Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

THU HOẠCH vai trò của ý thức đạo đức và sự vận dụng trong quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.47 KB, 28 trang )

THU HOẠCH- Vai trò của ý thức đạo đức và sự vận dụng trong
quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở việt nam hiện nay

MỞ ĐẦU
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng
đạo đức học đã xuất hiện 26 thế kỉ trước đây trong triết học Trung
Quốc, ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.Về bản chất, đạo đức là hành vi của con
người trong đời sống hiện thực được nhận xét, đánh giá, thẩm
định(ủng hộ hay lên án) qua lăng kính của dư luận xã hội. Sự ý thức
về lương tâm, danh dự, lòng tự trọng…phản ánh khả năng tự chủ của
con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản qui định
gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội
của con người.Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là
nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Bởi vậy vai trị của ý thức đạo đức là
vơ cùng to lớn.
Có thể thấy rằng,Việt Nam đã và đang trên con đường hội nhập
quốc tế thì vấn đề về đạo đức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Đạo đức mà cụ thể là ý thức đạo đức giúp Việt Nam bảo vệ được
1


những giá trị truyền thống tốt đẹp, hội nhập với bản sắc văn hố riêng
biệt, độc đáo. Đồng thời nó cũng giúp các doanh nhân, doanh nghiệp
Viêt Nam tạo lập uy tín với bạn bè thế giới…Nhưng trên thực tế các
giá trị đạo đức đó đang bị xem thường, coi nhẹ hay cố ý lãng quên.Vì
vậy, việc xây dựng ý thức đạo đức cho mỗi người dân Việt là một
nhiệm vụ vô cùng cấp bách. Nhưng việc xây dựng như thế nào cho
phù hợp và đạt hiệu quả cao mới là vấn đề khó khăn.Để đưa ra được
những phương án cụ thể chúng ta cần phải nghiên cứu ý thức đạo đức
bởi nó là cơ sở của mọi hành vi của con người.


Phần 1: Vai trò của ý thức đạo đức trong đời sống xã hội.
1. Định nghĩa về ý thức đạo đức.
Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức
đạo đức ra đời từ rất sớm, ngay từ xã hội nguyên thuỷ.
ở Trung Quốc các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức
của họ.Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học
Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi về sau, khái
2


niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã
hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là
biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể
nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu,
những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã
hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của đạo đức xét theo mối
quan hệ giữa ý thức và hành động, ý thức đạo đức là toàn bộ những
quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các
cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh
phúc, công bằng…và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi
ứng xử giữa các cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã
hội.


3


Trong quan hệ giữa người với người đều có những ranh giới của
hành vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác,
giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỉ và tinh thần tập thể.Về mặt giá trị của
hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi thiện, ăn bám
bóc lột là vô nhân đạo.Ngay cả trong một hành vi thiện mức độ giá trị
của nó khơng phải lúc nào cũng ngang nhau, mà nó cũng có những
thang bậc nhất định(cao cả, tốt, được). ý thức đạo đức là sự thể hiện
thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối
chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui tắc xã hội đặt ra,
nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách
tự giác tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn
bao hàm cảm xúc, tình cảm đạo đức con người. Mỗi người khác nhau
có những cảm xúc, những tình cảm đạo đức khác nhau, vì thế suy nghĩ
và hành động của mỗi người trong từng trường hợp cụ thể là khác
nhau. ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã
hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi cá nhân.
ý thức đạo đức có tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp.
-Tính thời đại:ý thức đạo đức luôn thay đổi từ thời đại này qua thời
đại khác. Thí dụ, đạo đức ngày nay thì phải tơn trọng nhân phẩm con
4


người, nhưng vào thời kì chủ nơ( 4000 năm trước Công nguyên)
người nộ lệ đã bị coi như một “công cụ biết nói” có thể chuyển
nhượng, mua bán như một đồ vật trên thị trường. Thời nguyên thuỷ
con người chỉ biết săn bắn, hái lượm và ai muốn ở đâu cũng được,
nhưng đến thời định canh định cư, phải khẩn hoang sản xuất thì con

người cũng gắn liền với mảnh đất canh tác của mình và ý thức phải
tơn trọng ruộng đất của kẻ khác cũng xuất hiện.
-Tính dân tộc: ý thức đạo đức cũng khác nhau từ dân tộc này qua
dân tộc khác. Đạo đức qui địnhbởi sự tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng
của tổng thể các ý thức xã hội khác nhau như triết học, nghệ thuật…
tạo thành bản sắc dân tộc cho từng vùng dân cư nên mỗi dân tộc lại có
phong tục, đạo đức riêng của mình.Bởi vậy mới có câu châm ngơn
nhập gia tuỳ tục.Thí dụ quan hệ đạo đức gia đình ngày nay là một vợ
một chồng nhưng vẫn nhiều nơi còn chế độ đa thê.
-Tính giai cấp: tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể hiện
lợi ích của các giai cấp và hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao
giờ cũng là đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù trong cuộc sống đời
thường mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo lợi ích trực tiếp của mình.Thí dụ,
thời phong kiến quan niện trung quân ái quốc,yêu vua là yêu nước đã
5


trở thành phổ biến, nhưng ở các làng quê “phép vua vẫn thua lệ làng”,
người dân vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc truyền thống của mình. Ngồi
tính giai cấp, đạo đức vẫn mang tính nhân loại chung.Tính nhân loại
của đạo đức ở mức thấp là những qui tắc đơn giản, thông thường, cần
thiết để đảm bảo cho trật tự an sinh đời thường. Tính nhân loại ở mức
cao biểu hiện ở những giá trị đạo đức tiến bộ tiêu biểu nhất của từng
giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội trong lịch sử.
ý thức đạo đức về mặt cấu trúc gồm tri thức đạo đức, tình cảm
và ý chí đạo đức.
2. Vai trò của ý thức đạo đức
ý thức đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội. Đạo đức
là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho
cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai

cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra con đường,
cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và
cộng đồng, từ đó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và
cộng đồng.

6


Trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người, suy cho
cùng nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên nếu tuyệt
đối hoá cái “chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và
hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ, phát triển của xã
hội không thể thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội phân chia
thành giai cấp, có áp bức bất cơng thì ý thức đạo đức giúp con người
tự điều chỉnh hành vi của mình, biết đấu tranh cho cái thiện, đẩy lùi
cái ác cổ vũ nhân loại vượt lên xốc tới. Đạo đức đã trở thành mục tiêu
đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
Vai trò của ý thức đạo đức cịn được thể hiện ở các chức năng
của nó:
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một phương thức điều
chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xó hội phát triển,
bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.Lồi người đã sáng tạo
ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp
quyền và đạo đức…Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các
dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao,
kinh tế, hành chính, bạo lực… Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành
vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp
7



đặc trưng là pháp luật và dư luận xó hội, lương tâm. Sự điều chỉnh
này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.Điều chỉnh hành vi của
đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đũi hỏi và phương thức
điều chỉnh.Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chớ của giai cấp
thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp
luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công
cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà
tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong
cộng đồng. Đạo đức đũi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi
cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xó hội và lương tâm.
Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả
chuẩn mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức
bằng dư luận xó hội và lương tâm đũi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi
con người đó trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các
hỡnh thỏi ý thức khỏc, cỏc hiện tượng xó hội khỏc và làm thành cỏi
khụng thể thay thế của đạo đức.Mục đích điều chỉnh là để bảo đảm sự
tồn tại và phát triển xó hội tạo nờn quan hệ theo nguyờn tắc hài hũa
lợi ớch cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng
đồng).Đối tượng điều chỉnh: hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều
8


chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp).Cách thức điều chỉnh
được biểu hiện: lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trỡnh của
hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi
chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý
tưởng, tỡnh cảm của đạo đức, kiểm sốt uốn nắn hành vi bởi dư luận
xó hội.Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hỡnh
thức chủ yếu: xó hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích
cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác; bản thân chủ thể đạo đức tự giác

điều chỉnh hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xó hội.
- Chức năng giáo dục: Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử.
Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thỡ hoàn cảnh cũng tạo ra
con người đến mức ấy.Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của
xó hội. Hệ thống ấy tỏc động đến con người và con người tác động lại
hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời
hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối
con người.Xó hội cú giai cấp hỡnh thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo
đức mà các cá nhõn chịu sự tỏc động. Ở đây, môi trường đạo đức tác
động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo
9


đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xó hội thành ý thức
đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo
dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời
sống xó hội và cỏ nhõn làm cả đạo đức cá nhân và xó hội được củng
cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.Hiệu
quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xó hội, cách
thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo
dục trong quá trỡnh giỏo dục. Giỏo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo
đức:nhân đạo hóa các quan hệ xó hội và mức độ phổ biến nhân đạo
hóa các quan hệ xó hội; sự hồn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ
phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện
tượng xó hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng
đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm
vụ, nội dung, phương thức, hỡnh thức và các bước đi của quá trỡnh
giỏo dục sẽ giỳp mỗi cỏ nhõn và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và
thực tiễn đạo đức đúng. Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần

được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân
và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục”
ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
10


-Chức năng nhận thức:Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội,
đạo đức có chức năng nhận thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xó
hội.Sự phản ỏnh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với
các hỡnh thỏi ý thức khỏc.Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự
chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo
đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xó hội. Nhưng xét
dưới góc độ xó hội học thỡ hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức)
không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức
là hiện tượng xó hội vừa mang tớnh tinh thần vừa mang tớnh hành
động hiện thực.Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm: Hành động đạo
đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự
hũa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác những khoa
học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về
khơng gian và thời gian).Nhận thức của đạo đức là quỏ trỡnh vừa
hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương
vào chính mỡnh, chớnh chủ thể).Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn
mức, giá trị, đời sống đạo đức của xó hội làm đối tượng. Đó là hệ
thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phỳc và ý
nghĩa cuộc sống…, những “cỏch thức và phương tiện” tạo ra các giá
11


trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đó chuyển
húa đạo đức của xó hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá

nhân như là cái riêng.Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản
thõn mỡnh – chủ thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá
trỡnh tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành
vi, đạo đức của mỡnh với những chuẩn mực giỏ trị chung của cộng
đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hỡnh thành phỏt triển thành
cỏc quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh
hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…Trong
tự nhận thức, vai trũ của dư luận xó hội và lương tâm là to lớn. Dư
luận xó hội là sự bỡnh phẩm, đánh giá từ phía xó hội đối với chủ thể,
cũn lương tâm là sự phê bỡnh. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá
trị đạo đức của mỡnh – giỏ trị mà xó hội mong muốn.Từ nhận thức
giỳp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mỡnh và sẵn sàng để ho
thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vơ số những trách nhiệm
như vậy. Nó ln đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức
với xó hội, gia đỡnh, bạn bố, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia
cấp, tổ quốc.Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai
trỡnh độ : trỡnh độ thông thường và trỡnh độ lý luận.Nhận thức đạo
12


đức ở trỡnh độ thông thường là ý thức thụng thường, những giá trị
riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử
lý kịp thời trong cuộc sống và sự phỏt triển bỡnh thường của xó hội.
Mọi cỏ nhõn đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trỡnh độ này.
Nhận thức đạo đức ở trỡnh độ lý luận là những nhận thức có tính
ngun tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng qt.
Trỡnh độ này đáng ứng những đũi hỏi của sự phỏt triển đạo đức và
tiến bộ xó hội. Đây là yếu tố khơng thể thiếu được trong hệ tư tưởng
và hành vi của các gia cấp cầm quyền. Nhận thức đạo đức đưa lại tri
thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý

thức đạo đức xó hội đó nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá
nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xó hội trở
thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện
thực hóa đạo đức).
3. Một số kết luận chung.
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là tổng số
các nguyên tắc, các quy tắc định hướng hành vi của con người trong
giao tiếp xã hội. Những nguyên tắc, quy tắc ấy là sự biẻu hiện của
quan hệ hiện thực xác định giữa con người với con người. Việc giáo
13


dục đạo đức là quá trình “ chuyển” những quy tắc, chuẩn mực đạo đức
đã được xã hội thừa nhận vào trong ý thức của mỗi cá nhân để nó trở
thành “năng lực nội sinh- năng lực tự ý thức” nhằm điều chỉnh, chế
ước hành vi của mỗi cá nhân. Bởi vậy ý thức đạo đức có vai trị hết
sức to lớn, khơng có ý thức đạo đức xã hội sẽ khơng thể tiến lên được.
Sự hình thành, phát triển và hồn thiện hệ thống giá trị đạo đức khơng
tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều
chỉnh đạo đức.ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động thì
mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác.

Phần 2: vận dụng trong quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở việt
nam hiện nay.
1. Thực trạng của quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở Việt Nam
hiện nay.
1.1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình xây dựng ý thức
đạo đức ở Việt Nam hiện nay.

14



Những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú trọng
đến việc xây dựng ý thức đạo đức cho mỗi cá nhân và tồn xã hội.
Việc làm đó đã đạt được những kết quả khả quan.
Nhờ xây dựng ý thức đạo đức mà những giá trị văn hoá tinh
thần tốt đẹp và bản sắc dân tộc được giữ vững trong thời đại hội nhập
quốc tế. Văn hoá dân tộc là một chỉnh thể đồ sộ, phong phú bao gồm
tri thức, tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong
tục tập quán, truyền thống…nó vừa là

“ trầm tích” của tình cảm và

ý thức dân tộc trong q khứ, vừa là kết tinh của tinh thần thời đại và
định hướng giá trị của dân tộc. Văn hoá dân tộc là nguồn sức mạnh
nội sinh của đất nước trong q trình hội nhập. Xây dựng nền văn hố
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc trong điều kiện mới của sự mở rộng giao lưu và hợp
tác quốc tế. Gĩư gìn bản sắc văn hố dân tộc là để đến với thế giới một
cách tốt hơn, học tập chỗ mạnh của các nền văn hoá khác một cách tốt
hơn, tiếp thu văn hố nhân loại , thơng qua tính dân tộc để thâu lượm,
sàng lọc tính thời đại, tính thế giới. Bởi vậy việc giữ gìn bản sắc văn
hố dân tộc có ý nghĩa vơ cùng to lớn và ý thức đạo đức đã đóng góp
quan trọng vào q trình giữ gìn đó.
15


Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn
hiện nay, ngoài những nhân tố chủ chốt không thể không kể đến việc
đạo đức kinh doanh ngày càng được nâng cao. Nền kinh tế thị trường

hiện nay chưa có chuẩn mực nào cụ thể về đạo đức kinh doanh. Từ sự
chiếm hữu bất bình đẳng đưa đến phân phối khơng cơng bằng sẽ sinh
ra phân hố xã hội. Nền kinh tế thị trường còn chịu sự ảnh hưởng
thường xuyên của chu kì kinh tế quốc tế nên đạo đức kinh doanh ngày
nay không chỉ giới hạn trong biên giới một quốc gia mà còn cần được
các nước trên thế giới tuân theo. Các chuẩn mực đạo đức kinh doanh
là cơ sở tình cảm và trí tuệ cụ thể định hướng cho doanh nhân có thể
làm đúng, nghĩ đúng, định hướng trong các hoạch định và tổ chức
kinh doanh để đảm bảo được sự phát triển cho doanh nghiệp của
mình. Vì vậy cần có đạo đức kinh doanh trong hoạt động kinh tế- xã
hội ngày nay.
Quá trình xây dựng ý thức đạo đức đã làm thay đổi suy nghĩ của
một bộ phận không nhỏ trong xã hội. Các chuẩn mực đạo đức giúp
mỗi cá nhân tự phân biệt thiện- ác, có thái độ đúng đắn trong từng
trường hợp. Trước những tiêu cực của bộ máy nhà nước, làn sóng dư
luận đã dấy lên mạnh mẽ, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước.
16


Bên cạnh đó, những số phận đáng thương, những đồng bào bị thiên tai
bão lụt cũng nhận được sự giúp đỡ hết mình của tồn xã hội.
1.2. Những hạn chế của quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở Việt
Nam hiện nay.
Sư phát triển nhanh chóng và nhiều mặt của thế giới ngay nay và
nền kinh tế thị trường đang tác động trực tiếp đến mọi quốc gia, đã và
đang làm chao đảo nhiều giá trị đạo đức vốn được xem là truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc và của toàn thể nhân loại. Hiên tượng suy đồi
đạo đức là có thật và đang trở thành mối quan tâm lo ngại của nhiều
quốc gia, dân tộc trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, ngay từ khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh rất nhiều cái được đã xuất hiện

những cách sống và lối sống xa lạ, trái với các chuẩn mực của xã hội,
bất chấp những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đó tình
trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ Đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí.Đó là một bộ phận dân cư Việt Nam, đặc biệt là giới
trẻ có tâm lý sống thực dụng, bng thả, sùng bái đồng tiền, quay lưng
lại với văn hoá, đạo đức truyền thống. Khơng ít trường hợp vì đồng
tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò,
17


đồng nghiệp…Trong bối cảnh đó, việc nâng cao vai trị của ý thức đạo
đức là nhiệm vụ vô cùng cấp bách hiện nay.
1.3. Một số kết luận chung
Thực tế, hiện nay ở nước ta, trong lĩnh vực đạo đức xã hội đang
diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái thiện và
cái ác, giữa lối sống lành mạnh, có lí tưởng, trung thực, có ý thức xây
dựng đất nước… với lối sống thực dụng, ích kỉ, sa đoạ. Cái mới, cái
tiến bộ đang từng bước phát triển và du nhập vào thì cái xấu, cái tiêu
cực cũng nhân cơ nhội này len lỏi vào từng ngõ ngách của cuộc sống.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do quá trình xây dựng ý thức đạo
đức ở Việt Nam hiện nay chưa đạt hiệu quả.Bởi vậy, việc xây dựng ý
thức đạo đức là vấn đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan
tâm đặc biệt của toàn Đảng toàn dân.
2. Một số giải pháp góp phần xây dựng ý thức đạo đức ở Việt Nam
hiện nay
Đạo đức chỉ đưa ra những qui tắc, chuẩn mực và đánh giá cách
ứng xử của con người chứ không thể bắt buộc họ làm theo những qui
tắc và chuẩn mực đó, nên để được hiệu quả tốt nhất đạo đức cần có sự
18



kết hợp với luật pháp. Trong thời buổi kinh tế thị trường và cạnh tranh
gay gắt, nếu chỉ hô hào chung chung về lương tâm, đạo đức mà không
gắn với giáo dục và thực thi pháp luật hoặc chỉ dùng sức mạnh cưỡng
chế lạnh lùng của pháp luật với bản chất đúng nghĩa của nó là có giới
hạn thì sẽ không thể điều chỉnh, kiểm soất được mọi hành vi của con
người. Mong muốn của chúng ta là làm cho cái tốt đè bẹp cái xấu, cái
chính chiến thắng cái tà, nghĩa là làm cho các giá trị đạo đức ngày
càng phổ biến. Để đạt được những mong muốn đó chúng ta cần đưa
các chuẩn mực đạo đức cơ bản vào nội dung các văn bản pháp luật.
Trong thực tế cuộc sống nếu ở đâu thiếu luật hoặc luật không đủ bao
quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì ở đó lấy đạo đức, lấy dư
luận xã hội để điều chỉnh. Điều ấy tuy có tác dụng nhất định nhưng
quả thực thiếu “độ” mạnh, thiếu tính răn đe cần thiết, đặc biệt là đối
với những bộ phận tiêu cực. Vì vậy, một mặt đề cao đạo đức sẽ góp
phần đắc lực hạn chế những khiếm khuyết của pháp luật, mặt khác
phải đưa những chuẩn mực đạo đức mới vào pháp luật, luật hố những
chuẩn mực đạo đức đó để pháp luật thực sự là công cụ hữu hiệu bảo
vệ và phát triển đạo đức. Bên cạnh đó cần bắt đầu ngay một lộ trình

19


xây dựng và thực hiện sự kết hợp đạo đức và pháp luật, để pháp luật
của nước ta là một nền pháp luật thấm đẫm những giá trị của đạo đức.
Chúng ta ln tự hào là dân tộc ta có hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước. Trong quá trình đó, con người Việt Nam tuy phải trải qua
biết bao nhiêu biến cố nhưng vẫn giữ được nét truyền thống cho dân
tộc mình. Và nét đẹp truyền thống đó được kết tinh trong hình ảnh

một con người, một danh nhân văn hoá thế giới, vị cha già của dân tộc
Việt Nam- lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời mình, Bác Hồ
ln nêu một tấm gương sáng về phẩm chất tư tưởng đạo đức như cần
cù, ham học hỏi, giản dị, khiêm tốn, tiết kiệm…Những tư tưởng đạo
đức của Người là di sản vơ cùng q báu, đã và đang là động lực tinh
thần cho toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta
cân tổ chức nhiều hơn nữa những cuộc thi như cuộc thi về “Tìm hiểu
tấm gương tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” để tăng cường giáo dục ý
thức đạo đức cho toàn xã hội.
Lớp trẻ là thế hệ tương lai của đất nước nhưng ngày càng có
nhiều hiện tượng suy đồi về đạo đức, bởi vậy cần đưa việc giáo dục ý
thức đạo đức sâu rộng hơn nữa vào nhà trường và các tầng lớp dân cư,
20


vì giáo dục đạo đức sẽ góp phần thức tỉnh lương tâm, tạo thành một
hành lang trách nhiệm đạo đức cho hoạt động năng động của mỗi con
người, sẽ làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên, sẽ góp phần tạo ra một cơ chế
phòng ngừa các phản giá trị văn hoá. Điều dễ nhận thấy là trong một
thời gian khá dài chúng ta không coi trọng lắm việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức. Chính sự khiếm khuyết, hụt hẫng trong giáo dục đạo
đức trong nhà trường đã tạo nên một khoảng trống trong tâm hồn thế
hệ trẻ. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao ngày nay, một
bộ phận lớp trẻ có xu hướng quay lưng lại với văn hoá truyền thống,
sống thực dụng, dễ sa vào các tệ nạn xã hội, thậm chí trở thành kẻ
phạm pháp. Cho nên trong quá trình xây dựng đất nước, nếu chúng ta
chỉ đơn thuần nhằm vào và chỉ đưa vào tăng trưởng kinh tế mà không
đứng vững trên cái nền căn bản và vững chắc của văn hoá, của đạo

đức truyền thống thì sự phát triển của xã hội sẽ trở nên hết sức khập
khiễng, không lâu bền.
Ngày nay, trong sự nghiệp phát triển đất nước, từng bước xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh quốc tế biến động
nhanh và phức tạp, chúng ta càng cần giữ gìn những giá trị đạo đức
21


truyền thống, đồng thời phải coi trọng giáo dục đạo đức, phải tăng
cường giáo dục đạo đức trong gia đình, trong nhà trường và ngồi xã
hội. Bởi vì gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng
trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho mỗi con
người. Trong hoạt động kinh doanh phải biết kết hợp hài hoà cái lợi,
cái thiện và cái đẹp chứ khơng thể vì những lợi ích thấp hèn mà làm
mất đi nhân cách con người Việt Nam đã được hun đúc nên từ những
di sản quí báu của truyền thống dân tộc. Và hơn thế nữa cần phải biết
kế thừa, biết phát huy và đổi mới những giá trị đó cho phù hợp với xu
thế của thời đại. Bên cạnh những giá trị đạo đức truyền thống như
lòng u nước, lịng nhân ái, vị tha, tính trung thực, tinh thần ham học
hỏi, truyền thống tôn sư trọng đạo, đức tính cần cù, giản dị… chúng ta
cần tiếp nhận những giá trị mới được bổ sung trong sự phát triển của
thế giới ngày nay, đó là những giá trị mà theo UNESCO, có thể chia
làm hai nhóm:
-Những giá trị chung: lý tưởng nhân đạo, chính sách nhân đạo, lơí
sống nhân đạo, vẻ đẹp tâm hồn, hồ bình- hồ hợp, bình đẳng- cơng
lý, nhân quyền, dân quyền.

22



-Những giá trị riêng: lòng nhân ái, lòng vị tha, yêu thiên nhiên, sự
lương thiện, thận trọng, sáng tạo, công bằng, sịng phẳng, tự giác, tự
trọng.
Có những giá trị đạo đức đã tòn tại từ bao đời nay, cũng co
những gái trị mới nảy sinh cùng vơi sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều cơ bản là cần phải có sự nhìn nhận khách quan và khoa học để
vừa kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp, vừa chọn lọc, tiếp thu
những cái thực sự quý giá, phù hợp với dân tộc mình để xây dưng một
hệ thống giá trị đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Nghĩa là phải biết kết hợp cái hiện đại và cái truyền thống, biết xuất
phát từ cái truyền thống để đi đến hiện đại. Bởi vì những giá trị mới
cùng với các giá trị truyền thống bền vững sẽ là những động lực thúc
đẩy con người hành động và nhờ vậy mà lịch sử sẽ có bước phát triển
mới.

23


KếT LUậN

Quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở Việt Nam là một việc làm
khơng dễ dàng nhưng vì trị to lớn của nó đói với tồn xã hội, Đảng và
Nhà nước ta đã cố gắng nghiên cứu, đưa ra những biện pháp nhằm
thúc đẩy q trình đó. Tuy khơng thể khắc phục hồn tồn những
nhược điểm của xã hội bằng việc xây dựng ý thức đạo đức nhưng nó
cũng góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn, con người ngày càng hoàn
thiện hơn.
Ngày nay để xây dựng xã hội mới chúng ta đang cần có những
con người mới, những con người phát triển toàn diện cả đức và tài.
Chủ tịch Hồ C hí Minh ln ln lưu ý, nhắc nhở chúng ta phải coi

trọng cả tài và đức nhưng phải lấy đức là gốc. Bởi lẽ tài năng chỉ có
thể phát triển lâu bền trên nền của đức và tai năng chỉ có thể hướng
thiện trên gốc của đức.

24


25


×