các giá trị mới,
đem lại lợi ích cho con người.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi là "truyền thống"
nhưng không đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự phát triển đây là
nghĩa thứ hai, nghĩa tiêu cực của phạm trù này. Trong cuốn Ngày mười tám tháng
Sương mù của Louis Bonaparte, C.Mác viết rằng: "Truyền thống của tất cả các thế hệ đã
chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống". Còn Hồ Chí Minh,

trong bài "Đạo đức cách mạng" (tháng 12-1958) cũng đã viết: "Thói quen và truyền
thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta
lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của đời
sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng ta. Tóm
lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là

những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người
với con người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị đạo đức sinh
thái). Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói
riêng là sự kế thừa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương
con người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó Những đức tính đó
đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời
nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến
truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt
đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn phát huy
phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.
Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta được cô đúc,
được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng trầm của
lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh
vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị

đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong
quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn
có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo.
1.1.2. Nội dung cơ bản của một số giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam

Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành,
lắng đọng và phát triển qua hàng mấy nghìn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên
cường của cả dân tộc. Là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan
và yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa Đông Nam á, với địa hình chạy dài theo
bờ biển và tiếp nối giữa ba vùng: miền núi, đồng bằng, bờ biển. Khí hậu nhiệt đới gió
mùa nóng ẩm và mưa nhiều, giàu tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện thuận lợi và
cũng không ít khó khăn cho nghề trồng lúa nước.
Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hẹp lại phải trải qua rất nhiều
cuộc đấu tranh chống ách đô hộ, chống kẻ thù từ bên ngoài mà thường là những kẻ thù
hùng mạnh hơn ta gấp bội phần. Vì lẽ đó người dân Việt Nam luôn luôn tập hợp lại
thành một khối đại đoàn kết, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và mở mang bờ cõi.
Chính trong quá trình ấy, văn hóa Việt Nam đã có dịp giao lưu với văn hóa
bên ngoài, trong đó văn hóa phương Đông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn hóa tín
ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là tư tưởng Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu và đã đi sâu vào đời sống tín ngưỡng
người dân Việt Nam.
Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, yêu thương chúng
sinh. Phật giáo cho rằng, có một thế giới vĩnh hằng, tồn tại tích cực siêu việt, đó là cõi
"niết bàn", nhưng muốn đến được nơi cực lạc đó thì con người phải sống từ bi, ăn
hiền, ở lành, xa lánh mọi ham muốn vật chất, mọi thú vui hưởng lạc, sống không tranh
giành, yêu thương nhau. Đương nhiên, tư tưởng này vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến những truyền thống vốn có của ta, làm
sâu đậm thêm truyền thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc Việt Nam.


Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con người, là
một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người khởi xướng) đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam. Những nội dung tư tưởng
của Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam cương; ngũ thường cũng dần thấm sâu
vào đời sống, trở thành lối sống, cách ứng xử ở đời của người Việt Nam và được Việt
hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống vốn
có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn kết thân ái, gắn bó và
tinh thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà còn có
sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào
lưu văn hóa, tôn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được nhân dân Việt Nam kế thừa
có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng đặc trưng cho mình, nhưng cái riêng đó
nó vẫn luôn ẩn chứa cái chung tạo nên sự tương đồng trong việc hình thành nên các
giá trị đạo đức của các dân tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương diện
nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập mà không hòa
tan, không đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự
cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ

quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù
sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc,
vì hạnh phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối

sống [10, tr. 10-11].
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam, đã
có rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng
tạo; trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc
[25, tr. 74-86].
Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta với bảy
nội dung như sau: "Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa" [22, tr. 108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như
thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động " [15, tr. 19].
Trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Con người Việt Nam -
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07) đã khẳng định: Cốt lõi
của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con người Việt Nam bao
gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người

Tuy còn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức.
Nhưng nhìn chung, các quan điểm các ý kiến đều thống nhất cao độ ở một điểm coi
chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại" [20, tr. 100], là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [22,
tr. 94], là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao
nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta" [48, tr. 74].
Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm yêu quê hương đất nước
mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình
cảm hết sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo sơn. Mỗi
người dân Việt Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có giặc ngoại xâm,

sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hòa bình biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương
đất nước. Lòng yêu nước của dân tộc ta đã trở thành triết lý sống, triết lý nhân sinh,
trở thành chủ nghĩa yêu nước. GS. Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là
sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi
người đối với quê hương mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ
của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây
dựng và bảo vệ nước nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn bó
con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống
yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương làng xóm,
yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái,
bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người hàng ngày vất vả chiến
đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm. Vì
vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cho

dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất, "thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái
trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "còn cái lai quần cũng đánh". Chính vì vậy mà trải qua
hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn
bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Kiên quyết chống lại
chính sách đô hộ của ngoại bang, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn
cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam không hề giảm sút mà nó luôn luôn
được hun đúc, âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân nước Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ thuở vua Hùng
dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000 năm đấu tranh
giành độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến thắng giòn giã,
đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc ta liên tiếp đánh tan
quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh Đến thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc:

từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, chúng ta đã đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp,
Mỹ. Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối, nước nhà hoàn toàn độc lập. Tại Đại hội
lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (11-2-1951), Bác Hồ nói: Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử thách và
được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua
từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững nhất của
dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam thể hiện trong
xây dựng đất nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào

khả năng, sức mạnh tự lực tự cường của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại
Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng:
sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc
của nhân dân
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái - yêu thương con người là
một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền thống ấy có nguồn
gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng cố và phát triển qua quá
trình chung lưng, đấu cật khai phá giang sơn, giữ gìn đất nước. Tấm lòng nhân nghĩa,
nhân ái đó chính là cơ sở cho cách xử thế ở đời của người Việt Nam, là triết lý sống
của dân tộc Việt Nam. Hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn
mà không hề tính toán, lên án mạnh mẽ những kẻ tàn ác "táng tận lương tâm", "phụ
tình bạc nghĩa".
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn tình yêu quê
hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy, người Việt Nam

luôn xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người yêu dân gắn bó chặt chẽ
với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn đứng trước nguy cơ bị
xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với
vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao
thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng biết lập công
chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn,
lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể
hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy tình yêu thương làm cách xử
thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang

Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn
quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng
thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập dân
tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: "Bác ơi tim Bác mênh
mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người". Lòng nhân ái của Người đã trở thành sức
mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân
dân. Bác xem họ như là những đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang. Bác nói: Giống
như bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay.
Trong mấy chục triệu người, có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là
dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng
năm, Đảng và Nhà nước thường có những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt,
điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại của Đảng:
"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển". Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu
chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng

giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung
đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống nước nhớ
nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương
binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa. Phát động
phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút ngắn
khoảng cách thành thị - nông thôn miền xuôi - miền ngược Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định: Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết
tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương
nước - thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân
ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn
năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân
dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, truyền thống này chính là nguồn gốc sâu xa
nhất, bền chặt nhất của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực
chứ không phải chủ nghĩa nhân đạo chung chung trừu tượng phi hiện thực, phi lịch sử,
phi giai cấp của các giáo lý tôn giáo hay theo cách hiểu của Phoiơbắc.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một giá trị đạo đức có
từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong điều kiện,
hoàn cảnh tự nhiên xã hội không ít những khó khăn khắc nghiệt ngay từ những buổi
đầu dựng nước và giữ nước.
Về tự nhiên: liên tục xảy ra bão lụt hạn hán, về xã hội: liên tục chiến tranh
chống giặc ngoại xâm. Nhưng, trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, những người
dân Việt Nam vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa đánh giặc để tồn tại và
bảo vệ đất nước. Sống trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ như vậy, nhưng nhờ có đức
tính cần cù và tiết kiệm, mà nhân dân ta đã vượt qua, để từng bước tự khẳng định mình
trên con đường phát triển của dân tộc.

Để có bát cơm thơm dẻo, người nông dân đã phải một nắng hai sương "bán
mặt cho đất bán lưng cho trời", hình ảnh người nông dân trong những câu ca dao dân
ca Việt Nam còn đó: "Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi

bừa". Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý trọng thành quả lao động của con
người: "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần
mà không kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống". Nên ông cha
ta thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất bát lấy
ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm,
chính, so sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, nếu thiếu một đức thì không
thành người:
Trời có bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc;
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất;
Thiếu một đức thì không thành người [47, tr. 631].
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ, cần, kiệm, liêm,
chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất,
trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua

rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà
máy xí nghiệp, trong nhà trường
Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền thống cần cù sáng tạo
càng được phát huy cao độ.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hòa vào dòng chảy của chủ

nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh
thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong việc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước
có giặc ngoại xâm. Từ cách lý giải sự ra đời của dân tộc Việt Nam trong truyền thuyết
"Trăm trứng nở trăm con". Đây chính là sự khẳng định truyền thống đoàn kết anh em
giữa các dân tộc.
Cách dùng từ "đồng bào"- một từ Hán, nhưng chỉ có người Việt Nam sử dụng
để chỉ mối thâm tình "gà cùng một mẹ", cho đến lịch sử hình thành của một dân tộc
Việt Nam: theo lời gọi của tiếng trống Hùng Vương mà mười lăm bộ lạc hợp thành
một quốc gia Văn Lang thống nhất.
Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống chính
sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế lực phong kiến.
Từ chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" của bọn phong kiến phương Bắc
đến chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ đều lần lượt bị thất bại
trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta.

ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần vững
chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xưa Nguyễn Trãi nói: "Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" để chỉ sức
mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển. Lúc
sinh thời Bác Hồ từng nói: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu
cũng xong. Và: "Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm
không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi" [46, tr. 258]. Người
còn khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành
công". Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn các cán bộ, đảng viên: "Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình" (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969).

Truyền thống giáo dục - hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ
nhiều thế hệ. Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong lời ru của
mẹ:
"Qua sông phải bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy".
Câu hát ru đó đã thể hiện truyền thống "Tôn sư trọng giáo" của người Việt
Nam.
Truyền thống "Tôn sư trọng giáo" là một nội dung trong học thuyết của Khổng
Tử, khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người Việt Nam. Học trò

×