Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

LUẬN văn phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ việt nam hiện nay qua thực tế ở tỉnh v

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.95 KB, 129 trang )

1

LUẬN VĂN-Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam
hiện nay qua thực tế ở tỉnh Vĩnh Phúc

Mục lục

Trang
Mở đầu
Chương 1: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc

1
6

với việc xây dựng đạo đức mới của
người phụ nữ hiện nay
1.1 Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và giá trị đạo

6

.
đức truyền thống phụ nữ
1.2 Nội dung, yêu cầu của việc phát huy giá trị đạo đức

17

.

truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức
mới của người phụ nữ hiện nay


Chương 2: Phát huy giá trị đạo đức truyền thống

37

dân tộc trong việc xây dựng đạo đức
mới của người phụ nữ hiện nay. Thực
trạng, phương hướng và giải pháp. (qua
thực tế ở tỉnh Vĩnh Phúc)
2.1 Thực trạng và một số vấn đề nảy sinh trong việc phát
.

huy giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ

37


2

Vĩnh Phúc hiện nay
2.2 Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
.

58

phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện
nay
Kết luận
danh mục Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Mở đầu

79
81
88


3

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ Việt Nam là một lực lượng có vai trị quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng và trong sản xuất. Với tinh thần yêu
nước sâu sắc, phụ nữ Việt Nam đã dũng cảm tham gia vào các
phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
chính mình. Ngày nay, trong khơng khí sơi động của sự nghiệp đổi
mới tồn diện đất nước, phụ nữ Việt Nam phát huy truyền thống
dân tộc, truyền thống phụ nữ hăng hái tham gia vào các hoạt động
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Q trình đó
cùng với đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển
từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế
tham gia hoạt động. Cơ chế kinh tế mới đã làm cho mọi hoạt động
của người dân Việt Nam nói chung, phụ nữ nói riêng càng trở nên
năng động, sáng tạo hơn, đồng thời ở họ từng bước hình thành
những chuẩn mực, những quan hệ đạo đức mới trong xã hội.
Qua 15 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc
phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, đời sống
của nhân dân từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, trên bước

đường thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực
và quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt
trái của nó đã tác động đến các tầng lớp xã hội, trong đó có phụ


4

nữ. Vấn đề việc làm, sự nghèo đói, các tệ nạn xã hội có xu hướng
gia tăng, nạn mại dâm, ma túy, hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ
đang là những vấn đề bức bách; những giá trị đạo đức truyền
thống ít được chú trọng, có nơi, có lúc còn bị mai một. Trong xã
hội xuất hiện những thái độ, hành vi đạo đức không lành mạnh
trong các quan hệ xã hội, một bộ phận người dân nói chung, phụ
nữ nói riêng suy thối về phẩm chất đạo đức, lối sống. Tình trạng
đó lan tràn ở nhiều nơi, ảnh hưởng tới đạo đức người phụ nữ. Do
vậy, việc kế thừa, giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc nói chung, truyền thống phụ nữ nói riêng trong việc
xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ là cơng việc rất cần thiết
và cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc từ trước
tới nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu như: "Giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam" của GS Trần Văn Giàu (Nxb Khoa
học xã hội, 1980); "Tìm hiểu tính cách dân tộc" của GS Nguyễn
Hồng Phong (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963). Trong các
cơng trình nghiên cứu đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc được hình thành trong lịch sử và
vận động tới ngày nay.
Giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ là một bộ phận của giá

trị đạo đức truyền thống dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu về truyền


5

thống đạo đức của phụ nữ GS Trần Quốc Vượng đã có cơng trình
nghiên cứu "Truyền thống phụ nữ Việt Nam" do Nxb Văn hóa dân tộc phát hành năm 2000. Ngồi ra cịn có nhiều bài báo, tạp
chí nghiên cứu về truyền thống đạo đức người phụ nữ.
Trước những đổi thay không ngừng của đất nước, nhiều
chuẩn mực đạo đức mới ra đời, nhưng cũng nhiều giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc bị mai một, suy thối. Vì vậy, việc nghiên
cứu, xác định các giá trị đạo đức truyền thống cần được kế thừa,
phát huy trong điều kiện mới có nhiều cơng trình khoa học nghiên
cứu như: Hội nghị khoa học "Giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam"
do Viện Mác - Lênin và Tạp chí Cộng sản tổ chức năm 1982 được
in trong hai tập sách có tên "Về giá trị văn hóa tinh thần Việt
Nam" do Nhà xuất bản Thông tin lý luận ấn hành năm 1983. Cơng
trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước "Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07)
trong đó có kết quả của đề tài "Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay" (KX-07-02) khẳng định các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cần được phát huy trong giai đoạn cách
mạng mới.
Cùng với việc nghiên cứu các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc có nhiều cơng trình nghiên cứu về đạo đức như "Đạo đức
mới" của GS Vũ Khiêu (Nxb Khoa học xã hội, 1974); "Chủ động
và tích cực xây dựng đạo đức mới" của GS Tương Lai (Nxb Sự
thật, 1983), và Hội nghị khoa học "Về việc nghiên cứu những vấn


6


đề đạo đức trong thời kỳ quá độ" do Ban Đạo đức học - Viện Triết
học và ủy ban Khoa học xã hội nhân văn tổ chức năm 1983, với
các chủ đề: Phụ nữ và vấn đề hình thành đạo đức mới, văn hóa đạo
đức và vấn đề giáo dục con người mới, truyền thống và hiện đại
trên lĩnh vực đạo đức...
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng tải trên các báo, tạp
chí Trung ương và địa phương đề cập đến vấn đề kế thừa, phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc như "Giá trị truyền thống
- nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân
tộc" của PGS Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học, số 4, 1998);
"Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay và
việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ" của PGS Nguyễn
Chí Mỳ và Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Cộng sản, số 15, 1998)...;
một số cơng trình nghiên cứu của cá nhân như "Kế thừa giá trị
đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện
nay" (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Minh Hiệp, 2000). Các bài viết
về vấn đề phẩm chất đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay như
"Phụ nữ Việt Nam với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" của Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng sản, số 20, 1996;
"Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI" của GS Lê Thi (Tạp chí
Cộng sản, số 20, 2000)...
Như vậy, vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc, truyền thống phụ nữ, vấn đề đạo đức mới của tồn
dân nói chung, phụ nữ nói riêng đã được nhiều người, nhiều nhà


7

khoa học quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào

nghiên cứu về vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt
Nam hiện nay qua thực tế ở tỉnh Vĩnh Phúc, vì vậy, tác giả mong
muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề đặt ra trong luận văn.
3. Mục đích của luận văn
Từ những nội dung, yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới
của người phụ nữ hiện nay; qua tìm hiểu thực trạng và một số vấn
đề nảy sinh trong việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên luận văn phải giải
quyết ba nhiệm vụ, đó là:
- Chỉ ra được những nhân tố tác động tới đạo đức người phụ
nữ hiện nay.
- Xác định được các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cần phát huy; những yêu cầu, nội dung của các chuẩn mực đạo
đức mới của người phụ nữ trong giai đoạn phát triển hiện nay của
đất nước.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm
phát huy hơn nữa giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc
xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay ở nước ta.


8

4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức truyền
thống phụ nữ cần được kế thừa, phát huy ở đây về mặt tích cực.
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những nhân tố ảnh

hưởng đến đạo đức của người phụ nữ hiện nay, được nảy sinh từ
khi Đảng ta chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
(1986), qua khảo sát thực tế tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vấn
đề xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ.
Phương pháp chủ yếu để thực hiện luận văn này là tổng hợp
các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu là phương
pháp lịch sử - lơgíc, phân tích - tổng hợp, trừu tượng - cụ thể.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học
để so sánh đối chiếu, sử dụng những số liệu của Đảng, Nhà nước
và của tỉnh Vĩnh Phúc đã được công bố.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn xác định được những giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cần phát huy đối với người phụ nữ Việt Nam; những yêu


9

cầu, nội dung cơ bản về chuẩn mực đạo đức mới của người phụ nữ
Việt Nam trong tình hình hiện nay.
Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản
nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây
dựng đạo đức mới của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Luận văn góp phần vào việc nhận thức vai trò lâu dài của
việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, truyền
thống phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện

nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập về giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc, truyền thống phụ nữ, về đạo đức mới của người phụ nữ trong
trường Đảng và các trường học ở Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn được trình bày trong hai chương, bốn tiết.


10

Chương 1
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc
xây dựng đạo đức mới của người phụ nữ hiện nay

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và giá trị đạo
đức truyền thống phụ nữ
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Giá trị là khái niệm trung tâm của giá trị học với tính cách là
một khoa học và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa
học xã hội và khoa học nhân văn như triết học, tâm lý học, đạo
đức học, xã hội học, kinh tế học... với những nội dung rộng hẹp,
cụ thể khác nhau.
Giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh
thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu tích cực của con người, là
những thành tựu góp phần vào sự phát triển xã hội, phục vụ cho
lợi ích và hạnh phúc của con người.
Giá trị có vai trị quan trọng trong cuộc sống con người. Nó
là cơ sở để con người căn cứ vào đó mà xác định mục đích,

phương hướng sống cho hoạt động của mình. Vì vậy, "nói đến giá
trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là
đã bao hàm cả quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt,
cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người
hành động và nỗ lực vươn tới" [7, tr. 16]. Như vậy, có những giá


11

trị chung tồn nhân loại, cũng có giá trị lâu bền được kế thừa qua
nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có những giá trị
có phạm vi ảnh hưởng và thời gian tồn tại ít hơn. Có những giá trị
sẽ mất đi hoặc mờ nhạt dần khi hồn cảnh lịch sử thay đổi và có
những giá trị mới được hình thành. Những giá trị chung, phổ biến
được coi như phương tiện cơ bản tạo nên sự liên kết các thành
viên trong cộng đồng.
Trong việc nghiên cứu giá trị, ở cấp độ chung nhất giá trị
được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần
được chia thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị
đạo đức, giá trị chính trị, giá trị thẩm mỹ... Giá trị đạo đức được
hình thành từ trong lịch sử và trường tồn đến hiện đại, tạo thành
giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền
thống của mình do lịch sử để lại. Truyền thống dân tộc là những
đức tính, những lề thói, phong tục đã trở nên ổn định được đông
đảo thừa nhận và đã ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội, được nối
dài theo nhiều thế hệ, qua nhiều đời của dân tộc. Từng dân tộc
khác nhau có truyền thống khác nhau, "giá trị truyền thống dân tộc
được cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển của dân tộc... cho nên có thể nói, giá trị truyền thống là cái
thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa

dân tộc" [39, tr. 9].


12

Dân tộc Việt Nam với các điều kiện địa lý, mơi trường, lịch
sử và xã hội đã hình thành nên những nét giá trị truyền thống
riêng.
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam, nó là một dịng chảy liên tục nảy
sinh, phát triển trong suốt tiến trình dựng nước, giữ nước của cha
ơng ta, và được tích lũy, lưu truyền, chắt lọc, chuyển giao, tiếp nối
từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời này qua đời khác. Giá trị đạo
đức truyền thống là cái tồn tại mãi mãi với dân tộc "sau tất cả
những gì đã mất đi trong quá trình vận động" [46, tr. 103].
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc đã được nhiều người, nhiều nhà khoa học
quan tâm.
GS Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng
tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa [25, tr. 94].
GS Vũ Khiêu đưa ra quan điểm, trong những truyền thống
quý báu của dân tộc, nổi bật nhất là truyền thống đạo đức và
khẳng định, truyền thống đạo đức của dân tộc ta bao gồm: lịng
u nước; truyền thống đồn kết; lao động cần cù và sáng tạo; tinh
thần nhân đạo lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của
dân tộc [42, tr. 74-86].



13

Kết quả nghiên cứu của Chương trình Khoa học cơng nghệ
cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam - và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội" (KX-07) cũng khẳng định: cốt lõi của các giá
trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất, nhân cách con người Việt
Nam bao gồm: tinh thần u nước, vì nghĩa, lịng thương người [8,
tr. 32-34].
Những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề
cập đến trong một số Văn kiện của Đảng và các tác phẩm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay khẳng định: "Những
giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là
lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc. Đạo lý
"thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó,
sáng tạo trong lao động" [14, tr. 19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
có viết:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái;
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng


14


tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị
trong lối sống... [16, tr. 56].
Từ cách tiếp cận về giá trị, giá trị đạo đức truyền thống và
từ quan điểm của Đảng ta cũng như của các nhà khoa học, có thể
khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta
bao gồm:
- Chủ nghĩa u nước.
- Lịng thương người.
- Tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc.
- Cần cù, tiết kiệm.
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc,
chủ nghĩa yêu nước là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống
dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo
đức của dân tộc ta" [42, tr. 74]. Chủ nghĩa yêu nước là tình u đối
với đất nước, lịng trung thành với Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng
và hành động tích cực để phục vụ và đem lại lợi ích cho Tổ quốc
và nhân dân. Nó trở thành một giá trị, một động lực tinh thần vô
cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao thế hệ kiên cường, anh dũng hy
sinh để giành lại và giữ gìn nền độc lập Tổ quốc, bảo vệ những
phẩm giá của chính con người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
không chỉ là một giá trị mà nó cịn là cội nguồn, là cơ sở của các
giá trị khác, nhất là các giá trị văn hóa.
Yêu nước là giá trị hàng đầu của mỗi con người Việt Nam,
nó là thước đo giá trị nhân phẩm của con người, chi phối mỗi


15

người trong suy nghĩ và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định:

Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước [60, tr. 171].
Lịch sử Việt Nam là lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy,
yêu nước đối với nhân dân ta trước hết là chăm lo xây dựng đất
nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa để tạo sức mạnh bên
trong bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được thể hiện cụ thể ở lịng
dũng cảm và ý chí bất khuất, đó là chủ nghĩa anh hùng. Là những
người hết mực yêu hịa bình, u tự do, nên khi bờ cõi bị xâm
chiếm, nhân dân bị nô lệ, người Việt Nam "thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"
[59, tr. 480]. Chủ nghĩa yêu nước là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ
lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [25, tr. 100], nó trở thành
đạo lý và lẽ sống của mỗi người được sinh ra và lớn lên trên đất
nước Việt Nam.
Truyền thống yêu nước của người Việt Nam ln gắn bó
chặt chẽ với lịng thương u và q trọng con người, nhất là
người lao động.


16

Lòng thương người của dân tộc ta thấm đượm trong các mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trong làng xóm và
trong cả cộng đồng dân tộc. Người Việt coi trọng tình nghĩa hơn lễ
nghĩa. Tình ở đây là tình cảm sâu sắc "máu chảy ruột mềm",

thương nhau giữa những người trong một nước. Nghĩa ở đây là
trách nhiệm của mỗi người trước sự sống còn của đất nước, tình
nghĩa ở đây cũng là thái độ thủy chung trong tình yêu, tình bạn. Vì
vậy, mà trong lịch sử dân tộc, những tấm gương vì nghĩa được
ngợi ca, cịn những hiện tượng "vơ nhân đạo", "phụ tình bạc
nghĩa" thường bị dư luận xã hội lên án phản đối. Cũng với tình
nghĩa ấy, dân tộc ta cịn có thái độ nhân đạo khoan dung đối với cả
quân thù, khi chúng đã hạ súng, bại trận thì "cấp ngựa cấp thuyền"
cho lui về nước. Tinh thần nhân ái trong truyền thống của dân tộc
ta cũng khơng hồn tồn giống với nội dung "nhân", "nghĩa" của
Nho giáo, chữ "nhân", "nghĩa" đó thơng qua lăng kính nhân sinh
quan của người Việt đã mang một nội dung mới, nó khơng cịn giữ
ngun nghĩa như quan niệm của Khổng giáo; nó cũng khác với
quan niệm "từ ", "bi" của Phật giáo hướng con người đi tu hành để
mong giải thoát khỏi "bể khổ" nơi trần thế.
Lòng thương người là một trong những truyền thống rất
đáng tự hào của dân tộc ta, truyền thống này đã được Đảng ta
khẳng định:
Người Việt Nam vẫn có lịng u nước thiết tha, có
tinh thần dân chủ bình đẳng trong quan hệ giữa người với


17

người. "Thương nước thương nhà, thương người, thương
mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có
tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà suốt quá trình lịch
sử 4000 năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến cơng
oanh liệt. Từ ngày có Đảng dưới ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ

của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát
huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết [16, tr. 94].
Tinh thần nhân ái của dân tộc được kết tinh trong con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở Người đạo đức truyền thống và đạo đức
cách mạng được kết hợp một cách hài hịa.
Tính thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một giá trị được tạo
nên từ trong sâu thẳm văn hóa dân tộc. Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc
Long Quân đẻ ra "bọc trăm trứng" nói rất rõ tinh thần cùng chung
Tổ quốc và tình đồng bào. Trong lịch sử dựng xây đất nước, người
Việt đã phải chung lưng đấu cật, tương trợ hợp tác, giúp đỡ nhau
tạo ra sức mạnh vật chất phi thường chiến thắng thiên tai. Chính từ
thực tế các cuộc đấu tranh với thiên tai và chống giặc ngoại xâm,
cha ơng ta đã nhận thấy rằng "đồn kết thì sống, chia rẽ thì chết",
và "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao".
Cho nên, có thể nói, tinh thần đồn kết là nguồn sức mạnh lớn lao
giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thiên
nhiên và đánh thắng mọi thế lực xâm lược.


18

Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng bắt nguồn từ chủ
nghĩa yêu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, là động
lực mạnh mẽ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta", Người căn dặn mỗi cán
bộ đảng viên "... cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [63, tr. 510]. Tinh thần đồn
kết cộng đồng là nét quan trọng trong ý thức và tâm hồn của người
Việt Nam. Những lễ hội truyền thống với niềm hân hoan và sự

đồng cảm được tổ chức hàng năm lại thắt chặt thêm mối quan hệ
cộng đồng. Cộng đồng là điểm tựa của người Việt Nam trong cuộc
sống hàng ngày, trong hịa bình và trong chiến tranh.
Cần cù và tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc ta, nó được hình thành do điều kiện sản xuất và đấu tranh
xã hội trong lịch sử dân tộc. Nó thể hiện ý thức trách nhiệm của
mỗi người trong cuộc sống, trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Cần cù gắn liền với tiết kiệm, cần mà khơng kiệm thì cuộc sống
trở nên "ăn xổi", bấp bênh. Kiệm mà khơng cần thì khơng có gì để
kiệm. Do đó, trong cuộc sống phải biết khéo léo lo toan, sắp xếp
hợp lý, tránh những lãng phí khơng cần thiết. Chính với truyền
thống cần cù và tiết kiệm ấy, cha ông ta đã phát huy được sức
mạnh của mình trong những cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại và
đã đạt được những thành quả to lớn để lại cho chúng ta ngày nay.


19

Ngoài những giá trị chủ yếu trên, trong hệ thống giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cịn có những đức tính phổ biến như lịng
dũng cảm, tính khiêm tốn, trung thực, giản dị, lạc quan... Nhờ có
những phẩm chất đó, dân tộc ta mới dám đương đầu và đã giành
thắng lợi với mọi thiên tai, địch họa nhiều khi tưởng không vượt
qua nổi. Người Việt Nam khiêm tốn nhưng khơng hạ thấp mình;
giản dị nên khơng ưa cầu kỳ, phơ trương hình thức; trung thực nên
ghét những sự thay lòng đổi dạ; lạc quan và niềm tin đã giúp dân
tộc ta đứng vững, tồn tại được trước những thử thách gian nguy
của lịch sử để phát triển.
Các giá trị đạo đức truyền thống đã thấm sâu vào đời sống
tinh thần của cả dân tộc qua các thế hệ và chính chúng đã làm nên

sức mạnh Việt Nam suốt nhiều thế kỷ, tạo nên dáng vóc Việt Nam
với bản sắc riêng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát
huy hơn nữa những giá trị đạo đức mà cha ông ta đã tạo nên trong
lịch sử.
1.1.2. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc ở đạo đức truyền thống của phụ nữ
Truyền thống đạo đức phụ nữ là một bộ phận hữu cơ của
truyền thống đạo đức dân tộc, truyền thống ấy đã được Bác Hồ
viết trong thư gửi phụ nữ toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm
ngày phụ nữ Quốc tế: "Phụ nữ Việt Nam ta sẵn có truyền thống
đấu tranh anh dũng và lao động cần cù" [61, tr. 85].


20

Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII năm
1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng khẳng định:
Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được
hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lịng u
nước, tình nhân ái, đức hy sinh, trí thơng minh, tiêu biểu
cho nhân cách Việt Nam. Tám chữ vàng "Anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang" mà Bác Hồ kính yêu và nhân
dân trao tặng phụ nữ nước ta, chính là sự đúc kết một
cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp đó
[88, tr. 90-91].
Từ cách tiếp cận về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở
phần trước và từ những nhận định trên về truyền thống đạo đức
phụ nữ Việt Nam. Có thể rút ra những nét tiêu biểu của giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc biểu hiện ở phụ nữ Việt Nam là:
- Yêu nước, anh hùng, bất khuất.

- Đảm đang.
- Yêu thương chồng con.
- Phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc.
- Trung hậu.
Truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc được Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu lên vị trí hàng đầu những giá trị đạo đức cao
cả của người phụ nữ Việt Nam. Hai Bà Trưng và các nữ tướng của
Hai Bà là những phụ nữ Việt Nam đã dựng nên tấm gương "anh


21

hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" ngay từ thế kỷ đầu Công
nguyên. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã "có tác dụng mở
đường, đặt phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
về sau này. Bất kỳ tình huống nào, nhân dân ta quyết giành độc lập
hoàn toàn. Nó là một biểu hiện của sức sống mãnh liệt của dân tộc,
và đã góp phần chỉ rõ con đường sống và tiến bộ của dân tộc ta"
[86, tr. 60]. Tiếp nối gương Hai Bà, những người phụ nữ như bà
Triệu Thị Trinh, Bùi Thị Xuân, bà Ba Cai Vàng, Nguyễn Thị Minh
Khai... mãi mãi ghi tên trong sử xanh dân tộc.
Trong kháng chiến chống Mỹ phát huy truyền thống yêu
nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã kiên cường, anh dũng đấu
tranh với kẻ thù trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu. ở miền Bắc,
chị em hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đóng
góp cao nhất sức người, sức của để xây dựng và bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, hậu phương vững chắc của miền Nam. Hàng
chục nghìn phụ nữ trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên
các mặt trận theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tất cả vì
miền Nam ruột thịt". ở miền Nam, chị em phụ nữ đã đoàn kết cùng

nhau đánh địch dưới mọi hình thức: đấu tranh vũ trang, đấu tranh
chính trị, binh vận, biểu tình,... "Đội qn tóc dài" - một biểu
tượng tinh thần độc đáo đã dũng cảm, mưu trí, linh hoạt trong đấu
tranh cách mạng của phụ nữ Việt Nam. Có thể nói, phụ nữ ở hậu
phương cũng như tiền tuyến đã đóng góp to lớn vào thắng lợi vẻ
vang của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


22

Thành tích vẻ vang và phẩm chất cao đẹp của phụ nữ Việt Nam
thời kỳ này xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ khen tặng.
Phụ nữ Việt Nam khơng chỉ đánh giặc giỏi mà họ cịn rất
cần cù, đảm đang trong sản xuất, trong cơng việc gia đình và tham
gia hoạt động xã hội.
Từ xưa tới nay, phụ nữ giữ vị trí khơng thể thiếu trong gia
đình. Họ lo toan chi phí kinh tế, đảm nhận những cơng việc rất đặc
trưng của nữ giới, đó là "nữ cơng gia chánh". Trong lịch sử, phụ nữ
nước ta luôn khẳng định vai trị quan trọng và có những đóng góp
to lớn, vào quá trình phát triển của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ trẻ cũng như
già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [60, tr. 432]. Hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam đã in đậm trong lịch sử chống ngoại xâm,
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc hàng chục thế kỷ. Bên cạnh các
tướng lĩnh như Bà Trưng, Bà Triệu, đô đốc Bùi Thị Xuân... cịn có
các vị chấp chính tài ba như Thái hậu Dương Vân Nga, Nguyên
phi ỷ Lan, cô Nhu (vợ ba Đề Thám)... Tiếp bước các nữ anh hùng
dân tộc là các thế hệ phụ nữ chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Thị
Minh Khai, lãnh tụ đầu tiên của phong trào phụ nữ sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập; Hồng Ngân, Bí thư đồn phụ

nữ cứu quốc Bắc Bộ; trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là các bà
Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình và cịn
nhiều phụ nữ khác tham gia hoạt động chính trị xã hội vì sự tồn
vong và phát triển của dân tộc.


23

Cùng với những đức tính cần cù, đảm đang, phụ nữ Việt
Nam cịn có lịng u thương chồng con hết mực. Là người vợ,
người phụ nữ hết lòng yêu thương chồng, chăm lo cho chồng,
cùng chồng chia sẻ mọi công việc trong sản xuất, chăm sóc giáo
dục con cái, trong đánh giặc bảo vệ Tổ quốc và trong sinh hoạt
cộng đồng.
Trong gia đình người nơng dân Việt Nam hình ảnh vợ chồng
cùng nhau gánh vác công việc chung, được phản ánh trong các câu
ca dao về lao động sản xuất, về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày...
Dưới chế độ cũ, bao nhiêu nỗi lo chồng chất trên đôi vai
mềm mại mà vô cùng đảm đang của người mẹ, người vợ. Tuy vất
vả, nhưng người phụ nữ vẫn dịu dàng, thương yêu, thủy chung
quan tâm chăm sóc đến chồng, đến con. Sự nghèo khổ khơng làm
giảm đi tình u của người vợ đối với chồng, hình ảnh bà Tú
Xương cũng là hình ảnh của người vợ, người mẹ Việt Nam thế kỷ
XIX - XX:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng [89].
Những người phụ nữ tần tảo đó sẵn sàng hy sinh quyền lợi
riêng của mình cho gia đình. Họ chỉ mong góp phần cho sự sống
và thăng tiến của chồng con, mà khơng có u cầu cho riêng mình.
Khơng chỉ u chồng, phụ nữ Việt Nam còn là người mẹ

hiền. Là người vợ, họ thực hiện chức năng thiêng liêng của người


24

phụ nữ, là điều mà Mác - Ăngghen gọi là "Sự phân công lao động
đầu tiên là sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh
con đẻ cái" [58, tr. 104].
Trong gia đình, cùng với người chồng, người phụ nữ là
người thường xuyên trực tiếp nuôi dạy con cái, họ dịu hiền và
khéo léo. Hình ảnh người mẹ với những lời mẹ dạy có ảnh hưởng
lâu bền đối với quá trình phát triển của con cái, đặc biệt là trong
lĩnh vực thẩm mỹ, văn hóa gia đình, vai trò của người mẹ chiếm
ưu thế tuyệt đối. Người phụ nữ chính là người thầy, nhà giáo dục
đầu tiên của con cái mình.
Chính những lời dạy bảo con cái của người mẹ, những lời
ru, câu hát của các thế hệ bà mẹ Việt Nam đã góp phần quan trọng
trong việc bảo tồn và phát triển tinh hoa của nền văn hóa dân tộc.
Bà mẹ Việt Nam ni dạy các con theo tinh thần và ngôn ngữ Việt.
Từ những lời ru, tiếng nói hàng ngày, đến những câu chuyện cổ
tích phản ánh cuộc sống và tâm hồn người Việt đưa con vào giấc
ngủ, người mẹ đã truyền cho con tình yêu quê hương, đất nước,
đạo lý làm người... nền văn hóa dân tộc đã được người phụ nữ
truyền cho thế hệ mai sau một cách thường xuyên tự giác.
Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc còn thể hiện tài năng
của mình trong văn chương, học thuật nước nhà. Thế kỷ XV,
Nguyễn Thị Lộ, vợ nhà anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi là người có
tài năng văn học tuyệt vời nên được mời vào triều làm chức Lễ
nghi học sĩ. Bà Ngô Chi Lan giỏi văn chương được Lê Thánh



25

Tơng vời vào triều dạy cung nữ. Đồn Thị Điểm đã mở trường dạy
học cho Nho sinh. Hồ Xuân Hương người tài dùng thơ văn chiến
đấu chống lại lễ giáo và đạo đức phong kiến, đấu tranh cho quyền
sống và hạnh phúc của phụ nữ...
Phụ nữ Việt Nam cũng là người khai sinh, xây dựng một số
loại hình nghệ thuật dân tộc như, bà Phạm Thị Trân - bà tổ nghề
chèo, một loại hình nghệ thuật lấy tích truyện rút ra từ cuộc sống,
thể hiện sự khéo léo kết hợp giữa việc giáo dục nghệ thuật và việc
cổ vũ tinh thần chiến đấu vì độc lập dân tộc cho quân lính của bà
thời vua Đinh (thế kỷ X)...
Những phẩm chất quý báu: Anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang, thủy chung của phụ nữ Việt Nam truyền thống đã được
phụ nữ cả nước kế thừa phát huy trong thời kỳ lịch sử mới, nó là
sự biểu hiện của những giá trị đạo đức truyền thống cao quý của
dân tộc trong giới nữ. Đó là những giá trị như lịng u nước, tinh
thần đồn kết, ý thức cộng đồng, lịng thương người, cần kiệm...
vẫn luôn được các thế hệ phụ nữ kế tiếp nhau trong lịch sử trân
trọng giữ gìn, phát huy và tùy theo những hoàn cảnh lịch sử của
từng thời đại mà được phát triển, bổ sung những phẩm chất mới
làm phong phú và bền vững thêm các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc.


×