Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Thực trạng nghiệp vụ thị trường mở giai đoạn 2007 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.48 KB, 36 trang )

Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
MỤC LỤC
OMO : Open Market Operations – Thị trường mở.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
NHTW : Ngân hàng Trung ương.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NH : Ngân hàng.
GTCG : Giấy tờ có giá.
TD : Tín dụng.
TPKB : Tín phiếu Kho bạc.
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 1
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU
CHƯƠNG I
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng 4
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất 5
CHƯƠNG II
Bảng 2.1. Tình hình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 6 tháng
đầu năm 2011 23
Biểu đồ 2.1. Doanh số giao dịch trên thị trường mở từ 2006 - 2012 18
Biểu đồ 2.2. Diễn biến lãi suất OMO 22
Biểu đồ 2.3. Lượng tiền NHNN hút ròng 9 tuần liên tục 4/5
đến hết 1/7 /2011 24
Biểu đồ 2.4. Lãi suất và khối lượng giao dịch trong năm 2011 24
Biểu đồ 2.5. Khối lượng bơm/hút trên thị trường mở trong năm 2012 26
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 2
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
LỜI MỞ ĐẦU
፠፠፠፠፠፠፠
Những năm sau này nền kinh tế nước ta chuyển mạnh từ kế hoạch hóa sang cơ
chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự đổi mới kinh tế đòi hỏi phải


nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của các nước tiên tiến
trên thế giới. Hiện nay với nền kinh tế thị trường đang phát triển thì công cụ thị trường
mở được coi là một công cụ linh hoạt và hiệu quả nhất trong việc điều hành chính sách
tiền tệ.
Sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng đã tạo điều kiện cho ngân hàng Trung ương các nước có thể điều hành chính
sách tiền tệ của mình một cách chủ động hơn, đáp ứng sự vận động ngày càng nhanh
chóng của luồng vốn lưu chuyển trong nền kinh tế. Nghiệp vụ thị trường mở có thể
điều tiết các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ: nó là nhân tố đầu tiên có thể
làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ. Nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng
tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị
trường mở (hành động làm tăng cơ số tiền tệ) và vì thế làm tăng cung ứng tiền, giảm
lãi suất ngắn hạn. Ngược lại, việc bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở làm giảm
cơ số tiền tệ, giảm cung ứng tiền và làm tăng lãi suất ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường
mở cho tới nay mới được thực hiện ở Việt Nam do các điều kiện khách quan và chủ
quan vừa chín muồi nên còn nhiều bất cập, hạn chế nhất định. Do đó, nhu cầu đổi mới
và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên cấp bách và cần
thiết. Xuất phát từ điều đó, em đã lựa chọn đề tài "Tình hình sử dụng công cụ nghiệp
vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2007 đến nay" để
làm đề tài nghiên cứu cho Đề án môn học của mình.
Đây là một đề tài hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần
nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian và kiến thức
còn hạn chế nên không thể tránh khỏi được những sai sót và khiếm khuyết trong quá
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 3
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
trình nghiên cứu, em kính mong nhận được những lời đóng góp và sự giúp đỡ của cô
để em có được một bài viết hoàn chỉnh và tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1.1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ của ngân hàng Trung ương để tiến hành
mua hoặc bán chứng từ có giá ngắn hạn đối với tổ chức tín dụng nhưng không vì mục
đích thu được lợi nhuận, mà vì mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở vừa là nghiệp vụ của thị trường, nhưng lại
vừa là công cụ của NHTW để thực thi chính sách tiền tệ, mang lại hiệu quả cao và
hiện đang được các nước trên thế giới sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ.
1.2. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
Thông qua hoạt động mua, bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở, NHTW
đã tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các
mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính
sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
1.2.1. Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở của NHTW có khả
năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại
thông qua ảnh hưởng đến tiền gởi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là
đối tác tham gia OMO) và tiền gởi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các
khách hàng là đối tác tham gia OMO).
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
NHTW bán GTCG
Dự trữ NH giảm
Dự trữ mở rộng cho vay giảm
Khối lượng TD giảm
MS giảm
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 4
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra.
Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ
làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ

thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự
giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân
hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi
NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân
hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nó sẽ tác
động vào dự trữ của các ngân hàng ngân mại, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín
dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.2.2. Về mặt giá - Tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu
vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung
ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn
hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ
truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại
một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ
tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB tăng
NHTW bán TPKB
Dự trữ NH giảm
Đầu tư giảm
Cung của quỹ cho vay giảm
Lãi suất ngắn hạn tăng
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 5
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Lãi suất thị trường tăng
Giá TPKB giảm
Lãi suất thị trường tăng
tăng

Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu
về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ
lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ
trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời
của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD
và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân
hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn,
làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị
trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở
sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu
kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo
hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân
bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên.
Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh
tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm
xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 6
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
1.3. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1. Đối với ngân hàng trung ương
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực
thi các công cụ chính sách tiền tệ nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo
tín hiệu thị trường. Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ
gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến
thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị
trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ
thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung
ứng. Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử
dụng các công cụ mang tính trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ.

Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông
qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về
định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt.
Đặc biệt khi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thường xuyên và hiệu quả, lãi suất
thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị
trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ chính sách tiền tệ có tính chủ động
cao. Nghiệp vụ thị trường mở do NHTW chủ động khởi xướng, khác với các nghiệp
vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường do các ngân hàng có nhu cầu vay
vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có thể chủ động thực hiện nghiệp vụ
thị trường mở theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. Nghiệp vụ thị trường
mở có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời
gian giao dịch. NHTW có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở ở quy mô lớn/nhỏ
(khối lượng mua bán GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định
mua/bán GTCG.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể khắc phục được những hạn chế của các công
cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch nghiệp vụ
thị trường mở có tính hai chiều, qua đó NHTW có thể bơm thêm tiền vào lưu thông
hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi công cụ tái cấp vốn chỉ có thể bơm thêm tiền
vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể chủ
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 7
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ
quan của NHTM như trong công cụ tái cấp vốn. Qua việc tính toán và dự báo vốn
khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính xác được khối
lượng tiền cần bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông.
1.3.2. Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong cơ chế thị trường ngày càng đa
dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng cần phải chủ động và linh
hoạt hơn. Hiện nay trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn

và có kỳ hạn với thời gian dưới 12 tháng thường chiếm tỷ trọng từ 60-70%. Vì vậy,
vấn đề cấp bách hiện nay đối với các ngân hàng là làm thế nào để sử dụng vốn linh
hoạt hiệu quả và giải quyết được khó khăn tạm thời về vốn khả dụng trong thời gian
ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín
dụng.
Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán
GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. Thông qua thị trường
mở, các ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các
GTCG để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần thiết, các ngân
hàng có thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn
vốn. Các thành viên tham gia thị trường mở thường là các đối tác có độ tin cậy cao,
nên việc mua bán GTCG trên thị trường mở có độ an toàn rất cao. Bên cạnh đó, những
điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch trong nghiệp vụ thị
trường mở sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG của các ngân hàng, từ đó
cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm giảm dự trữ
không sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh
doanh của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng không chỉ đơn thuần thực hiện
các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ … mà còn sử
dụng một nguồn vốn nhất định để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các
GTCG. Nghiệp vụ thị trường mở cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh
giữa các thành viên tham gia thị trường.
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 8
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Nghiệp vụ thị trường mở do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo
các nguyên tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như dự trữ bắt buộc và cũng
không có tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân
hàng như dự trữ bắt buộc. Lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính chất thị trường
chứ không bị áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW.
Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn

tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các
ngân hàng.
1.3.3. Đối với nền kinh tế
Mặc dù thành viên của nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là các tổ chức tín
dụng, tài chính và NHTW nhưng nghiệp vụ thị trường mở cũng có vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế.
Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG trên thị trường mở, các chủ thể
của thị trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này. Điều này
góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các
trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm,
tiêu dùng của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thị trường mở có sự gắn kết chặt chẽ với các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị
trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát triển của thị trường mở tác động mạnh đến sự
hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Việt Nam phải thực hiện các cam kết yêu cầu của các tổ chức
tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế hay các quốc gia phát triển, trong đó có yêu
cầu về cải cách hệ thống ngân hàng và nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động
của NHTW. Tại các quốc gia phát triển hay các quốc gia trong khu vực Đông Nam
á đều sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ để đạt
được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, việc sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực và thế giới.
1.4. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở
1.4.1. Ngân hàng Trung ương
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 9
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Ngân hàng Trung ương tham gia thị trường mở với tư cách là người tổ chức
quản lý và điều hành hoạt động của thị trường. Với vai trò đó, NHTW soạn thảo, ban
hành quy chế hoạt động của thị trường mở, xét duyệt hồ sơ và kết nạp các thành viên
của thị trường, tổ chức các hoạt động giao dịch, mua bán GTCG trên thị trường, đảm

bảo an toàn, chính xác, đảm bảo quyền lợi cho các thành viên.
Ngoài vai trò nói trên, ngân hàng Trung ương còn tham gia thị trường với tư
cách thành viên, tức là tham gia các hoạt động giao dịch mua bán với các thành viên
còn lại của thị trường. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch mua bán của NHTW không phải
vì mục tiêu lợi nhuận, mà vì các mục tiêu của chính sách tiền tệ, chính vì vậy NHTW
hoàn toàn có thể chủ động trong khi thực hiện các nghiệp vụ giao dịch. Cần mua
GTCG để gia tăng khối tiền cung ứng, hoặc cần bán GTCG để làm giảm lượng tiền
cung ứng, NHTW đều có thể thực hiện theo ý định.
1.4.2. Đối tác của ngân hàng Trung ương
1.4.2.1. Các ngân hàng thương mại
Các NHTM là chủ thể thường xuyên và chủ yếu của thị trường mở, đồng thời là
"đối tác", là khách hàng chủ yếu của NHTW trong hoạt động giao dịch mua bán
GTCG. Có thể nói, nếu không có sự tham gia của các NHTM thì thị trường mở sẽ trở
nên vắng lặng và xơ cứng, do đó NHTW quan tâm trước hết đến đối tượng này.
Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, họ tham
gia mua bán GTCG trên thị trường mở cũng không ngoài mục tiêu đó. Chính điều này
giúp NHTW điều tiết được hành vi kinh doanh của NHTM. Việc tham gia vào thị
trường mở ngoài mục tiêu lợi nhuận, còn giúp các NHTM có thể điều hòa vốn khả
dụng một cách hợp lý nhất. Khi cần gia tăng ngân quỹ để thỏa mãn nhu cầu thanh
toán, hoặc ngược lại, làm gia tăng dự trữ thứ cấp, các NHTM đều có thể thực hiện
thuận lợi nhờ tham gia thị trường mở.
Sự tham gia của các NHTM vào thị trường mở không những làm cho thị trường
này trở nên sống động hơn, tích cực hơn, mà còn trở thành đối tác quan trọng nhất của
NHTW trong các nghiệp vụ của mình trên thị trường mở, qua đó mà tác động một
cách nhanh nhất, hiệu quả nhất theo các mục tiêu và ý định cần đạt được trong điều
hành chính sách tiền tệ.
1.4.2.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 10
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Ngoài NHTM là đối tác chủ yếu và thường xuyên của NHTW trên thị trường

mở, còn có các tổ chức tài chính phi ngân hàng, bao gồm các công ty tài chính, các
công ty cho thuê tài chính, các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, các quỹ
đầu tư Những đối tượng này tham gia hoạt động giao dịch trên thị trường mở với tư
cách là những người đầu tư và kinh doanh GTCG.
Chính nhờ tham gia thị trường mở, mà các công ty này có thể làm phong phú
thêm các danh mục đầu tư tài chính, làm thay đổi danh mục đầu tư theo hướng có lợi
nhất, tức là tìm kiếm lợi nhuận tối đa và rủi ro tối thiểu.
1.4.2.3. Các nhà giao dịch sơ cấp
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là
người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các
nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính.
Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được
thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán
GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao
dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải
sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín
phiếu kho bạc.
1.5. Hàng hóa của nghiệp vụ thị trường mở
Thông thường, NHTW các nước sử dụng nhiều loại GTCG khác nhau để giao
dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Đó là: trái phiếu, tín phiếu kho bạc (gọi chung là
chứng khoán kho bạc), tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu thời hạn
ngắn, chấp nhận (hối phiếu) của các ngân hàng, repos(hợp đồng mua lại). Tại Cộng
Hòa Liên Bang Đức, NHTW còn sử dụng các chứng khoán để niêm yết trên thị trường
chứng khoán được giao dịch trên thị trường mở. Như vậy, thị trường mở không giới
hạn cụ thể về chủng loại các GTCG giao dịch, nhưng các hàng hóa được mua bán trên
thị trường mở phải phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hoạt động của NHTW trên thị
trường này. Nghĩa là các hàng hóa đó phải có tính thanh khoản cao, sử dụng phổ biến
và giao dịch phải hết sức thuận lợi, dễ dàng, vì vậy hàng hóa của thị trường mở gồm
các loại chủ yếu sau:
1.5.1. Tín phiếu kho bạc

SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 11
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Tín phiếu kho bạc do Kho bạc Nhà nước phát hành, huy động vốn để bù đắp
thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước. Thực chất của tín phiếu kho bạc là giấy
nhận nợ của Chính phủ đối với người mua tín phiếu kho bạc, với sự cam kết mặc định
về việc hoàn trả vốn và lãi cho người sở hữu tín phiếu kho bạc.
Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các
nước vì:
• Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển hóa thành tiền.
• Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn vì thế có khả năng thỏa mãn nhu
cầu của NHTW với liều lượng khác nhau.
1.5.2. Tín phiếu Ngân hàng Trung ương
Tín phiếu NHTW do NHTW phát hành, là giấy nhận nợ của NHTW đối với
người mua tín phiếu. Tín phiếu NHTW cũng có những đặc điểm tương tự như tín
phiếu kho bạc, nhưng vì đây là loại tín phiếu do NHTW phát hành nên tín phiếu
NHTW là công cụ chủ động và linh hoạt hơn cho NHTW để điều hành chính sách tiền
tệ thông qua việc mua, bán tín phiếu này.
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi chính sách tiền tệ sẽ làm
cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên và có khả năng bị lỗ khi phát hành khối
lượng lớn, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng tín
phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ Tài chính.
1.5.3. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là một chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận số vốn
cho vay của trái chủ (người mua trái phiếu) đối với tổ chức phát hành của Chính phủ
(Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước) theo đó trái chủ sẽ được hưởng những quyền và lợi
ích hợp pháp từ tổ chức phát hành như được hoàn lại vốn khi mãn hạn, được hưởng
thu nhập cố định dưới hình thức lợi tức trái phiếu, được thế chấp cầm cố
Đây là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu
hụt ngân sách Nhà nước. Dù là chứng khoán dài hạn nhưng trái phiếu Chính phủ được
sử dụng rộng rãi trong nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn cao, khối lượng phát

hành thường lớn, tính ổn định và có khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trên thị
trường tài chính.
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 12
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
1.5.4. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Trái phiếu chính quyền địa phương do chính quyền của các đô thị lớn phát hành
để vay nợ nhằm tập trung nguồn vốn để đầu tư vào các công trình, dự án của các đô
thị. Thực chất trái phiếu chính quyền địa phương là một dạng của trái phiếu Chính
phủ, nhưng được chính quyền địa phương phát hành để phục vụ các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
1.5.5. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi do các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tài chính phi
ngân hàng phát hành để huy động vốn có thời hạn xác định với một mức lãi suất định
trước. Thực chất là giấy nhận nợ của NHTM đối với người mua chứng chỉ tiền gửi.
Đây là công cụ quan trọng để các NHTM huy động vốn trên thị trường và là công cụ
đánh giá sự thay đổi trong cơ chế quản lý của ngân hàng (chuyển từ quản lý tài sản Nợ
sang quản lý tài sản Có). Chứng chỉ tiền gửi được sử dụng khá phổ biến trên thị trường
tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không
phải rút tiền gửi trước hạn.
1.6. Phương thức giao dịch và phương thức đấu thầu trên thị trường mở
1.6.1. Các phương thức giao dịch trên thị trường mở
Tùy thuộc vào tình hình thực tế mà NHTW thực hiện một trong hai nghiệp vụ
như sau:
1.6.1.1. Giao dịch mua hoặc bán hẳn (Giao dịch không hoàn lại)
Giao dịch không hoàn lại là việc NHTW mua hoặc bán GTCG với các đối tác,
mà không có bất kỳ một cam kết nào về việc bán hoặc mua lại các chứng từ đó. Hình
thức giao dịch này được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn điều chỉnh cơ cấu
hoặc can thiệp vào thị trường để thay đổi các điều kiện tiền tệ trong dài hạn.
Giao dịch mua, bán hẳn có thể làm mất đi tính linh hoạt và uyển chuyển trong
thực thi chính sách tiền tệ vì sự di chuyển một chiều của giao dịch đó. Tuy nhiên nó

không hoàn toàn cứng nhắc, vì NHTW có thể ngay sau đó sẽ tiến hành giao dịch
ngược chiều, để lấp vào chỗ "trống" sự tác động thái quá của giao dịch lần trước.
1.6.1.2. Giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn (giao dịch có hoàn lại - REPO)
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 13
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Giao dịch có kỳ hạn là nghiệp vụ giao dịch mua hoặc bán GTCG của NHTW
với các đối tác, có kèm theo điều kiện là bên bán phải cam kết mua lại các GTCG đã
bán bằng một hợp đồng cụ thể. Phương thức giao dịch này thường được sử dụng cho
mục đích giao dịch tạm thời thông qua các hợp đồng mua lại (Repos) hoặc hợp đồng
mua lại đảo ngược. Repos được sử dụng khi NHTW thực hiện mua GTCG với thoả
thuận là sau một thời gian ngắn trong tương lai người bán sẽ mua lại các GTCG đó.
Repos đảo ngược được sử dụng khi NHTW thực hiện bán GTCG với thoả thuận người
mua sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Thông thường, Repos và Repos
đảo ngược được sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn với mục đích điều tiết vốn
khả dụng của các NHTM một cách linh hoạt. Giao dịch theo hợp đồng Repos thực chất
là một khoản cho vay của NHTW có bảo đảm bằng các GTCG có tính thị trường cao.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở
vì những lý do sau:
- Đây là công cụ hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng.
- Chi phí giao dịch thấp hơn các giao dịch mua bán hẳn.
- Thích hợp trong các trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn
hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục.
- Làm giảm thời gian thông báo, do đó giảm bớt biến động của thị trường trước
các quyết định hàng ngày của NHTW.
1.6.2. Phương thức đấu thầu của nghiệp vụ thị trường mở
Các giao dịch trên thị trường mở thường được thực hiện thông qua 2 phương
thức đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
1.6.2.1. Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu cho phép người giao dịch (người

mua hoặc người bán) đăng ký khối lượng (giá trị) GTCG sẽ mua, hoặc bán (khối
lượng dự thầu). Căn cứ vào khối lượng dự thầu của các thành viên, và khối lượng
GTCG cần bán hoặc mua trong từng đợt thông báo, để NHTW xác định khối lượng
trúng thầu cho mỗi thành viên đấu thầu theo lãi suất cố định đã được thông báo.
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 14
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số
lượng đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn
hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều
được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối
lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được
phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ
được phân bổ như sau:
Tỷ lệ % phân bổ thầu: K = A
1
n
i
i
b
=

x 100%
trong đó:
- A: khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: tổng số thành viên tham gia dự thầu
- b
i
: khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
- K: tỷ lệ % phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ K, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (T

i
)
được xác định như sau:
T
i
= K x b
i
1.6.2.2. Đấu thầu lãi suất
Đấu thầu lãi suất là phương thức đấu thầu cho phép người giao dịch (người mua
hoặc người bán) được quyền đưa ra các mức lãi suất với các khối lượng tương ứng, để
đăng ký bán hoặc mua GTCG theo thông báo của NHNN. Căn cứ vào đó, sẽ xác định
khối lượng trúng thầu với lãi suất trúng thầu được chọn, sao cho với lãi suất đó sẽ đảm
bảo khối lượng giao dịch mua bán theo yêu cầu của NHTW.
Trong đấu thầu lãi suất, cần phân biệt hai trường hợp:
- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua
GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi
suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu
tiên phân bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức
lãi suất thấp nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng
được phân phối thì quá trình phân bổ như sau:
Gọi: A: Khối lượng NHTW chào mua/chào bán
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 15
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
r
t
: Mức lãi suất thứ t được đăng ký
b(r
t
)
i

: Khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất r
t

b(r
t
): Tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất r
t

r
m
: Mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống
ngân hàng thì: r
1


r
t


r
m

Tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng K(r
m
):
K(r
m
) =
A -

1
1
( )
m
t
t
b r

=

b(r
m
)
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ K(r
m
), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i
(T
i
) tại mức lãi suất r
m
được xác định như sau:
T(r
m
)
i
=K(r
m
) x b(r
m
)

- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì
các quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và
đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã
đăng ký trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu
đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất
đạt thầu.
1.7. Mối quan hệ giữa nghiệp vụ thị trường mở với các công cụ khác của
chính sách tiền tệ
Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng nhiều công cụ đa
dạng. Chẳng hạn, tùy theo yêu cầu mở rộng hoặc thu hẹp tín dụng, NHTW có thể tăng
hoặc hạ lãi suất tái chiết khấu, hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hay mua hoặc bán các
chứng khoán có giá. Trong các công cụ đó thì nghiệp vụ thị trường mở có thể sử dụng
rất linh hoạt trong bất kỳ loại chính sách tiền tệ nào. Nó là công cụ điều tiết vĩ mô.
Nghiệp vụ thị trường mở có tác động thông qua "hiệu ứng thông báo" ít hơn
chính sách lãi suất chiết khấu và chính sách dự trữ bắt buộc. Nó tạo ra cuộc cạnh tranh
giữa các thành phần ngân hàng và thành phần không phải là ngân hàng, có khả năng
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 16
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
thanh toán, nhất là về khối lượng, có thể đạt được mục tiêu một cách vừa hữu hiệu,
vừa phù hợp với thị trường cả về xu hướng tăng hoặc giảm.
1.8. Ưu, nhược điểm của việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở
1.8.1. Ưu điểm
- Nghiệp vụ thị trường mở có tác động nhanh, chính xác và có thể được sử dụng
bất kỳ mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng,
không gây những chậm trễ về mặt hành chính. Khi NHTW quyết định muốn thay đổi
cơ số tiền hoặc dự trữ nó chỉ việc ra lệnh cho một người kinh doanh chứng khoán và
việc mua bán được thực hiện ngay tức khắc.
- Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến
hành nghiệp vụ thị trường mở NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công

cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua chứng khoán
trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành
nghiệp vụ bán chứng khoán trên thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ chủ động. Nó cho phép
NHTW có thể tạo ra những biến động có khả năng hướng dẫn xu hướng thị trường trên
cơ sở dự báo nhu cầu vốn khả dụng. Mặt khác, việc hoàn thành nghiệp vụ thị trường
mở không phụ thuộc nhiều lắm vào ý thích chủ quan của các đối tác. Lợi dụng tác
động của các lực lượng thị trường, NHTW có thể buộc các đối tác hoạt động theo mục
tiêu của mình.
- Nhờ có nghiệp vụ này, NHTW có thể kiểm soát được lượng tái cấp vốn không
vay. Việc kiểm soát này không thể thực hiện được trong nghiệp vụ tái chiết khấu. Ở
nghiệp vụ tái chiết khấu, NHTW có thể khuyến khích hoặc hạn chế khối lượng tái
chiết khấu và có thể khống chế hạn mức tái chiết khấu nhưng không thể kiểm soát
được nhu cầu tái chiết khấu các NHTM.
1.8.2. Nhược điểm
- Vì các ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền bị triệt tiêu bởi
các tác động ngược chiều nên dự trữ của ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng
sau các hoạt động mua bán chứng khoán của NHTW. Chẳng hạn, do dòng chảy ngược
chiều của vốn, do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc do số dư tiền gửi ngân
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 17
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
sách ở NHTW tăng lên, các hoạt động mua chứng khoán của NHTW nhằm tăng lượng
tiền cung ứng sẽ bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ.
- NHTW không phải lúc nào cũng tăng hay giảm lượng cung ứng tín dụng và
đầu tư khi dự trữ tăng lên hay giảm xuống dưới tác động của nghiệp vụ thị trường mở.
Có nhiều yếu tố ngăn cản NHTM sử dụng tối đa số dự trữ dư thừa cho mục tiêu mở
rộng tín dụng như: nhu cầu trả nợ NHTW, nhu cầu sử dụng tiền mặt tăng lên
- Khi lãi suất thị trường giảm xuống, không phải lúc nào khối lượng tín dụng
cũng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền
kinh tế, mức độ rủi ro và thiếu ổn định của môi trường đầu tư.

Như vậy khả năng phát huy hiệu quả tối đa của nghiệp vụ thị trường mở nhiều
khi không phụ thuộc vào NHTW, mà nó còn bị chi phối bởi môi trường kinh tế vĩ mô,
hành vi của công chúng và các quyết định của các NHTM.
CHƯƠNG II.
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY
2.1. Tình hình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong giai đoạn
2007 đến nay
Ra đời từ những năm 30 của thế kỷ XIX nghiệp vụ thị trường mở nhanh chóng
phổ biến, trở thành công cụ đắc lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTW
ở các nước phát triển. Nghiệp vụ thị trường mở được xem là còn khá mới ở Việt Nam
để NHNN điều hành chính sách tiền tệ. Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành
đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Mặc dù vậy, việc triển khai
NVTTM cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, đây là một bước
tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN theo hướng từ sử dụng các
công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự
phát triển của đất nước, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh
chóng, kịp thời. Nghiệp vụ thị trường mở đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong sự
phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nói chung và cơ chế điều hành chính sách
tiền tệ của NHNN theo phương pháp gián tiếp nói riêng. Nó đã mở ra một kênh cung
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 18
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
ứng và điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng cho NHNN và tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình.
Trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã sử dụng ngày càng thường xuyên
và hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở. OMO liên tục được NHNN cải tiến và
dần trở thành một công cụ chính sách tiền tệ chủ yếu của NHNN. Tần số và khối
lượng giao dịch tăng dần, thể hiện rõ qua biểu đồ 1.
Biểu đồ 2.1: Doanh số giao dịch trên thị trường mở từ 2006 – 2012
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)

2.1.1. OMO giai đoạn 2007 - 2009
Ngân hàng Nhà nước đã có những biện pháp khá linh hoạt trong điều hành
chính sách tiền tệ từ “thắt chặt” cho đến “nới lỏng” trong khoảng thời gian 2007 -
2008 nhằm giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
Năm 2007 là năm thứ 2 cả nước phấn khởi triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ 10, cũng là năm nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO,
mở ra nhiều cơ hội mới. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của NHNN năm 2007 đó là
nhập siêu ở mức cao làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai; lạm phát có xu hướng tăng
mạnh trong bối cảnh kinh tế và thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động khó
lường gây sức ép đối với điều hành tỷ giá và việc kiểm soát tổng phương tiện thanh
toán và tín dụng. Trong bối cảnh đó, nghiệp vụ thị trường mở trở thành một trong
những công cụ chủ yếu để điều tiết cung tiền nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế
lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã
có những đổi mới như cố định phiên mua nhằm khắc phục hạn chế của thị trường tiền
tệ, thay đổi phương thức đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ
và diễn biến vốn bằng VND của các tổ chức tín dụng. Cũng trong năm này, đã có 20
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 19
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở, gồm các NHTM nhà nước, các NHTM
cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tăng 20% so với
năm trước, góp phần tăng khả năng điều tiết của nghiệp vụ này.
Năm 2008, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều sự kiện phức tạp, khó lường xuất
phát từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, trong nước kinh tế tăng trưởng chậm lại.
Trước tình hình đó, NHNN điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt.
Nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ cần thiết trong giải pháp thắt chặt tiền tệ
nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong năm này, nghiệp
vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các công cụ chính
sách tiền tệ khác để điều tiết vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý, góp
phần ổn định thị trường tiền tệ. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện
hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi

suất nhằm ổn định thị trường và NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, cùng với việc thực hiện các giải pháp điều hành
chính sách tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc,
tăng lãi suất cơ bản nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán
tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn 182 là
7,5%/năm, kỳ hạn 364 là 7,75%/năm. Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ
chức tín dụng và khắc phục tình trạng thị trường tiền tệ chưa thực sự thông suốt,
NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28
ngày), khối lượng chào mua hàng ngày được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn thanh
toán và diễn biến thị trường tiền tệ. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở nêu trên
đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, nhất là các thời điểm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, các mức lãi suất NHNN công bố.
Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng
bước nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ
động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh
tế. Tuy vậy, không giống như các công cụ khác, OMO vẫn được sử dụng khá triệt để.
Để ổn định tâm lý thị trường và hỗ trợ các NHTM thật sự khó khăn về vốn, NHNN
tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7-14 ngày với khối lượng
và lãi suất hợp lý, phù hợp với việc điều chỉnh lãi suất cơ bản và các loại lãi suất do
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 20
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
NHNN công bố. Trong dịp giáp Tết, nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh hỗ trợ
vốn chủ yếu cho các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì ổn định tiền tệ.
Năm 2009, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng thận trọng,
hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả
góp phần thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ đã nhấn mạnh về việc
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đẩy
mạnh xuất khẩu, chủ động phòng ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống. Cùng
với định hướng chung, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát
diễn biến cung – cầu vốn của các tổ chức tín dụng. NHNN cũng bơm ròng tới 122.830

tỷ đồng. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu là
các giao dịch mua GTCG với kỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); phương thức đấu thầu khối
lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi suất được điều
chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN; khối lượng chào
mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ thanh khoản, đảm
bảo khả năng thanh toán.
Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi
suất giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế,
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích
thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang
ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng vẫn có dư thừa nên nhu cầu tham gia các phiên chào mua nghiệp vụ thị trường
mở không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của
NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1.000 tỷ đồng/phiên.
Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng
tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng
chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên
chào mua tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6.000
tỷ đồng/phiên, gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng
12, NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng bình quân
xấp xỉ 15.000 tỷ đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh
toán tăng cao trong dịp Tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt 7
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 21
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7-8%/năm. Đồng thời,
để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín
dụng trong hệ thống, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3
phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng; phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống
nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng
thầu với doanh số đạt 102 tỷ đồng.

Cùng với việc điều hành linh hoạt và thận trọng các công cụ chính sách tiền tệ
khác, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn
thanh toán cho hệ thống các TCTD; đồng thời, lãi suất giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở.
2.1.2. OMO giai đoạn 2010 - 2012
Sau giai đoạn 2007 - 2009, chính sách tiền tệ được chuyển sang thắt chặt nhằm
kiềm chế lạm phát, từ tháng 11/2010 đến nay, được tiếp tục điều hành theo hướng thắt
chặt, thận trọng.
Biểu đồ 2.2: Diễn biến lãi suất OMO
(Nguồn: SBV/GAFIN)
Năm 2010, NHNN điều hành chính sách tiền tệ chủ động, thận trọng và linh
hoạt theo nguyên tắc thị trường nhằm ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo khả năng
thanh toán của từng tổ chức tín dụng và cả hệ thống ngân hàng. Trong năm này, nghiệp
vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu vốn trên thị
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 22
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
trường, góp phần ổn định lãi suất thị trường: Hằng ngày, NHNN thực hiện giao dịch
chào mua GTCG với kỳ hạn ngắn (7, 14, 28 ngày) chủ yếu để hỗ trợ vốn thanh toán
VND cho các tổ chức tín dụng, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đồng thời hỗ trợ
các tổ chức tín dụng giảm mặt bằng lãi suất huy động vốn theo chỉ đạo của Chính phủ
và kiểm soát tiền tệ chặt chẽ trong những tháng cuối năm 2010 trước áp lực lạm phát
tăng cao trở lại. NHNN bơm ròng 294.304 tỷ đồng vào năm này. Trong 9 tháng đầu
năm, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành nhằm hỗ trợ vốn thanh toán VND cho
các tổ chức tín dụng, ổn định thị trường tiền tệ và hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm mặt
bằng lãi suất huy động vốn: Thực hiện chào mua GTCG với kỳ hạn 7, 14, 28 ngày; lãi
suất được điều chỉnh giảm (lãi suất kỳ hạn 7 ngày giảm từ 7,8%/năm xuống 7,5%/năm
và xuống 7%/năm, lãi suất kỳ hạn 14 ngày từ 8%/năm xuống 7,5%/năm, 28 ngày là
8%/năm); khối lượng chào mua bình quân khoảng 5.400 tỷ đồng/phiên, khối lượng
trúng thầu bình quân khoảng 3.200 tỷ đồng/phiên. Ba tháng cuối năm, trong bối cảnh
áp lực lạm phát tăng cao, tín dụng và tổng phương tiện thanh toán vượt mục tiêu,

nghiệp vụ thị trường mở được điều hành chặt chẽ hơn nhưng đảm bảo ổn định thị
trường tiền tệ thông qua việc giảm dần kỳ hạn chào mua từ dài nhất là 28 ngày xuống
chỉ thực hiện chào mua với kỳ hạn 7 ngày (từ ngày 10/11/2010); lãi suất chào mua kỳ
hạn 7 ngày tăng từ 7,0-8,75-9,0-10%/năm; khối lượng chào mua bình quân khoảng
7.160 tỷ đồng/phiên, khối lượng trúng thầu bình quân khoảng 6.970 tỷ đồng/phiên.
Cùng với việc điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nghiệp vụ thị trường
mở đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh toán cho hệ thống
các tổ chức tín dụng; lãi suất thị trường liên ngân hàng có xu hướng xoay quanh lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở.
Đối với riêng năm 2011, thực hiện Nghị quyết 11 của Quốc hội và Chính phủ,
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và
thận trọng nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng
phương tiện thanh toán ở mức thấp, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó đặc biệt là nghiệp
vụ thị trường mở đã được sử dụng khá có hiệu quả để đảm bảo mục tiêu thực hiện
chính sách trực tiếp là lãi suất, thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và cho nền kinh
tế, Trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN chỉ bơm ròng 13.056 tỷ đồng. Điều này thể
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 23
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
hiện NHNN quyết tâm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhằm mục đích kiềm chế
lạm phát.
Bảng 2.1: Tình hình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 6 tháng đầu năm 2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tháng Cung ứng Hút về Cung ứng ròng
1 501.749 345.483 156.266
2 314.493 345.338,8 -30.845,8
3 468.904 511.392,3 -42.488,3
4 519.695,7 453.002,7 66.693
5 353.381,9 425.139,5 - 71.757,6
6 141.838,4 206.649,7 - 64.811,3

Tổng 2.300.062 2.287.006 13.056
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Tính từ 4/5 đến hết 1/7/2011, NHNN đã có 9 tuần hút ròng liên tục trên OMO
với số tiền lên đến 482.165,5 tỷ đồng.
Biểu đồ 2.3: Lượng tiền NHNN hút ròng 9 tuần liên tục 4/5 đến hết 1/7 /2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 24
Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
Như vậy năm 2011, với 431 phiên giao dịch với khối lượng trúng thầu mua kỳ
hạn là 2.801.699 tỷ đồng và 6 lần điều chỉnh lãi suất trên thị trường mở (5 lần tăng và
1 lần giảm), NHNN đã thu tổng cộng 8.070 tỷ đồng tiền lãi. Việc sử dụng công cụ
nghiệp vụ thị trường mở đã tiến gần hơn đến cơ chế điều tiết linh hoạt, chủ động, gia
tăng cả về số lượng và chất lượng trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Biểu đồ 2.4: Lãi suất và khối lượng giao dịch trong năm 2011
(Nguồn: Sacombank)
Hòa theo vòng quay lũy tiến tăng dần đó, năm 2012 là một trong những năm
hoạt động trên thị trường mở đạt hiệu quả nhất và OMO trở thành công cụ chủ chốt để
NHNN kiểm soát cung tiền và lạm phát. Nhờ linh hoạt hút tiền về qua phát hành tín
phiếu, lẫn hút ròng qua thị trường mở, NHNN đã không những trung hòa được khối
lượng tiền VND trên thị trường mà còn giúp kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả. Có
thể thấy 2012 thực sự là năm sôi động nhất của nghiệp vụ thị trường mở tính đến thời
điểm hiện tại. Hãy cùng nhìn lại bức tranh OMO 2012 qua những con số.
Tính đến ngày 28/02/2012, NHNN đã hút ròng tổng cộng 111.365 tỷ đồng từ thị
trường này. Việc NHNN hút một lượng tiền lớn cộng với việc lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng giảm mạnh trong tháng 2 cho thấy thanh khoản hệ thống ngân hàng
dường như đã giảm bớt áp lực khi nguồn vốn chảy vào hệ thống qua thị trường kể từ
sau Tết nguyên đán. Theo đó, từ ngày 15/3 đến ngày 13/6, NHNN đã hút về hơn
109.000 tỷ đồng thông qua việc phát hành tín phiếu và đã thu hút được rất nhiều sự
chú ý với lãi suất hấp dẫn.

SVTH: Nguyễn Thị Yến Loan-38H12K7.1 Trang 25

×