Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

THU HOẠCH tư tưởng hồ chí minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong di chúc chủ tịch hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.49 KB, 50 trang )

1

THU HOẠCH-Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng
và dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi,
nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn, trước
khi đi xa đã để lại cho dân tộc ta, đất nước ta một di sản vô
cùng quý giá - Di chúc của Người.
Di chúc đã trở thành di sản tinh thần vô cùng quý giá, kết
tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội
dung tư tưởng cốt yếu định hướng phát triển lâu dài cho cách
mạng Việt Nam. Đó là những tình cảm thắm thiết và niềm tin


2

vững chắc của Người đối với nhân loại tiến bộ, mà trước hết là
với Đảng ta, nhân dân ta và các thế hệ mai sau.
Di chúc là một văn kiện lịch sử phản ánh tập trung nhất tư
tưởng, đạo đức và tác phong của Người, thể hiện tinh thần
trách nhiệm lớn lao, lo lắng mọi bề đến tương lai của dân tộc ta,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và loài người. Tư tưởng trong Di
chúc thể hiện nguyện vọng, ý chí và quyết tâm đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Với ý nghĩa
đặc biệt đó mà “Di chúc của Người hiện nay cũng như sau này
không những chỉ là của nhân dân Việt Nam mà còn dành cho


tất cả dân tộc, các đảng đang đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản, dù ở châu Á, châu Âu hay ở bất cứ nơi
nào trên các lục địa”1
Trong Di chúc, Người khái quát những nhiệm vụ chiến lược
và những vấn đề mấu chốt mà Đảng và nhân dân ta phải nắm

1

Hồ Chí Minh - Sự hội tụ tinh hoa tư tưởng đạo đức nhân loại, Nxb Văn hóa thơng tin, H. 2007, tr.595.


3

vững để hoàn thành sự nghiệp cách mạng. Hơn 40 năm đã qua
kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di chúc" căn dặn toàn
Đảng, toàn dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng, những việc
cần phải làm vì sự nghiệp cách mạng. Những lời dặn của
Người trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau vẫn giữ nguyên giá trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc...
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó
khơng chỉ là lực lượng trực tiếp gánh vác và giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội ngũ kế cận, nguồn bổ sung có
đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển sự nghiệp của
những thế hệ đi trước. Trong "Di chúc", Người nhắc nhở toàn
Đảng, toàn dân phải luôn ghi nhớ rằng, "Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" 2.
Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa học của một lãnh
tụ cách mạng, phản ánh tầm nhìn xa trơng rộng của một nhà
2


Hồ Chí Minh, Tồn tập, NxbCTQG, Hà Nội, 1995, Tập 12, tr.498


4

hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó đã trở thành một chân lý của
cách mạng.
Với ý nghĩa đó, trong học phần nghiên cứu tác phẩm kinh
điển của Hồ Chí Minh, tôi đã lựa chọn vấn đề: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong “Di
chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh” làm nội dung viết thu hoạch.

NỘI DUNG


5

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau trong “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”
1.1 Bối cảnh ra đời của Di chúc
Hồ Chí Minh bắt đầu viết bản Di chúc từ tháng 5 năm 1965.
Đây là những năm tháng đầy thử thách, khó khăn và quyết liệt
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự phá sản của
chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đã đẩy Mỹ - ngụy vào một
cuộc khủng hoảng chính trị triền miên. Các cuộc đảo chính liên
tiếp xảy ra đã làm cho sự rối loạn của chế độ bù nhìn tay sai
càng thêm trầm trọng. Đế quốc Mỹ buộc phải đưa mấy chục
vạn quân vào cùng với hơn một triệu quân ngụy nhằm đẩy
mạnh cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thời cho

máy bay và tàu chiến tăng cường đánh phá miền Bắc.
Trên thế giới một vấn đề tranh luận lớn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế trong những năm 60 là vấn đề
đánh giá đế quốc Mỹ. Khuynh hướng đánh giá quá cao sức


6

mạnh Mỹ đã đẻ ra tư tưởng do dự, hữu khuynh, hồ bình chủ
nghĩa, sợ một xung đột nhỏ có thể gây ra chiến tranh hạt nhân.
Chính đế quốc Mỹ đã lợi dụng cuộc khủng hoảng đó trong
phong trào cách mạng thế giới để đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược Việt Nam với một số lượng bom đạn lớn hơn nhiều lần số
bom đạn được dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong tình hình quốc tế phức tạp đó, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đánh giá sức mạnh của đế quốc Mỹ và xác định
quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Từ sự phân tích khoa học và sáng suốt tình hình ta và Mỹ,
Người đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân ta khẳng định quyết
tâm chiến lược trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước: "Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì quý


7

hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây
dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!" 3

“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do!” là ý chí, là nguyện
vọng của tồn dân Việt Nam, là chân lý của thời đại. Hưởng
ứng lời kêu gọi vang dậy núi sơng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quân và dân ta từ Nam chí Bắc, phát huy lòng yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, lại được sự giúp đỡ có hiệu quả
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và bè bạn trên thế giới,
đã làm phá sản hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 19651966 và 1966-1967 của Mỹ - ngụy; đã tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt đầu xuân 1968, dồn đế quốc Mỹ ngày càng lún sâu
vào thế phòng ngự chiến lược. Quân dân miền Bắc đã đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, bắn rơi trên 3.000 máy bay,
tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn bị thương
hơn 150 tàu chiến của địch.

3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, NxbCTQG, Hà Nội, 1995, Tập 12, tr.108

X


8

Do kết quả đấu tranh anh hùng và đầy hy sinh của nhân
dân hai miền Nam - Bắc, lại được sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân tiến bộ Mỹ và nhân dân u chuộng hồ bình trên thế
giới, đế quốc Mỹ bị thất bại ê chề, buộc phải xuống thang chiến
tranh, cam kết ngừng ném bom nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ khơng điều kiện và từ tháng 5-1968 phải ngồi vào thương
lượng với ta ở Hội nghị Pari. Cuối năm đó, từng bộ phận lính
Mỹ, xuống tàu về nước, chấp nhận sự phá sản của chiến lược

"Chiến tranh cục bộ", chấp nhận sự thất bại thảm hại của cuộc
đụng đầu lịch sử.
Gặp gỡ cán bộ cao cấp toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phân tích mối quan hệ giữa thế và lực trong chiến tranh bằng
một ví dụ dễ hiểu: Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực
nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được vật nặng hàng
chục, hàng trăm kilơgam. Đó là thế thắng lực. Người kết luận:


9

Thế ta thắng đã rõ ràng. Thế địch thua đã rõ ràng, nhưng chúng
còn ngoan cố, chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mn vàn kính u của chúng ta
khơng sống đến ngày thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc. Nhưng trước khi đi xa, Người còn để lại cho chúng ta
phương châm chiến lược "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào", vạch cho chúng ta phương hướng thắng địch từng
bước, đánh đổ địch từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi hoàn
toàn. Đội ngũ kế cận của Người đã thực hiện một cách xuất sắc
và đầy sáng tạo Di chúc của Người trong những hoàn cảnh
phức tạp. Thắng lợi của Hiệp định Pari đã buộc Mỹ phải đơn
phương rút quân về nước, giữ nguyên tại chỗ lực lượng quân
sự của ta, đã làm thay đổi so sánh lực lượng địch ta, dẫn đến
đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, hoàn thành sự


10


nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện được nguyện vọng
thiêng liêng của Bác Hồ: Tổ quốc thống nhất, Nam - Bắc một
nhà.
Di chúc được bắt đầu viết từ năm 1965 cho đến khi Người
đi xa, trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của nước nhà, những lời
căn dặn của Người không những là ngọn đèn pha soi sáng cho
cách mạng Việt Nam mà nó cịn trở thành động lực to lớn thúc
đẩy toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đứng lên đấu tranh,
giành thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa
xã hội.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau
Trong tồn bộ bản Di chúc, Hồ Chí Minh đã di huấn lại
những nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam cần phải thực
hiện trong giai đoạn tiếp theo trên cơ sở đánh giá cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới; dự báo xu hướng


11

phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; để
lại tình cảm của Người trước lúc đi xa đối với dân tộc Việt Nam
và nhân loại tiến bộ, u chuộng hịa bình. Đặc biệt, Người rất
quan tâm đến thế hệ trẻ và coi việc bồi dưỡng thế hệ trẻ là một
công việc hết sức quan trọng.
Tư tưởng bồi dưỡng thế trẻ cho cách mạng Việt Nam được
thể hiện sinh động trong toàn bộ thực tiễn hoạt động cách mạng
phong phú, sinh động của Người, gắn bó chặt chẽ giữa lý luận
với thực tiễn, lời nói với việc làm. Tư tưởng đó được thể hiện

trên một số khía cạnh sau:
Một là: Vì sao phải chăm lo xây dựng, bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau?
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu
xa, bất cơng và phi nhân tính thành một xã hội mới, tốt đẹp và
công bằng cho tất cả mọi người là một quá trình đầy cam go,
thử thách. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", khi đề


12

cập đến tính chất phức tạp của những nhiệm vụ cách mạng,
chẳng hạn như vấn đề chính quyền, V.I.Lênin từng nói rằng:
đấu tranh giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính
quyền cách mạng cịn khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, chết
rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì; nhân dân chỉ
hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc
ấm...Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy
những quyền con người hết sức tự nhiên và chân chính ấy.
Nhưng, chủ nghĩa xã hội khơng phải muốn là tức khắc có ngay,
mà chỉ có thể là kết quả của cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con
người.
Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là
một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn
khác nhau và do vậy, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên mình
của nhiều thế hệ cách mạng. Thực vậy, trong tiến trình ấy,


13


những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải quyết thành cơng
nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có khơng ít cơng việc cịn dang
dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống ln đặt ra những vấn đề mới
đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Theo đó, nếu thiếu lực lượng kế
cận xứng đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp
khó khăn, mà ngay cả những gì đã có cũng khó được gìn giữ,
bảo tồn. Người nói: Theo quy luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu
thì phải chết. Nếu khơng có cán bộ mới vào thì ai gánh vác
cơng việc của Đảng?
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể
hiện sự vĩ đại, sâu sắc trong tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Với tư tưởng này, Người khơng chỉ thấy hiện tại mà cịn
thấy cả tương lai; không chỉ dành tâm huyết trước mắt cho sự
nghiệp cách mạng mà còn chăm lo vun trồng cái gốc của sự
nghiệp đó để nó trở nên vững bền. Ở đây, quan điểm biện
chứng duy vật về sự phát triển mà Người tiếp thu từ chủ nghĩa


14

Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo: tương lai đang
ở ngay trong hiện tại.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp cách mạng. Thế hệ trẻ có một vị trí và vai
trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển tương lai của đất
nước. Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh, một phần lớn là do thanh niên”4
Theo Người, thế hệ trẻ bao gồm thanh niên, thiếu niên và

nhi đồng, trong đó thanh niên là lực lượng quan trọng nhất, bởi
họ là cầu nối giữa thế hệ “thanh niên già” với thế hệ “thanh niên
tương lai”. Với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh đã nêu lên
luận điểm nổi tiếng về việc muốn thức tỉnh một dân tộc phải bắt
đầu từ việc thức tỉnh thanh niên. Người kêu gọi: “Hỡi Đông
Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh

4

Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 5, tr.185


15

niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” 5. Với luận điểm nổi
tiếng đó, Người đã mang lại sinh khí mới, thu hút thanh niên
u nước hướng về, đồn kết, thống nhất quanh Người, lập
nên Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam (Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí hội) – đội tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Người đã truyền bá lý luận cách mạng, đạo đức cách
mạng cho họ và lớp thanh niên tiền bối ấy đã thật sự xứng đáng
với niềm tin của Người. Các đồng chí ấy đã trở thành những hạt
giống đỏ, những người cộng sản trung kiên lãnh đạo cách
mạng trong những ngày đầu trứng nước. Những năm 1925 1927 và những năm tiếp theo, Bác đã gửi sang trường “Đại học
phương Đông” của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ hàng chục
thanh niên để đào tạo lực lượng lãnh đạo của Đảng, của đất
nước: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà
Huy Tập…Sau này, những thanh niên ấy đều trở thành những
5


Hồ Chí Minh, Tồn tập, NxbCTQG, Hà Nội, 1995, Tập 2, tr.133


16

lãnh tụ của Đảng thời dựng Đảng. Với tầm nhìn chiến lược về
công tác cán bộ, Bác đã chú trọng gửi đi đào tạo những thiếu
niên. Tiêu biểu là Lý Tự Trọng - một trong những tấm gương
anh hùng của thanh niên, dân tộc và cách mạng.
Hiểu sâu sắc quy luật tự nhiên và xã hội, Người khẳng
định:“Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi
trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.” 6 và “Thanh niên sẽ làm
chủ nước nhà. Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh
niên”
Có thể nói rằng, thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn
trề và năng lực sáng tạo…, đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi
trẻ. Với tư cách là đội dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của
cách mạng và là người chủ tương lai của nước nhà, các thế hệ
trẻ ngày nay, trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự
nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp
người đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của
6

Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 4, tr.167


17

nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh đều do tay mình. Hồ Chí
Minh khẳng định, “thanh niên phải trở thành một lực lượng to

lớn, vững chắc trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, phải là
người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế văn hoá,
trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa cộng sản”7.
Để thế hệ trẻ trở thành người chủ tương lai của nước nhà,
theo Hồ Chí Minh cần phải đặt niềm tin, phải tin tưởng ở họ,
Người đã khẳng định rằng: “Ngày nay chúng ta phải xây dựng
lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao chúng ta
theo kịp với các nước khác trên tồn cầu. Trong cuộc kiến thiết
đó, nước nhà mong chờ các em rất nhiều. Non sơng Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu hay
khơng, chính là nhờ một phần ở cơng học tập của các em”8.

7

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 10, tr.488
8

Hồ Chí Minh, Tồn tập, NxbCTQG, Hà Nội, 1995, Tập 4, tr.33


18

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định, như một lơgíc
tất yếu, việc "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau" là
nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết.
Hai là: Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế
nào?
Như vậy, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc làm rất cần thiết và rất quan trọng, song điều quan trọng là

phải làm như thế nào?
Theo Hồ Chí Minh, để đào tạo thế hệ cách mạng cho đời
sau thì sự nghiệp giáo dục, đào tạo có vai trị hết sức quan
trọng. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp
với lý luận cách mạng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận thức rõ rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do vậy,
ngay từ những ngày đầu mới thành lập chính quyền cách
mạng, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu diệt giặc dốt và nâng
cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai trong số sáu nhiệm vụ cấp bách


19

của đất nước lúc bấy giờ. Đặc biệt, Người đã đưa ra một quan
điểm vừa mang tính chiến lược, vừa mang giá trị nhân văn sâu
sắc mà đến nay, đã trở thành phương châm hành động của
tồn xã hội nói chung, của ngành giáo dục Việt Nam nói riêng.
Trong buổi nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II,
cấp III tồn miền Bắc ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công
dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng và Chính
phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cơ, các
chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong
mọi người phải cố gắng làm trọn nhiệm vụ”9.
Bởi vậy, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn thường
xuyên quan tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục của nước nhà,
coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là phương thức quan trọng nhất
của sự nghiệp "trồng người", là một mắt xích khơng thể thiếu
9


Hồ Chí Minh tồn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 9, tr.222


20

trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ. Nói cách khác, trọng
trách to lớn của ngành giáo dục là đào tạo những người kế tục
sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, theo Người, dù khó khăn đến đâu
cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt; các ngành, các cấp
Đảng và chính quyền địa phương phải quan tâm hơn nữa đến
sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, nhằm
đẩy sự nghiệp giáo dục của nước ta lên những bước phát triển
mới. Có thể nói, "trồng người" là một tư tưởng có ý nghĩa to
lớn, bởi đó là kế lâu bền để phát triển đất nước. Ngày nay, khi
con người được coi là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta càng
cảm nhận thấy chiều sâu trong tư tưởng đó của Người.
Đối với sinh viên và học sinh, để xứng đáng là thế hệ cách
mạng của đời sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi họ phải ra sức
học tập: học tập trong nhà trường, trong gia đình và ngồi xã
hội; học tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống. Học


21

không phải để "làm quan" như trong xã hội cũ, mà là "Để phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh,
tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà" 10 .
Một trong những triết lý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

là học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn. Vì
vậy, bên cạnh quan điểm xác định giáo dục, học tập như một
phương thức chủ yếu để bồi dưỡng thế hệ trẻ, Người còn đòi
hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn
nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết để
sau này có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương,
cộng đồng và xã hội. Theo Người, việc tự rèn luyện, tu dưỡng
đó cần tuân theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì cố làm
cho kỳ được; điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.
Cách đây 63 năm (năm 1947), trong "Thư gửi thanh niên",
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ
10

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 7, tr.399


22

tương lai của nước nhà...Thanh niên muốn làm chủ tương lai
một cách xứng đáng thì ngay từ bây giờ phải tự giác rèn luyện
tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm việc để
chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không thể tách
rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã
hội, nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu,
học hỏi những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống. Thanh niên phải
có tinh thần sẵn sàng: "đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì
khó thì thanh niên làm"; phải đồn kết chặt chẽ, kiên trì phấn
đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất,
góp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Ba là: Để thanh niên, thiếu niên và nhi đồng xứng đáng là
thế hệ cách mạng của đời sau, họ cần được bồi dưỡng những
gì?


23

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ
nghĩa. Muốn làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất
nước, thế hệ trẻ phải được giáo dục, bồi dưỡng một cách
thường xuyên và toàn diện. Có như vậy, họ mới hội đủ các
phẩm chất, năng lực cần thiết, cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh chính
trị, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng những
yêu cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Theo đó, việc bồi dưỡng thế hệ trẻ phải tập trung vào
những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, bồi dưỡng đạo đức cách mạng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ,
nội dung quan trọng hàng đầu là xây dựng đạo đức cách mạng,
giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá
nhân. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức
của người cách mạng là nội dung trước tiên của cuốn sách


24

"Đường kách mệnh". Tư tưởng của Người về đạo đức cách
mạng chứa đựng nhân sinh quan và giá trị quan hết sức sâu
sắc đối với việc xác lập nhân cách, lý tưởng cũng như chuẩn

mực lối sống cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách mạng là đạo đức
mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người
xã hội chủ nghĩa. Bởi, "Cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân"11
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi nhất của đạo
đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này
giống như bốn mùa của trời đất; nếu thiếu một trong bốn phẩm
chất đó thì con người khơng thể trở thành người theo đúng
nghĩa. Nhưng, đạo đức cách mạng khơng phải là cái có sẵn,
khơng phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu
11

Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 5, tr.252.


25

tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày của mỗi người. Do vậy,
Người cho rằng, đối với thế hệ trẻ, phải luôn nỗ lực rèn luyện
đạo đức cách mạng: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng,
vơ tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đồn kết, khơng kiêu
ngạo; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán
những thói hư, tật xấu; thường xun tiến hành phê bình và tự
phê bình... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Thứ hai, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học kỹ thuật
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên cần phải vừa có
đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà khơng có tài thì làm

việc gì cũng khó; người có tài mà khơng có đức sẽ trở nên vơ
dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên
nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển "Dốt thì dại, dại thì hèn" 12.
Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài,
12

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 8, tr.64


×