Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.92 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp hành chính
STT


GV hướng dẫn

: ThS. Nguyễn Tùng Lâm


MỤC LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một mạng lưới sự sống rộng lớn, càng có nhiều
mối liên hệ thì mạng lưới càng bền vững. Chúng ta cũng biết rằng tất cả
những mối liên kết trong sự sống sẽ không tồn tại và phát triển được nếu
không được hỗ trợ bởi môi trường. Với tốc độ phá hoại môi trường như hiện
nay của con người, mơi trường của chúng ta đang dần bị suy thối, mạng lưới
sự sống đó đang dần bị phá vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một


mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một
sức ép nặng nề lên môi trường tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển
khác, để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước mắt, đất nước ta
phải trả giá là mất đi sự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Sự
phát triển nhanh chóng ở Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng ơ nhiễm đất,
khơng khí, nước... mạng lưới đang dần mất đi sức mạnh của nó. Chính vì vậy
em đã chọn đề tài tiểu luận: “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ mơi
trường sinh thái”.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào phân tích mối liên
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ mơi trường sinh thái từ đó tìm ra giải
pháp phát triển kinh tế đất nước ta theo hướng lâu dài, ổn định, bền vững.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tăng trưởng kinh tế, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái và mối quan hệ giữa
chúng.


4. Kết cấu tiểu luận
PHẦN I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

PHẦN NỘI DUNG
I. PHẦN I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Sự ra đời của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng.
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi
đầu là phép biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm dương” của Trung Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ
đại. Đến khoảng thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống

trị trong tư duy triết học mà đại diện là Đềcáctơ - ông được coi là linh hồn
của phương pháp siêu hình.


Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây là thời kỳ tổng kết
các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương pháp
biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen (ông được coi là tiền đề của
phương pháp biện chứng duy vật sau này). Ngày nay phép biện chứng đã đạt
đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy vât. Phép biện chứng duyvật
được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy
luật được khái quát từ hiện thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc
phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát cổ đại cho
rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của nó có mối
liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau,
thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát
triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện
chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là Hêgen. Ông cho rằng
sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự
vận động của “ý niệm tuyệt đối”mà thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng
minh rằng: những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua là sự phản
ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân biện chứng của ý
niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của
thế giới hiện thực khách quan. Như vậy phép biện chứng duy vật đã khái
quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển chung nhất
của thế giới.
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến



Phép biện chứng duy vật có vai trị làm sáng tỏ những quy luật của sự
liên hệ và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở
bất kỳ cấp độ phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến vẫn được xem là một trong những ngun lí có ý nghĩa khái
qt nhất. Ngun lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng
và các q trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ
qua lại, thâm nhập và chuyển hố lẫn nhau.Trong đó liên hệ là sự tác độngqua
lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy định lẫn
nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt, các yếu
tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định cơ
sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính thống
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế
giới vật chất. Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với
nhau, trong toàn bộ vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm
duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của
sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các q trình mà nó cịn nêu rõ
tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa
dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật và hiện
tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác
động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt
khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên ngồi là mối liên hệ giữa
các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó khơng có nghĩa quyết
định, hơn nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà phát


huy. Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đơi khi cịn

giữ vai trị quyết định. Ngồi ra cịn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ
thứ yếu, có mối liên hệ chung bao qt tồn bộ thế giới, có mối liên hệ bao
qt một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối
liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại
được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ
bản chất và mối liên hệ khơng bản chất, có mối liên hệ tất yếu và mối liên
hệngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối liên hệ
khác
nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát
triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên
hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá
trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ địi hỏi phải
thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau có
thể chuyển hố cho nhau. Sự chuyển hố đó có thể diễn ra hoặc do thay đổi
phạm vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận động khách quan của
chính sự vật hiện tượng ấy.
2.2Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến


Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó
phản ánh tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất đó là thế giới
vật chất. Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận của quan điểm
toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận
thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm tồn diện địi hỏi để có nhận thức
đúng về sự vật chúng ta cần xem xét nó: một là : trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật
đó, hai là: trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác, kể
cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa quan điểm tồn diện địi hỏi để nhận

thức đúng sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với nhu cầu
thực tiễn của con người. Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải đi từ tri
thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra
bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
Nhưng quan điểm tồn diện khơng đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệtkê
những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó, nó địi hỏi phải
làm nổi bật cái cơ bản nhất, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng
đó. Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn,
nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta
phải bằng hoạt động thực tiiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại
của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Muốn vậy phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều phương tiện khác
nhau để tac động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Để tránh những
phưng pháp luận sai lầm trong việc xem xét sự vật, hoạt động cần tránh chủ
nghĩa chiết trung, thuật nguỵ biện. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong
không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của khơng gian thời gian đó.


Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xet và giải quyết
mọi vấn đề thực tiễn đặt ra.
3.


II. PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường


Mơi trường sinh thái là tồn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh
thái ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội lồi

người. Nó là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh
vật tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế
nhằm cải thiện và phát triển đời sống của con người. Vì vậy giữa mơi trường
sinh thái và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ. Như
chúng ta đã biết môi trường sống được sinh ra và tồn tại trong tự nhiên, vì vậy
có thể nói nó tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức con người. Tuy
nhiên sự phát triển của mơi trường lại hồn tồn phụ thuộc vào ý thức của con
người, con người có thể tác động làm cho môi trường tốt lên hoặc xấu đi. Tăng
trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hồn tồn phụ thuộc vào
con người nên nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác động trực tiếp của con
người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào con người từ đó ta có thể thấy mơi
trường cũng chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại, mối quan hệ
giữa chúng được thông qua một thực thể đó là con người. Mơi trường là địa
bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng trưởng kinh tế diễn ra trên diện
rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho lợi ích của con
người. Nhưng tài nguyên của môi trường không phải là vô hạn. Nếu chỉ tăng
trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo mơi trường thì một ngày nào đó
tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do mơi trường bị suy thối. Lúc đó con
người phải gánh chịu hậu quả do chính con người gây ra. Một sản phẩm do
con người tạo ra lại phá huỷ cái mà con người chịu tác động trực tiếp vì conngười
khơng thể sống mà không chịu sự tác động của môi trường. Ngược lại,
nếu tăng trưởng kinh tế gắn với việc bảo vệ mơi trường thì khơng những nó
làm cho đời sống của con người ngày càng được cải thiện mà nó cịn làm cải
thiện cả môi trường do kinh tế phát triển nhà nước có ngân sách cho những dự
án bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các


nguồn tài nguyên tự tạo
2. Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam

2.1 Trong công nghiệp


Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm
1986 Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được
tiến hành trên toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như
đổi mới tư duy, hệ thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính...
Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập chung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực hiện chủ trương và đường lối đổi
mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to lớn. Chính sách
đổi mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền kinh tế năng động, một
xã hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP)
tăng trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng trưởng công
nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07% năm
1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời
kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng cơng
nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng cơng nghiệp hố, từ mức
22,7% GDP năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000. Sự phát triển của q trìnhcơng
nghiệp hố trong những năm qua một mặt là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân nhưng mặt khác nó đã ít
nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà nếu khơng có biện pháp bảo vệ cụ thể
thì trong tương lai khơng xa chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở kinh
doanh đó, hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính khoảng 49.
000 tấn/ngày, trong đó chất thải rắn cơng nghiệp chiếm khoảng 27.000
tấn/ngày. Việc quản lý chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều khó
khăn, khơng có đủ kho chứa đủ tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc hại



trước khi xử lí, khơng có nhà máy xử lí chất thải độc. Phần lớn chất thải rắn
nguy hại này thuần tuý chỉ được chôn chung lẫn lộn với rác thải sinh hoạt
hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây mối nguy hại rất lớn đối với mơi
trường sống.
Ngồi ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp
thường thải ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ
sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí
nghiệp nếu có tiến hành xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nguồn nước
mặt, gây ô nhiễm trầm trọng đối với nhiều dịng sơng. Trong nhiều trường
hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày cịn gây ơ nhiễm khơng khí, mất mỹ quan,
lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu cực khác. Nước thải cơng nghiệp
chính là một trong những ngun nhân gây ô nhiễm cho môi trường đô thị.


Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn
tới. Ơ nhiễm mơi trường khơng khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, cơng
ngiệp hố chất gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung
bình tại các điểm đo đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhàmáy nhiệt
điện ng Bí, nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m 3, gấp
13 đến 16 lần trị số cho phép. Nồng độ các chất khí độc hại khác như CO 2,
NO2, SO2... trong khơng khí xung quanh nhiều nhà máy và khu cơng nghiệp
đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều này đã gây tác động
xấu đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân của cả một vùng rộng lớn
xung quanh các khu vực nhà máy. Số lượng các nhà máy có thiết bị xử lí khí
độc hại là rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngồi khơng khí, ảnh hưởng
trực tiếp đến sưc khoẻ con người.
Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố càng phát triển thì nhu cầu khai
thác các thành phần mơi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản

xuất ngày càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển
và môi trường đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức
nguồn tài nguyên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên,
mất cân bằng sinh thái và suy giảm chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ
trái phép gây ra sự suy nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu như năm 1945
độ che phủ nước ta đạt 43% thì tính đến tháng 12 năm 2000 độ che phủ rừng
chỉ còn 29, 8% và đang ngày càng bị thu hẹp
Còn nhiều nhiều vấn đề ô nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập khẩu
các thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất. mà
trong phạm vi bài tiểu luận triết học của mình tơi khơng thể trình bày hết
được, trên đây là những vấn đề mà theo tơi là cấp thiết và cần có hướng giải
quyết kịp thời.
2.2Trong nông nghiệp


Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và
cho đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài
nguyên, nông sản và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khống sản và hànghố
nơng lâm, thuỷ hải sản chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam. Nước ta đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa
hẹn nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to
lớn của thị trường quốc tế.Tuy nhiên đi đôi với sự gia tăng này của các hoạt
động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng
lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo
được và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm
phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong
tương lai. Mặt khác, các ngành nơng nghiệp, trồng trọt, chăn ni cũng có
nhiều cơ hội để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tái
nguyên thiên nhiên do khai thác, trồng trọt và chăn ni khơng hợp lí. Để
tăng sản lượng các loại rau, củ, quả... người nông dân thường phun các loại

chất kích thích, phân bón, thuốc trừ sâu. Trình độ nhận thức và chun
mơn của người dân cịn thấp, thêm vào đó đội ngũ cán bộ nơng nghiệp cịn
chưa nhiều vì vậy người nơng dân chưa ý thức được hành động của họ sẽ dẫn
đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại hố chất và sau đó vứt ngay các loại
vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn nước sau là gây nguy
hiểm cho những người sử dụng các loại rau, củ, quả đó. Thực tế là trong năm
2002, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá nghiêm trọng do Trung Quốc
không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Sử dụng
hố chất khơng được phép trước tiên là gây ô nhiễm nguồn nước, không tiêu
thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái hoá đất- một sự mất mát lớn.
Môi trường nông thôn cũng đang kêu cứu.
2.3Trong du lịch biển


Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao
thông vận tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạtđộng du
lịch phát triển trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy
còn rấy nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên
trong 10 năm qua, cùng với quá trình đổi mới và chuẩn bị hội nhập nền
kinh tế thế giới du lịch nước ta cũng đã có những bước phát triển ban đầu.
Năm 2001 tồn ngành đón 2,33 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 9%so
với năm 2000, vượt kế hoạch 6% so với năm 2000. Du lịch phát triển tạo
nhiều công ăn việc làm cho dân cư và thu được một lượng ngoại tệ lớn cho
ngân sách quốc gia. Tuy nhiên cũng như sự phát triển trong công nghiệp và
nông nghiệp, hoạt động du lịch cũng đang tác động đến môi trường về
nhiều mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây
dựng cơ sở hạ tầng như làm đường giao thơng khách sạn, các cơng trình
thể thao, các khu vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới
cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái.

Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc
biệt là các chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các
hoạt động vận tải thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình
trạng rác thải bừa bãi tại các điểm du lịch, vui chơi giải trí cịn phổ biến,
điều đó khơng những ảnh hưởng tới vệ sinh cơng cộng và mơi trường mà
cịn gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất
lượng khơng khí. Trước hết là ơ nhiễm khơng khí do giao thơng vận tải. Du
khách có thể đi bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như
ô tô, xe máy... ô nhiễm do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng
đây lại là phương tiện gây ô nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn.


Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như
phá những khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc
chia cắt nơi cư trú của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên
rừng, biển để sản xuất các sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản
các loại thú rừng, hoa lan rừng, tắc kè, đồi mồi, san hô. tại nhiều điểm du
lịch của nước ta.Ngoài ra việc khai thác hải sản biển cũng đang ở mức báo
động. Đánh cá ven bờ giảm một cách đáng kể và số thuyền đánh cá đã tăng
lên một cách nhanh chóng do có sự khuyến khích của chính phủ. Việc khai
thác dầu khơng hợp lí cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm
biển.
3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường
“Nếu chúng ta bắn vào thiên nhiên một phát đạn, thì thiên nhiên sẽ bắn
trả lại ta bằng đại bác”. Thực tế cho thấy, đi kèm với q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả do chính
chúng ta gây ra. Trong vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như
bão xoáy, lụt lội, hạn hán.. .ngày càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường
độ như hạn hán ở miền Trung, bão lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, cháy

rừng ở U Minh. đã cướp đi sinh mạng của nhiều người, thâm hụt vào
ngân sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng - một con số khơng nhỏ đối với một
quốc gia cịn nghèo như Việt Nam. Ngồi ra, đi đơi với sự suy giảm mơi
trường, các bệnh về thời tiết cũng gia tăng, thiệt hại người do các bệnh về
đường nước tăng như sốt rét, tiêu chảy... Các bệnh liên quan đến đường
ruột bệnh giun, bệnh sán máng, giun trong máu. các bệnh về hô hấp như
viêm phổi, ung thư phổi. Cuộc sống của con người đang bị đe doạ.

4. Giải pháp giải quyết vấn đề


Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường
quan hệ thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ
tục đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), tham gia tích
cực vào các định chế kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, ASEM... và đặc
biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Để hàng Việt Nam có chỗ đứng và
khả năng cạnh tranh với các nước khác chúng ta cần:














Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở công
nghiệp
Khuyến khích sử dụng cơng nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và
vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công
nghiệp.
Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thốt nước, xử lí nước thải công nghiệp
trước khi thải ra môi trường.
Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp,
chất thải y tế và các loại chất thải khác.
Thực hiện chủ chương xanh hố đơ thị và khu công nghiệp, xây dựng hành
lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt
hàng nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu,
các giống mới.
Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người
sử dụng cũng như cho đất trồng.
Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái

Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước củachúng ta cần:




Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khốn rừng
Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép

Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật


• Khai thác gỗ hợp lí
• Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để cơng tác kiểm lâm

được chặt chẽ hơn, ngồi ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính sách ưu đãi
hơn
• Khai thác dầu hợp lí
• Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm
• Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường


KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên con đường cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất nước với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản
nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện nâng cao chất lượng
cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là vấn đề quan trọng trong công
cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay cũng như về lâu dài. Tất cả
các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong quá trình quy hoạch phát triển trước đây
cần phải được vận dụng triệt để cho quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh
được những hậu quả có thể xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát
triển kinh tế. Chúng ta bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế q
trình phát triển kinh tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho
quá trình phát triển tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của
mỗi con người chúng ta. Do đó, bảo vệ mơi trường và tăng trưởng kinh tế có sự
thống nhất.Có phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ mơi trường
và có bảo vệ mơi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn định.
Do thời gian cũng như vốn hiểu biết cịn hạn chế, tiểu luận khơng tránh khỏi
nhiều sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý đồng thời cũng hy vọng có thêm

nhiều đề tài chuyên sâu về vấn đề này trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm
ơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
G.s Lê Quý An, Du lịch và mơi trường, Tạp chí Du lịch, số 12, 1999.
Nguyễn Anh, Hội thảo khoa học về môi trường chuyên ngành mỏ, luyện kim,
hố chất, Tạp chí Cơng nghiệp, số 19, 1999.
Craig Leisher, Môi trường Việt Nam những điều cần làm, Tạp chí Bảo vệ mơi
trường, số 7, 2001.
Lê Minh Đức, Bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, Con
số và sự kiện, số 12, 1999.
Th.s Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Đặng Thị Thu Hoài, Hội nhập kinh tế thế giới với
bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Chun đề mơi trường kinh tế, 2001.
T.s Nguyễn Đắc Huy, Đinh Đức Tường, Nguyễn Mỹ Hoàng, Một vài suy nghĩ về
quản lý môi trường trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam, Tạp chí Chun đề
Mơi trường kinh tế, 2001.
T.s Trần Thanh Lâm, Một tiếp cận mới trong quản lý thương mại và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, Tạp chí Xây dưng, số 3, 2002.
Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững, Tạp chí
Bảo vệ mơi trường, số 6, 2002.
Nhiều tác giả, Định hướng nhà nước và hiện trạng mơi trường ở Việt Nam, Tạp
chí Cơng nghiệp, số 18, 2000.
Nhiều tác giả, Môi trường, quá khứ, hiện tại, tương lai, Tạp chí Khoa học cơng
nghệ và mơi trường, số 7, 2002.
T.s Danh Sơn, Các lợi ích về bảo vệ môi trường ở nước ta, Tạp chi Bảo vệ môi
trường, số 2 năm 2001.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lênin - NXB Chính trị
quốc gia (tr100 -101) năm 2016
Tạp chí phát triển nhân lực, số 5(26) - 2011: Giữ gìn và phát huy giá trị truyền

thống của con người Việt Nam - một yêu cầu tất yếu khách quan trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa - TG: Trương Hồi Phương



×