Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tài liệu Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.95 KB, 96 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 1






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Đề tài: Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng
ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc
Hà nội







Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 2

Lời nói đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay , bất kỳ một quốc gia nào trên
thế giới cũng coi mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng cần đạt được
. Nhưng để đạt đượcmụa tiêu quan trọng đó đòi hỏ chính phủ phải có những
chính sách , chiến lược phù hợp và hiệu quả để sử dụng tối đa những nguồn lực


hiện có của đất nước mình , đồng thời phải kế thừa và phát triển những tinh hao
của thế giới .
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường tài chính đóng vai trò hết sức
quan trọng , sự lớn mạnh của thị trường tài chính nó ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế của một quốc gia và cuả cả thế giới . Chủ thể quan trọng của thị trường
tài chính là Ngân hàng , nó có mặt trong tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trường . Vì thế muốn một nền kinh tế ổn định và phát triển thì đòi hỏi
bản thân hệ thống Ngân hàng cũng phải ổn định và phát triển bởi nếu nó không
ổn định thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế từ đó dẫn đến
làm suy giảm nền kinh tế .
Tín dụng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là:
Nhận tiền gửi , hoạt động tín dụng, trung gian thanh toán , hơn nữa nó là nguồn
sinh ra lợi nhuận nhiều nhất cho Ngân hàng thương mại vì thế mà muốn hệ
thống Ngân hàng ổn định và phát triển thì đòi hỏi chất lượng hoạt động tín dụng
cũng phải ổn định và hiệu quả .
Xuất phát từ quan điểm đó mà em đã chọn đề tài nghiên cứu là :
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chât lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà nội ”.
Với thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà
nội , một Chi nhánh hoạt động trên địa bàn Gia Lâm cùng với số liệu thống kê từ
năm 2000 trở lại đây em hy vọng rằng mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé nào
đó của mình vào công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 3

Kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm:
ChươngI : Tín dụng Ngân hàng và chất lượng của tín dụng trong nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa .
ChươngII: Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư &Phát triển Bắc Hà nội và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng .

ChươngIII: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Hà Nội
trong những năm trước mắt .
Qua chuyên đề này em xin gửi lời cảm ơn đến các Cô, Bác, Anh , Chị phòng
tín dụng và các phòng ban khác của Chi nhánh . Đặc biệt em xin chân thành cảm
ơn thầy giáo Lục Diệu Toán đã giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt
chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Sinh viên
Trần Quang Huy








Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 4

Chương I
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
I . tín dụng và vai trò của tín dụng tong nền kinh tế thị trường.
1. khái niệm về tín dụng và sự cần thiết của tín dụng.
1.1.khái niệm và đặc điểm của tín dụng.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán chủ yếu trong tất
cả các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì
tốc độ quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ

thể kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa
vào các chủ thể kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ
tín dụng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể
nói cơ sở hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tưởng và
nhu cầu về vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu
ra một khái niệm chung về quan hệ tín dụng như sau :
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời
và dựa trên nguyên tắc hoàn trả tin tưởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ
xảy ra trong thời gian nhất định và phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn
nhau. Nói chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu khác
nhau về tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam
đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng như sau:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động
để cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để
khách hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 5

vay , chiết khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác
.
Dù đứng trên quan điểm như thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín
dụng không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngườn cho vay chỉ nhường
quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không
nhường quyền sở hữu và người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay khi
đến hạn đã thoả thuận . Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà
còn được tăng thêm dưới hình thức lãi suất.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ tín dụng
Xuất phát từ cơ sở hình thành cũng như khái niệm về quan hệ tín dụng ta có
thể đưa ra một số đặc điểm về quan hệ tín dụng như sau:

- Trong quan hệ tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu mà chỉ thay
đổi quyền sử dụng trong một thời gian nhất định .
- Giá cả trong quan hệ tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
- Người cho vay nhận được thu nhập dưới hình thức lãi suất . Lãi suất là giá
cả của quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá cả trong quan
hệ tín dụng không ngang bằng với giá trị mà giá cả trong quan hệ tín dụng là
biểu hiện bằng tiền của giá trị quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất
định
- Thời gian được xác định trên cơ sở giữa người đi vay và người cho vay.
- Quan hệ tín dụng được dựa trên yếu tố tin tưởng .
1.2.Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng được
hình thành và phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị
trường tài chính tiền tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế
thị trường tiền tệ là một phạm trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ
hoá là yếu tố cần thiết của quá trình sản suất . Trong nền kinh tế hàng hoá tiền
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 6

tệ tham gia vào quá trình tuần hoàn vốn . Trong quá trình đó phát sinh tình
trạng tạm thời nhàn rỗi và tạm thời thiếu vốn ở các doanh nghiệp cũng như
toàn bộ nền kinh tế .
Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trường,
điều này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện
và khẳng định mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh
đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động;
Khoa học công nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành
nên hai yếu tố còn lại. Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua được máy móc
thiết bị , vây dựng nhà xưởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê được lao động ,

đào tạo được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn.
Nhưng rõ ràng là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ
không thể đảm bảo được tất cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong
nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ
sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng được hình thành một cách khách quan trong
chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường , chỉ có quan
hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung , các
doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là tổ chức tài chính trung gian cung cấp
nghiệp vụ đó , đồng thời là người điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu góp
phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trường ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện
tượng: “ Tạm thời thừa vốn” và “ Tạm thời thiếu vốn “
1.2.2.1. “Tạm thời thừa vốn”.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lượng vốn nhàn rỗi
trong một thời gian nhất định. Điều nay được thể hiện cụ thể trong từng chủ
thể của nền kinh tế .
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 7

- Chính phủ :
Trong nền kinh tế quốc dân việc thu chi xảy ra không đồng thời, thông
thường các khoản thu nhập thì tạp trung theo định kỳ còn các khoả chi thì được
phân bổ dần dần nên trong một khoảng thời gian nhất định sẽ xuất hiện số tiền
nhàn rỗi từ Ngân sách nhà nước
- Các doanh nghiệp :
Nguồn thu của các doanh nghiệp và nguồn chi của các doanh nghiệp có sự
không thống nhất về mặt thời gian vì những lý do: Hàng hoá sản xuất ra đã tiêu
thụ được ; Lương của các công nhân chưa đến hạn trả; Tiền chưa phải trả do
mua chịu hàng hoá; Dự trữ của doanh nghiệp ; Chưa phải thực hiện nghĩa vụ
tài chính và trả lãi suất Ngân hàng ; Các quỹ chưa được sử dụng ; Lợi nhuận

của doanh nghiệp Điều này dẫn đến các doanh nghiệp luôn có một lượng
vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất định.
- Cá nhân người tiêu dùng:
Trong hoạt động sản suất kinh doanh , các cá nhân trong xã hội sẽ nhận
được phần thu nhập của mình dưới các hình thức : tiền lương, tiền thưởng, phụ
cấp, lợi nhuận thu được Một phần của các phần thu nhập này không chỉ tiêu
dùng ngay mà còn để dành tiêu dùng trong tương lai . Phần tiền để dành này
hình thành lượng vốn tiền tệ nhàn rỗi rất lớn trong nền kinh tế
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ nước ngoài:
Mỗi quốc gia vì lí do như là muốn tham gia vào các tổ chức quốc tế hay là
để đảm bảo an toàn cho nên kinh tế cũng như ổn định đồng tiền trong nước họ
thường giữ một khoản tiền tại các Ngân hàng ở nước ngoài để giao dịch hay
một định chế tài chính quốc tế hoặc có một lượng vốn dồi dào mà không đêm
đầu tư tiếp . Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến mỗi quốc gia đều
có một tài khoản của mình ở nước ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 8

tạo nên một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian
nhất định.
1.2.2.2. “ Tạm thời thiếu vốn”.
Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lượng tiền mặt tạm
thời để trang trải cho những hoạt động kinh tế trước mắt đòi hỏi phải chi tiền
mặt . Và điều này được thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một
đất nước , Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng , các
công trình mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà tư nhân không
có đủ khả năng và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu tư chính phủ lấy từ
Ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng đôi khi NSNN không đủ vì chưa đến hạn

thu thuế dẫn đến sự thiếu vốn đấu tư Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh
doanh dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh
nghiệp lại là một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm
doanh nghiệp này thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được
hàng, chưa thu được tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ ,
phải trả lương Dẫn đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn.
- Cá nhân:
Người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thường hoặc những
khoản chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhưng họ có khả năng
bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu
dùng của cá nhân .
Từ sự phân tích ở trên ta thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu
cho vay và đi vay . Hai nhu cầu này có đặc điểm chung là đều nhằm thoả mãn
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 9

nhu cầu hiện tại của các chủ thể kinh tế và nó xảy ra trong thời gian ngắn.
Khác nhau ở cho vay và đi vay là quyền sở hữu, người cho vay vẫn có quyền
sở hữu đối với khoản tiền cho vay còn người đi vay chỉ có quyền sử dụng đối
với khoản tiền được vay trong khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên. Để
giải quyết vấn đề “ Tạm thời thừa vốn “ và “ Tạm thời thiếu vốn “ thì quan
hệ tín dụng ra đời và nó không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng.
2.1. Chức năng của tín dụng.
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
- Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức
cho vay.
- Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh

doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý
doanh nghiệp với các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
2.2. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn
ra thường xuyên liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp:
Một nhóm “ tạm thời thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm
lời trong một thời gian nhất định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn
tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động
tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả mãn về vốn và dẫn đến
quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương xuyên, liên tục, nguồn
vốn được sử dụng một cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một
nguồn vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 10

thành sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn
như vậy thì chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín
dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp
ứng nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua
quan hệ tín dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có
được nhà ở, phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương
thức vay trả góp.
Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín
dụng lại quyết định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các

Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết
khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng
và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng.
ứng với mỗi tiêu thức khác nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta
có thể dựa trên những tiêu thức sau:
- Theo kỳ hạn nợ.
- Theo mục đích sử dụng vốn.
- Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 11

- Theo phương pháp hoàn trả .
- Theo loại hình tiền tệ.
3.1.1. Theo kỳ hạn nợ.
Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thương mại(NHTM) được phân
làm ba loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
- Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự
thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của cá nhân. Khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
+ Cho vay mua hàng dự trữ.
Từ trước tới nay, ngân hàng thường cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung
tạm thời vốn hoạt động. Trên thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới thứ II,

ngân hàng chủ yếu tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới hình thức
các khoản cho vay mang tính tự thanh toán (self-liquidating loans). Các khoản
cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như
nguyên liệu thô Các khoản cho vay như vậy tận dụng được chu kỳ tiền mặt
thông thường trong một hãng kinh doanh như sau:
1. Tiền mặt được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành
phẩm hoặc thành phẩm.
2. Hàng hoá được sản xuất hoặc dữ trữ để bán.
3. Hàng đã bán(thường là bán chịu).
4. Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán
chịu) và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng
cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90
ngày) khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân
hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 12

+ Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn
kéo dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng
để mua hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm
gần giống với các khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức
sản xuất và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví
dụ một hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh
vào mùa thu và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các
khoản tín dụng ngắn hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê
thêm công nhân nhằm tăng sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ
trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 . Ngân hàng của hãng lập ra một hạn

mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể
rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy mô của hạn mức tín dụng được xác định
trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời
điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng.
Thông thường các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các
khoản phải thu hoặc thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi
suất thả nổi trên lượng tiền thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết được
tính trên phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi tính trên toàn
bộ giá trị của hạn mức. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có số dư
bù tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được
xác định trên cơ sở quy mô hạn mức tín dụng và một lượng tiền gửi bắt buộc
bổ xung bằng một tỉ lệ phần trăm quy định trên tổng lượng tín dụng mà khách
hàng thực sử dụng.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 13

Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng
thương mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn
phòng, trung tâm thương mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng
công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời. Các khoản
cho vay này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây
dựng, mua vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn xây dựng
kết thúc, bên thi công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính
khác, để lấy tiền thanh toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực
tế chỉ khi Công ty xây dựng chắc chắn có một cam kết cho vay thế chấp để tiếp
tục tài trợ dài hạn cho các dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân
hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. Gần đây một vài
ngân hàng đã cho vay với thời hạn khá dài 5 đến 7 năm, cung ứng vốn cho việc
xây dựng và hoạt động trong giai đoạn đầu của công trình.

+ Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Những người kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán tư nhân
thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh
mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán
hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối
với người kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng
cao, thường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh
chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có
kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể
nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu
thị trường tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức
ngân hàng đầu tư. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ
phiếu công ty và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 14

khoán thường diễn ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua
lại công ty khác, giúp đỡ Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành
thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh
nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới. Khi ngân hàng bán chứng khoán mới
cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn
trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ
dùng gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các
khoản phải thu mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký
hợp đồng bán trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ
xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp
đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay

vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền
khác Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch
sản xuất. Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ có thể yêu cầu
hãng sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản vay như vậy có kỳ hạn
90 ngày và sau đó nó có thể được tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài
tháng. Để có được khoản tín dụng này người bán lẻ phải ký hợp đồng bảo đảm
an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp họ
không thể thanh toán khoản vay. Sau đó, nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng
cho người bán lẻ và gửi đơn thanh toán cho ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ
cử cán bộ đến kiểm tra hàng hoá trong kho của người bán lẻ để xác đinh lượng
hàng đã được bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi bán được hàng hoá, người
bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân hàng để thanh toán dần khoản nợ cho ngân hàng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 15

Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất kỳ một hàng hoá nào đã được bán
mà ngân hàng không nhận được tiền thanh toán thì cán bộ ngân hàng sẽ yêu
cầu người bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu người bán lẻ
không thanh toán được, ngân hàng có thể buộc thu hồi hàng và trả một phần
hoặc toàn bộ số hàng đó cho nhà sản xuất kinh doanh để thu hồi số vốn cho
vay. Hợp đồng kế hoạch sàn thương bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín
dụng, tích luỹ các khoản lãi thu được khi người vay trả tiền.
Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không được
hoàn trả. Khi dự phòng tổn thất tín dụng đạt tới mức định trước, người bán lẻ
sẽ được giam trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
+ Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín
dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng được dự tính sẽ
chuyển thành tiền mặt trong tương lai. Ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong

tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản chủ yếu được dùng để bảo đảm cho các khoản
vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho.
Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài
khoản phải thu, hoặc trên giá trị hàng tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng
cho vay một khoản tiền bằng 70% khoản phải thu trên tài khoản thanh toán
vãng lai của doanh nghiệp. Một cách khác ngân hàng có thể cho vay tới 40%
giá trị hàng tồn kho hiện tại của doanh nghiệp gồm hàng hoá đang bán hoặc
hàng hoá trong kho. Khi thu hồi được các khoản phải thu hoặc bán được hàng
doanh nghiệp sẽ chuyển một phần tiền mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền
vay.
Đối với hầu hết những khoản vay được thế chấp bằng các khoản phải thu
hay hàng tồn kho doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với các tài sản
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 16

đó. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để
hạn chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính.
- Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu
được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết
bị, công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy
mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải
có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các
loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.
+ Cho vay theo dự án.

+ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.
3.1.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Hoạt động cho vay bao gồm: Cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
- Cho vay tiêu dùng:
Là loại cho đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm
nhà cửa, xe và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng
rất phát triển ở các nước Âu Mỹ. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở
nước ta nhưng áp dụng còn rất hạn chế bởi mức sống trung bình của người dân
chưa cao, việc thanh toán bằng thẻ đang được chú trọng nhưng chưa thực sự
phát triển, hiểu biết của người dân về loại hình tín dụng này chưa nhiều.
- Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 17

Là hoạt động cho vay đối với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Hoạt động cho vay này đã xuất hiện từ rất sớm và rất
phát triển trên thế giới, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các
ngân hàng thương mại.
3.1.3. Theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Trong cho vay, để giảm thiểu rủi ro, tổn thất có thể xảy ra cho Ngân hàng
đối với những khách hàng không thực hiện đúng cam kết thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu các
khoản cho vay phải có bảo đảm. Việc bảo đảm đối với khoản vay là rất cần thiết
bởi một mặt với doanh nghiệp sẽ phải có ý thức hơn trong kinh doanh và trả món
nợ, mặt khác đối vơi ngân hàng việc có bảo đảm đối với các khoản vay của
doanh nghiệp tạo nên tâm lý yên tâm hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm
và do đó cũng có nhiều loại cho vay theo hình thức bảo đảm khác nhau như cho
vay cầm cố, cho vay thế chấp, cho vay bảo lãnh
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và

không có bảo đảm.
- Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
- Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà
dựa trên uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách
hàng được ngân hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng
truyền thống của ngân hàng có uy tín và độ tin cậy cao.
3.1.4 Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại:
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 18

- Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và
lãi theo định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn
trả có thể hàng tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.
- Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
3.1.5 Theo loại hình tiền tệ.
- Cho vay bằng ngoại tệ.
- Cho vay bằng nội tệ.
- Cho vay bằng vàng.
3.2 Hoạt động cho thuê tài chính(Leasing).


Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng
thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản
đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đông thuê. Trong thời hạn cho
thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. ở Việt nam hoạt động

này đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây và nó đã trở thành
nguồn quan trọng để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được công nghệ mới.
3.3 Hoạt động bảo lãnh
Theo quy chế về bảo lãnh Ngân hàng của Ngân hàng nhà nước Viết nam
ban hàng ngày 25/08/2000, bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ
chức tín dụng( bên bảo lãnh) với bên(nhận được bảo lãnh) có quyền về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
3.4 Hoạt động chiết khấu
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 19

Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua lại thương phiếu , giấy tờ có giá
ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Trong hoạt động này có một hoạt động đáng chú ý đó là hoạt động tái
chiết khấu. Hoạt động tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Tại Việt
nam do việc kém phát triển trong việc phát hành và lưu thông các thương phiếu
cũng như các giấy tờ có giá khác, nên hoạt động này mặc dù đã xuất hiện
nhưng chưa phát triển mạnh. Hoạt động chiết khấu tại Ngân hàng thương mại
chủ yếu được tiến hành với trái phiếu Chinh phủ hoặc trái phiếu , kỳ phiếu của
các Ngân hàng thương mại quốc doanh.

Hoạt động tín dụng có nhiều nghiệp vụ như vậy nhưng trong chuyên đề
nghiên cứu này ta chủ yếu đi sâu nghiên cứu hoạt động cho vay ngắn hạn của
Ngân hàng. Vì vậy từ giờ trở đi ta thống nhất một thuật ngữ tín dụng ngắn hạn
là để chỉ hoạt động cho vay ngắn hạn.
II. Quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng.

Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách
hàng, các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là
các bước(hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên
quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của phân tích tín
dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và sử lý thông tin liên quan đến khách hàng
bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và
nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên
quan đến người vay.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 20

Bằng các phương pháp như : phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm thông
tin qua các trung gian(qua các cơ quan quản lý, qua cac bạn hàng chủ nợ khác
của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn), thông qua các báo cáo
của người vay trính cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ có được những thông tin về
khách hàng của mình, một điều quan trọng đối với Ngân hàng là phải xử lý
được các thông tin đó, làm sao phải xác định được tín trung thực của những
thông tin mà Ngân hàng có được.
Nội dung phân tích chủ yếu của bước này là phải tập trung vào:
- Đánh giá tài sản của khách hàng, việc đánh giá tài sản của khách hàng là
điều quan trọng đối với Ngân hàng bởi vì tài sản(một phần hoặc tất cả) của
khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu
hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. Khi đánh giá tài sản của khách
hàng thì Ngân hàng tập trung vào: Ngân quỹ, các chứng khoán có giá, hàng
tồn kho, tài sản cố định.
- Đánh giá các khoản nợ của khách hàng là một công việc quan trọng mà
Ngân hàng cần phải làm bởi vì thông qua việc đánh giá các khoản nợ mà
Ngân hàng biết được tình khả năng tài chính của khách hàng, đồng thời

Ngân hàng cũng biết được vị trí của mình trong các chủ nợ. Nếu Ngân hàng
giành được vị trí quan trọng nhất thì nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí
khác.
- Phân tích luồng tiền: Thông qua việc xác định hoặc dự báo dòng tiền thực
nhập quỹ(gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền nhập
quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường) và
dòng tiền thực xuất quỹ( gồm: dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh
doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện đầu tư, dòng tiền xuất quỹ thực hiện
hoạt động bất thường) Ngân hàng có thể biết được tình trạng ngân quỹ của
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 21

khách hàng trong tháng, quý, hay năm. Từ đó Ngân hàng có thể thiết lập kế
hoạch thu nợ, giải ngân hợp lý, nâng cao chất lượng khoản vay.
- Sử dụng các tỷ lệ như: Nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời để đánh
giá khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn
hạn và khả năng tạo lợi nhuận của người vay.
- Các điều kiện kinh tế: Có thể thấy nghĩa vụ của khách hàng đối với Ngân
hàng đều xảy ra trong tương lai vì thế khả năng hoạt động kinh doanh của
khách hàng trong tương lai được Ngân hàng đặc biệt quan tâm phân tích.
Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các
điều kiện kinh tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị,
khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành làm thay
đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách
hàng.
Bươc 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài
trợ(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp
cho khách hàng một khoản tín dụng(hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản
thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật

xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải
tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. So vậy, cả Ngân hàng và
khách hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng gồm những khoản mục chính là: Họ tên, địa
chỉ của khách hàng; mục đích sử dụng vốn; số lượng tín dụng; lãi suất; phí; thời
hạn tín dụng; các loại bảo đảm; kế hoạch giải ngân; điều kiện thanh toán và các
điều kiện khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 22

Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp
tiền cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng
kiểm soát khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không?
Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo
hoặc làm ăn thua lỗ hay không? Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập
thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho
thấy chất lượng tín dụng đang được bảo đảm. Ngược lại khi các khoản vay bị đe
doạ Ngân hàng có các biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi
nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay khi
thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu
thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra quyết định cụ
thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Ngoài những
khoản tín dụng được đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn còn có những khoản nợ
quá hạn đòi hỏi Ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân để kịp thời đưa ra những
quyết định mới liên quan đến tín an toàn của tín dụng.
- Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa,

hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng
phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi
được khoản nợ, bao gồm phong toả, bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các
khoản tiền gửi
- Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm
cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác,
bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 23

III. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
đối với ngân hàng.
1. Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong
nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì
thế vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các
Ngân hàng. Tuy vậy để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không
phải là dễ, bởi lẽ mỗi khái niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu
trên quan điểm nào. Như ta đã biết mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan
niệm khác nhau về chất lượng tín dụng.
1.1. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là
dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
Mục tiêu của họ là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa
hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá
chất lượng tín dụng của ngân hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn,
quy mô, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà
ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của họ hay không, làm sao để các thủ
tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý.
Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì khoản

tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả
mãn nhu cầu của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy
mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ
1.2 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.
Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng
phải hoạt động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 24

hữu thì càng tốt. Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp
khác là Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
với 3 nghiệp vụ cơ bản: Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì
thế theo quan điểm của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng với các yếu tố cấu
thành cơ bản đó là mức độ an toàn của tín dụng và khả năng sinh lời do hoạt
động tín dụng mang lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả
năng sinh lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các
nhà đầu tư là phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên
tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng
cao thì sẽ có khả năng sinh lợi càng cao và ngược lại.
Hơn nữa hoạt động của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro bởi lẽ số
tiền ngân hàng cho vay có tới hơn 50% là nguồn vốn ngoài vốn chủ sở hữu. Vì
thế nếu như Ngân hàng không cân nhắc thận trọng thì sẽ lâm vào tình trạng “
Mất khả năng thanh toán “.
Đối với Ngân hàng, một khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao khi khoản
tín dụng đó đến hạn thanh toán thì sẽ hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi. Do đó theo
quan điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín
dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của
hoạt động tín dụng Ngân hàng.

1.3 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể
kinh tế trong nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát
triển theo chiều sâu sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Như vậy đứng trên quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất
lượng tín dụng là: Sự đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các
khoản tín dụng của Ngân hàng đem lại.
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp.
Sinh viªn: TrÇn Quang Huy - Líp NH 41A. 25

2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm
năm. Nó là ngành mang lại cho giới Ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời
nó cũng là ngành chịu nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro đáng sợ đối với
Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính
gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân hàng, bằng chứng là đã xảy
ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới Có thể nói bất kỳ một quốc
gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn đề nâng cao
chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với khách
hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
Về phía Ngân hàng: Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh:
bỏ vốn của mình ra và mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy
đảm bảo chất lượng cho các khoản vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân
hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại ở
Việt nam hiện nay không còn là cái bóng của Ngân hàng Trung Ương mà đã và
đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập, tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ
chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà
Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một
nền kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát

khỏi tư tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do
đó việc làm ăn của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì
thế để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp
vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết
về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có như thế thì Ngân hàng mới mở
rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn giúp doanh nghiệp tránh
khỏi được những rủi ro không đáng có.

×