Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

LUẬN văn nâng cao hiệu quả vận động già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo tin lành trái phép ở khu vực biên giới của bộ đội biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.52 KB, 124 trang )

1

LUẬN VĂN-Nâng cao hiệu quả vận động già làng, trưởng bản
tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép ở khu vực
biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu

Mở đầu

1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, lợi dụng chính sách về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, chủ nghĩa đế quốc, các
thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm mọi cách phát tán tài liệu
phản động, xuyên tạc, bóp méo sự thật về chính sách tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta, vu cáo chính quyền đàn
áp tôn giáo, kêu gọi sự can thiệp giúp đỡ từ nước ngồi; tìm mọi
cách mua chuộc lơi kéo, dụ dỗ, kích động quần chúng lạc hậu tham
gia vào các hoạt động tơn giáo trái phép hịng tập trung lực lượng
chống đối chính quyền nhân dân, gây mất ổn định về chính trị, kinh
tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và ảnh hưởng
trực tiếp đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
Hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép diễn ra ở nhiều nơi
trên cả nước, trong đó đặc biệt là khu vực biên giới tỉnh Lai Châu.


2

Trước u cầu địi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới, những năm qua,
Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu đã triển khai nhiều biện pháp
cơng tác đấu tranh phịng, chống truyền đạo Tin lành trái phép và đã
đạt được những kết quả nhất định góp phần giữ vững an ninh chính


trị, trật tự an tồn xã hội ở khu vực biên giới. Tuy nhiên, vẫn còn
một số hạn chế, nhất là công tác vận động quần chúng phát huy vai
trị của các lực lượng tại chỗ - trong đó có đội ngũ các già làng,
trưởng bản.
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam, vai trò của
già làng, trưởng bản rất quan trọng, tiếng nói của họ có sức thuyết
phục rất lớn đối với các thành viên trong làng, bản, đôi khi chi phối
hầu hết các mặt hoạt động trong đời sống, sinh hoạt của quần chúng
nhân dân các dân tộc. Do vậy, muốn làm tốt công tác vận động quần
chúng tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép ở khu
vực biên giới được tốt, trước hết phải làm tốt công tác vận động già
làng, trưởng bản, phát huy cao nhất vai trò của họ trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội góp phần xây dựng các làng, bản ln ổn định,
vững mạnh về chính trị, văn hóa, kinh tế - xã hội tạo nên một thế
trận lịng dân có khả năng miễn dịch với âm mưu, phương thức, thủ
đoạn của các thế lực thù địch - trong đó có hoạt động truyền đạo Tin
lành trái phép.
Nghiên cứu công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng,
chống truyền đạo Tin lành trái phép ở khu vực biên giới cũng đã có


3

một số đề tài nghiên cứu ở nhiều cấp độ với cách tiếp cận khác nhau
trên một số địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên... Song, vẫn chưa có đề
tài nào tập trung nghiên cứu một đối tượng cụ thể của công tác vận
động quần chúng là già làng, trưởng bản trong phòng, chống đạo
Tin lành trái phép ở khu vực biên giới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề
tài: "Nâng cao hiệu quả vận động già làng, trưởng bản tham gia
phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép ở khu vực biên giới

của Bộ đội Biên phịng tỉnh Lai Châu" có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, trước mắt cũng như lâu dài.
2- Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả
công tác vận động già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống
truyền đạo Tin lành trái phép ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên
phòng tỉnh Lai Châu.
3- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến công tác vận
động già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin
lành trái phép ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên phòng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác vận động
già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái
phép ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận
động già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin


4

lành trái phép ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai
Châu.
4- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nội dung, phương pháp vận động già làng, trưởng bản tham
gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép của Bộ đội Biên
phòng.
- Phạm vi nghiên cứu :
Công tác vận động quần chúng đối với già làng, trưởng bản
tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép ở khu vực biên

giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu từ năm 2000 đến nay.

5- Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng tơn giáo và vai
trị của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; khảo sát điều
tra; tổng kết thực tiễn; lôgic lịch sử và phương pháp chuyên gia.


5

6- Kết cấu luận văn
Luận văn kết cấu gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục kèm theo.


6

Chương 1
cơ sở lý luận về công tác vận động
già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống
truyền đạo Tin lành trái phép của bộ đội biên phòng
1.1- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
quần chúng, và vấn đề dân tộc, tôn giáo
1.1.1- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác

quần chúng
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vai trò to lớn của quần chúng nhân dân đối với tiến trình phát triển
của xã hội - lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln khẳng
định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân cũng như công tác vận
động quần chúng nhân dân đối với cách mạng Việt Nam. Những tư
tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta được thể
hiện ở những nội dung sau:
- Vai trò quần chúng nhân dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định vai trị vơ cùng to lớn của quần chúng nhân dân đối với
cách mạng Việt Nam. Bác khẳng định: "Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng", "Nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền.
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân".
- Vai trị cơng tác vận đồng quần chúng (VĐQC): Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln nhắc nhở: "Lực lượng của nhân dân rất to lớn, việc
dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng khó, dân vận


7

khéo thì việc gì cũng thành cơng", Người cịn nói "làm việc gì cũng
phải có quần chúng, khơng có quần chúng thì khơng thể làm được...
Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc khó mấy cũng trở nên dễ
dàng và làm được tốt".
Người còn chỉ ra cách thức làm dân vận "Dân vận là vận động
tất cả lực lượng nhân dân, khơng để sót một người nào, góp thành
lực lượng tồn dân để thực hiện cơng việc nên làm những cơng việc
Chính phủ và đồn thể đã giao".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị trong ngày thành lập lực
lượng Công an nhân dân vũ trang 03/3/1959: "Công an và Bộ đội

phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và bên ngoài... là
nhiệm vụ mà quân đội và Công an phải dựa vào nhân dân mới hồn
thành tốt được... Khi tổ chức được nhân dân thì việc gì cũng làm
được".
Đảng ta ln xác định cơng tác tuyên truyền, vận động nhân
dân là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, là cơ sở xây dựng lực lượng
cách mạng; công tác dân vận là điều kiện để Đảng liên hệ với nhân
dân nhằm củng cố bản chất cách mạng của Đảng và phát huy sức
mạnh của nhân dân, là nguyên tắc, điều kiện sống còn của một
Đảng cách mạng kiểu mới. Đảng ta tập trung nỗ lực cao nhất cho
đồn kết và ln nhất qn trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng.
Đó là q trình đồn kết tồn dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân,
lợi ích dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Đảng phải dựa vào
nhân dân để làm cách mạng, giành và giữ chính quyền thì chính


8

quyền đó là của dân, do dân và vì dân. Cho nên "các cơ quan Chính
phủ từ tồn quốc đến các làng đều là đầy tớ của dân". Đảng ta ln
chăm lo đến đời sống của nhân dân, có mối liên hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân, tin tưởng vào khả năng sáng tạo và sức mạnh
của quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, đáp ứng một
phần tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân. "Phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Khi bước vào giai đoạn cách mạng XHCN, Đảng ta đã sớm
xác định đây là quá trình đấu tranh đầy gay go, phức tạp. Vì vậy
Đảng ta xác định: "Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp
với phát động một phong trào thi đua rộng lớn trong công nhân,
nông dân, tri thức và tầng lớp nhân dân khác. Từ Đại hội lần thứ VI

của Đảng (tháng 12-1986) nước ta bước vào quá trình đổi mới sâu
sắc và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Sự nghiệp đổi mới ấy, chỉ có
thể thành cơng khi nó trở thành ý chí, nguyện vọng và sự nghiệp của
tồn xã hội. Để thực hiện được điều đó "Cơng tác quần chúng phải
được tiến hành bằng sức mạnh tổng hợp của cả Đảng, chính quyền
và các đồn thể theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý".
Trong thời kỳ đổi mới, để tăng cường khối đại đoàn kết và phát
huy sức mạnh toàn dân tạo dựng phong trào cách mạng của quần
chúng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần ổn
định chính trị, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, giữ
vững định hướng XHCN, bảo vệ độc lâp và chủ quyền quốc gia. Nghị


9

quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI)
ngày 27-3-1990 về "Đổi mới cơng tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân" đã xác định:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng chính là đáp
ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hịa các lợi ích,
thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ cơng dân.
Ba là, các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng.
Bốn là, công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể.
Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì dân và do dân. Chính những ý
kiến nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng

đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua bao khó khăn thử
thách mà cơng cuộc đổi mới đạt được những thành tựu như hôm
nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành
tựu to lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, cả ở trong nước và ở nước ngoài, phát
huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của tồn thể dân tộc, vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh".
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định:
"Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều
điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ


10

sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công tác đổi
mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp
nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia".
Cơng tác vận động quần chúng có tầm quan trọng hết sức to
lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn hiện công tác vận động quần chúng là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn quân, cơ quan đoàn thể và mọi cán bộ, đảng
viên.
1.1.2- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
dân tộc và Tôn giáo
1.1.2.1- Về vấn đề dân tộc
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc cùng
sinh sống, kề vai sát cánh với nhau trong suốt quá trình dựng nước
và giữ nước. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên các địa
bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị,

kinh tế, an ninh, quốc phịng và bảo vệ mơi trường sinh thái. Đồng
bào các dân tộc nước ta có truyền thống đoàn kết lâu đời trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên
tai và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hố riêng,
góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam
thống nhất.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết


11

các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta.
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương,
chính sách với những nội dung cơ bản là: bình đẳng, đồn kết,
tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đây vừa là quan điểm vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta. Đảng ta khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ
bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng
Việt Nam.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố- hiện đại hố đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với
mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Phát triển tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và an
ninh, qc phịng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng
trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính

sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; giữ
gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân
tộc thiểu số trong sự phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế- xã hội các vùng dân tộc và
miền núi, trước hết, tập trung phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng


12

xố đói giảm nghèo, khai thác hiệu quả tiềm năng thế mạnh của
từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát
huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc,
đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp
đỡ của địa phương trong cả nước.
Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của cả
hệ thống chính trị”.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm nâng cao dân trí, cải
thiện dân sinh, tạo điều kiện cho các dân tộc và miền núi phát triển
kịp miền xuôi. Phát triển kinh tế, xố đói, giảm nghèo, nâng cao
mức sống đồng bào các dân tộc, nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc
sức khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ văn hố của đồng bào, các giá
trị, bản sắc văn hoá dân tộc được bảo tồn và phát triển.
Đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng với yêu cầu của địa phương. Giữ
vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi, kết hợp phát
triển kinh tế- xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở các địa bàn
sung yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới ngăn chặn việc lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, làm

mất ổn định xã hội. Xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận
an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, phát
huy sức mạnh tại chỗ để đạp tan mọi âm mưu phá hoại của địch,
kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn


13

giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá lại sự nghiệp
xây dựng CNXH của nước ta.
1.1.2.2- Về vấn đề tôn giáo
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, vấn đề tôn giáo đã được
Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong Nghị quyết 24/ NQ- TW
ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị là:
“Tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài, tín ngưỡng, tơn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tơn giáo có
nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới”; “Các giáo
hội và tổ chức giáo hội nào có đường hướng hành đạo gắn bó với
dân tộc, tơn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với pháp luật Nhà nước,
có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt
đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể
để cho phép hoạt động”.
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường
khối đại đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta khẳng định:
“Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác VĐQC
nhân dân, làm tốt công tác tơn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị”.


14

Làm tốt công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước đó là thực
hiện tốt cơng tác vận động đồng bào có đạo, các tín đồ, chức sắc và
các tổ chức tôn giáo hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu
nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng cuộc sống tốt
đời, đẹp đạo góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Đây là trách
nhiệm của các ngành, các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội của
Đảng và Nhà nước ta. Nhằm phát triển kinh tế- xã hội và giữ vững
an ninh chính trị ở vùng đồng bào tôn giáo, đồng thời ngăn chặn
làm thất bại những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt
động chống phá Nhà nước XHCN Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc khơng theo một tôn giáo nào của
công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy; quyền sinh hoạt
tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật, thực hiện đoàn kết đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau và trong nội bộ tôn giáo, đồn kết
đồng bào tơn giáo và khơng theo tơn giáo. Vì sự đồn dân tộc và các
tơn giáo nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đảng ta
khẳng định:
"Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào.
Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng
dân khơng ai được xâm phạm quyền tự do ấy.



15

Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo hoặc khơng có tín ngưỡng, tơn
giáo cũng như cơng dân có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau phải tôn
trọng lẫn nhau".
Đối với đạo Tin lành được Đảng và Nhà nước xác định: là
một tôn giáo; tơn trọng tự do tín ngưỡng của tín đồ Tin lành, trên cơ
sở đó đáp ứng những nhu cầu bình thường chính đáng của tín đồ.
Khơng phân biệt đối xử tín đồ đạo Tin lành với các tín đồ tơn giáo
khác trong nghĩa vụ quyền lợi của công dân, không dùng các biện
pháp hành chính để ép buộc quần chúng bỏ đạo Tin lành. Đồng thời
Đảng và Nhà nước ta cũng khẳng định:
Từng hệ phái Tin lành chỉ được xem xét cho phép hoạt động
khi có hiến chương, điều lệ, đường hướng hoạt động phù hợp với
chính sách và pháp luật, nhân vật chủ chốt theo đường hướng tiến
bộ, không mang yếu tố chính trị phản động, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật. Các hệ phái được sinh hoạt tín ngưỡng
cá nhân tại cơ sở thờ tự hợp pháp và tại gia đình theo sự hướng dẫn
và quản lý của Nhà nước tại cơ sở.
Tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đầy đủ các
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tơn
giáo và chính sách đối với đạo Tin lành. Đồng thời tổ chức thực
hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nâng
cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân và tạo điều kiện để
đồng bào theo đạo Tin lành gắn bó với cộng đồng, tham gia ngày


16


càng tốt hơn các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần tích
cực vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường công tác vận động và tạo điều kiện thuận lợi để
các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo được sinh hoạt tôn
giáo của đạo Tin lành đi vào nề nếp bình thường phù hợp với pháp
luật; động viên mọi chức sắc tín đồ sống "tốt đời, đẹp đạo", "phụng
sự thiên chúa, phục vụ tổ quốc và dân tộc". Bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và khơng tín ngưỡng, tự do theo hoặc không đạo và không
theo đạo của mọi công dân; nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo
đạo hoặc bỏ đạo; kiên quyết đấu tranh với âm mưu thủ đoạn của các
thế lực thù địch lợi dụng tơn giáo, đội lốt đạo Tin lành để kích động
lơi kéo đồng bào ta gây chia rẽ dân tộc, chống phá đất nước.
Hướng dẫn, giúp đỡ tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) và tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)
thực hiện các hoạt động tôn giáo đúng theo hiến chương, điều lệ của
giáo hội và tuân thủ quy định của pháp luật.
Đối với đồng bào ở miền núi phía Bắc mới theo đạo Tin lành
và có nhu cầu tín ngưỡng để có chủ trương phù hợp theo hướng:
Đối với bộ phận đồng bào đã có thời gian theo đạo Tin lành và
có nhu cầu tín ngưỡng thực sự, trước mắt hướng dẫn cho đồng bào
sinh hoạt tơn giáo tại gia đình, hoặc nơi nào có nhu cầu thì hướng
dẫn cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm thích hợp tại


17

bản, làng. Khi hội đủ các điều kiện thì tạo thuận lợi cho đồng bào
sinh hoạt tơn giáo bình thường theo quy định của pháp luật.

Đối với bộ phận đồng bào đã theo đạo, nay có nhu cầu trở lại
với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, cần tạo điều kiện
giúp đỡ để đồng bào thực hiện ý nguyện đó.
Thơng báo cơng khai cho đồng bào biết rõ những người đội lốt
chức sắc Tin lành để hoạt động chống phá đất nước, gây chia rẽ dân
tộc và những hành vi vi phạm pháp luật của họ, cũng như biện pháp
xử lý và chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Xử lý nghiêm
những người hoạt động truyền đạo trái pháp luật.
Cơng tác tơn giáo nói chung, trong đó cơng tác đấu tranh
phòng, chống truyền ĐTLTP là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và
phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ và biện pháp xử lý giải
quyết đúng đắn với từng vụ việc, từng đối tượng, từng địa bàn cụ
thể tránh dập khn máy móc. Đảng ta nhấn mạnh:
“Cần tăng cường cơng tác vận động tín đồ đạo Tin lành, xây
dựng cơ sở của mặt trận và các đồn thể làm nịng cốt, tranh thủ
người đứng đầu dòng họ, già làng, trưởng bản, quần chúng tiến bộ
để tạo sự ủng hộ rộng rãi đối với chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Cơng tác VĐQC phải gắn với chương trình xố đói,
giảm nghèo để nắm dân, đồng thời làm tốt công tác quản lý, ngăn
chặn và xử lý nghiêm theo pháp luật đối với các hoạt động truyền
đạo trái phép”.


18

Từ những quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về giải
quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo để giải quyết tận gốc vấn đề truyền
đạo Tin lành trái phép ở khu vực biên giới tỉnh Lai Châu. Chúng ta
phải thực hiện tốt chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng, Nhà nước
từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đồng

thời phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức đồn thể chính
quyền địa phương trong việc đấu tranh với các hoạt động trái với
điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Pháp
lệnh tín ngưỡng tơn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11, Chỉ thị số
01/2005/CT-TTg của Chính phủ và Điều 124 của Bộ luật hình sự
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2- Chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng
Chức năng của Bộ đội Biên phòng được Đảng và Nhà nước ta
xác định rõ trong Nghị quyết 11/NQ-TW ngày 8-8-1995 của Bộ
Chính trị là:
Bộ đội Biên phịng là một lực lượng vũ trang cách mạng của
Đảng và Nhà nước, là thành phần của Quân đội Nhân dân Việt Nam,
làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền và an ninh
biên giới quốc gia theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Đồng
thời là lực lượng thành viên của khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên
giới.
Nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của Bộ đội Biên phòng được
quy định trong Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ Chính trị đó là:


19

Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa vào quần chúng để thực
hiện nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân vùng
biên giới tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và
chương trình kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước tích cực xây
dựng cơ sở chính trị, xây dựng nền biên phịng tồn dân, thế trận
biên phịng tồn dân vững mạnh gắn với thế trận quốc phịng tồn
dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới.
Theo Pháp lệnh Bộ đội Biên phịng thì nhiệm vụ của Bộ đội

Biên phịng được xác định:
Bộ đội Biên phịng có nhiệm vụ tun truyền vận động nhân
dân thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước,
tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa, giáo dục, xây dựng nền biên phịng tồn dân, thế trận biên
phịng tồn dân vững mạnh trong thế trận quốc phịng tồn dân và
an ninh nhân dân ở khu vực biên giới.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng
và Nhà nước, là thành phần của quân đội nhân dân làm nòng cốt
chuyên trách quản lý, bảo vệ chính quyền an ninh biên giới quốc
gia. Chính vì vậy mà Bộ đội Biên phịng tiến hành các hoạt động để
giữ vững an ninh trật tự ở khu vực biên giới và chủ quyền lãnh thổ
quốc gia. Trong đó cơng tác đấu tranh chống truyền đạo Tin lành
trái phép ở khu vực biên giới là một nhiệm vụ không thể thiếu được
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Để đấu tranh có hiệu quả với
hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép thì chúng ta phải thực hiện


20

tốt chức năng nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Đồng thời
phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân, trong đó cơng tác vận
động già làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin
lành trái phép là hết sức cần thiết và không thể thiếu được.
1.3- Nhận thức chung về công tác vận động già làng, trưởng
bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái phép của Bộ
đội Biên phòng
1.3.1- Một số khái niệm
1.3.1.1- Truyền đạo Tin lành trái phép
- Truyền đạo:

Truyền đạo hợp pháp là khi nào người truyền đạo, tổ chức
truyền đạo, cách thức truyền đạo theo quy định của pháp luật.
Truyền đạo hợp pháp được thể hiện trên ba yếu tố: người truyền
đạo, tổ chức truyền đạo, cách thức truyền đạo. Các yếu tố này được
quy định cụ thể tại điều 11 pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo là:
"1. Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo
trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở
tôn giáo.
2. Trường hợp thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền
đạo ngoài quy định tại khoản 1 điều này phải có sự chấp thuận của
ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp huyện) nơi thực hiện".
Người truyền đạo phải là người tốt, được một tổ chức hợp
pháp đào tạo đúng quy định của Nhà nước, được Nhà nước cho


21

phép. Chức sắc tôn giáo Tin lành đi truyền đạo theo đúng quy định
của Nhà nước và trong phạm vi cho phép. Tổng hội Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin lành miền Bắc đã được
Nhà nước ta công nhận và được phép truyền đạo. Nội dung, phương
pháp truyền đạo phải theo đúng tôn giáo của mình, theo đúng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng, tơn giáo.
- Truyền đạo Tin lành trái phép:
Trái phép là trái với pháp luật hoặc là với điều mà cấp có thẩm
quyền cho phép.
Truyền đạo Tin lành trái phép còn gọi là truyền đạo Tin lành
trái pháp luật, truyền ĐTLTP là các tổ chức truyền đạo, người

truyền đạo và cách thức truyền đạo trái với các quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
Trong đó tổ chức đi truyền đạo chưa được Nhà nước công nhậ
tư cách pháp nhân để hoạt động truyền đạo.
Người đi truyền đạo ngồi cơ sở tơn giáo, chưa được uỷ ban
nhân dân các cấp huyện cho phép hoặc là người không được tổ chức
truyền đạo hợp pháp phái đi truyền đạo. Những người chỉ hoạt động
tôn giáo thuần tuý tiến hành truyền đạo nhằm mục đích thu lời cá
nhân, có động cơ chính trị xấu và tự phong chức sắc trong tôn giáo
là những người truyền đạo trái phép.
Nội dung, cách thưc truyền đạo không đúng quy định lừa bịp
quần chúng nhân dân theo đạo.


22

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
chỉ thị, nghị định, pháp lệnh về tín ngưỡng, tơn giáo và hoạt động
tơn giáo trong đó bao gồm cả hành đạo, quản đạo và truyền đạo.
Đảng và Nhà nước ta không cấm truyền đạo nhưng truyền đạo phải
đúng với quy định của Hiến pháp và pháp luật, không được truyền
đạo trái phép. Đảng ta chỉ rõ:
“Nghiêm cấm việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tơn
giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia”.
Tại điều 8 Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo quy định:
"1. Khơng được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo;
vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân.
2. Khơng được lợi dụng quyền tín ngưỡng, tơn giáo để phá

hoại hịa bình, độc lập, thống nhất đất nước; khích động bạo lực
hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính
sách của Nhà nước; gây rối trật tự cơng cộng, xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản
trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị
đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác".
1.3.1.2- Già làng, trưởng bản
- Theo từ điển tiếng Việt:
Già làng là người cao tuổi ở trong đồng bào dân tộc ít người.
Trưởng bản là người đứng đầu một bản.


23

Theo từ điển tiếng Việt nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2002:
Già làng là người cao tuổi được dân làng cử ra để điều khiển
công việc chung ở vùng dân tộc thiểu số.
Trưởng thôn (bản) là người đứng đầu phụ trách một thơn, bản
về mặt hành chính.
Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, già làng, trưởng bản là
người có uy tín, tiếng nói và quyền lực cao nhất, thực tế trong nhiều
trường hợp có người vừa là già làng vừa được bầu làm trưởng bản.
Trong giai đoạn hiện nay tuỳ thuộc vào từng địa phương, từng
dân tộc mà đưa ra các khái niệm về già làng, trưởng bản khác nhau.
Từ thực tiễn của đề tài tôi xin đưa ra khái niệm về già làng, trưởng
bản trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số là: Già làng, trưởng bản
là người có liên hệ trực tiếp với quần chúng, được quần chúng tín
nhiệm bầu lên, có tri thức về một hay nhiều lĩnh vực, tiếng nói và
hành động của họ có khả năng tác động, chi phối, điều khiển một
bộ phận quần chúng nghe theo trong phạm vi làng, bản nhất định.

Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng:
Già làng, trưởng bản là người có liên hệ trực tiếp với quần
chúng trong làng, bản, có uy tín và phải được quần chúng tín nhiệm
bầu lên để đại diện cho họ điều hành các hoạt động chung của làng,
bản.
Già làng, trưởng bản phải có tri thức về một hay nhiều lĩnh
vực nào đó trong đời sống xã hội. Trong đời sống xã hội của đồng
bào dân tộc thiểu số ngoài những phong tục tập quán, luật tục thì già


24

làng, trưởng bản phải có những kiến thức về giao tiếp ứng xử đối
với các thành viên trong dân tộc, trong làng, bản của mình. Bên
cạnh đó, họ cịn phải có kiến thức về pháp luật, những kinh nghiệm
trong lao động sản xuất và làm kinh tế.
Già làng, trưởng bản có đủ khả năng chi phối, điều khiển một
bộ phận quần chúng nhân dân nghe theo trong phạm vi làng, bản
nhất định. Bằng uy tín, tri thức và kinh nghiệm của mình trong cuộc
sống, già làng, trưởng bản đứng lên lãnh đạo, điều hành mọi công
việc trong làng, bản của mình theo đúng phong tục tập quán và pháp
luật của Nhà nước.
Già làng, trưởng bản là người có uy tín rất lớn trong đồng bào
dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số ở KVBG
nói riêng. Chính vì vậy, khi tiến hành cơng tác VĐQC BĐBP phải
nhìn nhận đúng, tranh thủ họ, vận động họ tham gia vào các hoạt
động giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
1.3.2- Vai trò, nội dung, phương pháp, yêu cầu vận động già
làng, trưởng bản tham gia phòng, chống truyền đạo Tin lành trái
phép của Bộ đội biên phòng

1.3.2.1- Vai trò
Trong đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số, già làng,
trưởng bản thường có quan hệ đến các tổ chức dịng họ. Họ có uy
tín và chi phối ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng trong làng,
bản. Họ được suy tơn có uy tín đối với quần chúng và đứng ra duy
trì các hoạt động truyền thống của đồng bảo dân tộc thiểu số. Đặc


25

biệt là ở vùng sâu, vùng xa, ở KVBG người dân ít có quan hệ giao
lưu văn hố với xã hội bên ngồi thì già làng, trưởng bản lại càng
được quần chúng kính nể nghe theo và vai trị của họ càng lớn:
Già làng, trưởng bản là những người đứng đầu làng, bản trong
đó già làng là những người cao tuổi trong làng, bản. Họ là những
người có khả năng và được quần chúng tin tưởng nghe theo. Trưởng
bản là thành viên của bộ máy chính quyền cấp xã thực hiện nhiệm
vụ của chính quyền trong phạm vi theo cum dân cư, địa lý tự nhiên
và truyền thống của mỗi dân tộc, được quần chúng nhân dân bầu lên
để điều hành mọi hoạt động trong bản và được uỷ ban nhân dân xã
công nhận (nhiệm kỳ 2,5 năm).
Già làng, trưởng bản là người nắm và hiểu rõ những quy ước,
luật tục, phong tục lịch sử của làng, bản và pháp luật của Nhà nước.
Trong đời sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số thì
việc giải quyết mọi vấn đề xảy ra trong làng, bản phải có sự kết hợp
hài hồ giữa luật tục và pháp luật. Vì vậy, đội ngũ già làng, trưởng
bản phải là người nắm vững và hiểu sâu sắc về luật tục và pháp luật
thì mới có thể giải quyết tốt các mối quan hệ diễn ra trong đời sống
của đồng bào; trong đó:
Già làng là người có hiểu biết về phong tục, tập quán và lễ

nghi của làng, bản.
Trưởng bản là người có trình độ kiến thức về khoa học, kỹ
thuật và pháp luật, họ rất năng động, nhiệt tình trong cơng việc.


×