Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mối quan hệ giữa đô thị hóa và xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.97 KB, 16 trang )

PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ ĐƠ THỊ HĨA
1. Khái niệm
- Đơ thị hóa là sự mở rộng của đơ thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đơ thị
hay diện tích đơ thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó
cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Đơ thị hóa là
q trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ
dân số, chất lượng cuộc sống...
- Các nước phát triển (như tại Châu Âu, Hoa Kỳ hay Úc) thường có mức độ đơ thị
hóa cao (trên 87%), hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt Nam,
khoảng ~35%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đơ thị
hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển.
- Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đơ thị so với kích
thước ban đầu của đơ thị. Do đó, sự tăng trưởng của đơ thị khác tốc độ đơ thị hóa.
2. Đặc điểm, các q trình của đơ thị hóa ở Việt Nam
2.1: Số dân đơ thị khơng ngừng gia tăng
- Điểm đầu tiên để chúng ta có thể nhận thấy q trình đơ thị hóa chính là tỉ lệ dân
số ngày một gia tăng, đặc biệt ở những khu vực tỉnh thành phố lớn. Tỉ lệ này có sự
thay đổi đời theo thời gian, cụ thể được các tổ chức quốc tế thống kê như sau:
 Ước tính vào thế kỉ thứ XIX, số dân thành thị lên đến 30 triệu dân, con số
này chiếm 3% tỉ lệ dân số trên phạm vi toàn cầu.
 Khi bước sang thế kỉ XX một cuộc khảo sát mới được tiến hành và con số đã
thay đổi thêm 25 triệu người như vậy tỉ lệ dân số đã tăng lên gần 14% trên
tổng số dân toàn cầu.
 Hiện tại thế kỉ XXI được các chuyên gia dự đoán tỉ lệ dân sẽ giao động
khoảng 2.8 triệu người nâng mức dân số đơ thị trên tồn cầu lên đến 47%.
2.2: Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị
- Cư dân, từ nhiều tỉnh thành trên cả nước ồ ạt di chuyển đến các thành phố lớn để
sinh sống và phát triển kinh tế. Phần lớn lí do là bởi ở các đơ thị có mức sống cao
hơn, có nhiều cơ hội việc làm, phát triển bản thân và dân cư được hưởng các tiện
ích về vật chất, cơ sở hạ tầng tốt hơn ở khu vực nông thôn.
2.3: Lãnh thổ không ngừng mở rộng




- Hiện nay, lãnh thổ của những đô thị ngày càng tăng, vượt trội hơn hẳn dân số.
Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, dân cư ở đô thị ngày càng đơng trong khi quỹ
đất chỉ có hạn nên việc giãn dân là vô cùng cần thiết.
- Lãnh thổ đô thị mở rộng nằm trong phương án mở rộng quy mô đô thị, giúp phát
triển kinh tế và đảm bảo chất lượng cho cuộc sống của người dân.
2.4: Chất lượng cuộc sống được tăng cao
- Chất lượng đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt qua các hoạt động của cuộc
sống. hàng loạt các căn nhà cao tầng, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí
… được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng hiện đại của con người.
3. Tác động của đô thị hóa tới giảm nghèo:
3.1: Tích cực:
Đơ thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư:
- Các đơ thị có khả năng tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động do
có đa dạng các ngành nghề, dễ dàng tiếp cận được với các tiến bộ kinh tế, có nhiều
cơ hội để thiết lập các mối quan hệ và chia sẻ kiến thức nhanh hơn.

→ Làm giảm tỷ lệ thất nghiệp:


- ĐTH đã giúp một số hộ khác có cơ hội chuyển đổi sinh kế để vươn lên. Nhiều hộ
nghèo đã cố gắng vay mượn, tiết kiệm chi tiêu đầu tư cho con ăn học để sau này có
việc làm ổn định với thu nhập cao hơn.

3.2: Tiêu cực:
- Đô thị hóa làm sản xuất ở nơng thơn bị đình trệ do lao động chuyển đến thành
phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cho cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi
trường sống, an ninh xã hội không đảm bảo, các tệ nạn xã hội sẽ nảy sinh ra nhiều

vấn đề như nghèo đói, lạc hậu, tệ nạn, làm gia tăng khoảng cách giao thơng, tăng
chi phí đầu tư các cơ sở hạ tầng kĩ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã hội
do cư dân ngoại ô sẽ không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đơ thị.
PHẦN II: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐƠ THỊ HĨA VÀ XĨA ĐĨI GIẢM
NGHÈO
I, Đơ thị hố tác động đến phát triển kinh tế-xã hội:
1, Đơ thị hóa có tác động mạnh tới q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nước ta
- Các đơ thị có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương, các vùng trong nước. Tỷ lệ đơ thị hóa ước đạt khoảng 40% vào cuối năm
2020. Đến thời điểm hiện tại, tồn quốc có 862 đơ thị (năm 2015 là 787 đô thị).
Khu vực đô thị đã thực sự trở thành động lực, đầu tàu phát triển kinh tế-xã hội của
các vùng và cả nước, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước, chiếm tỷ trọng chi phối
trong thu ngân sách, xuất khẩu, sản xuất công nghiệp.


- Các thành phố, thị xã là các thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa
dạng, là nơi sử dụng đơng đảo lực lượng lao động có trình độ chun mơn kĩ thuật;
có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có sức hút đối với đầu tư trong nước và ngoài
nước, tạo một động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các đô thị có khả
năng tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động
- Tuy nhiên, q trình đơ thị hóa cũng nảy sinh những hậu quả như: vấn đề ô nhiễm
môi trường, an ninh trật tự xã hội...
- Lao động nông nghiệp giảm dần, chuyển sang các ngành có năng suất cao, kỹ
thuật tiên tiến làm cơ sở của kinh tế đô thị.
- Cơ cấu nền kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng của
ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tăng dần tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch
vụ. Như vậy, sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tạo sức hút đối với
dân cư, nâng cao vai trị của đơ thị.
- Sự nâng cấp và hiện đại hóa các ngành thuộc kết cấu hạ tầng cơ sở sẽ có điều

kiện thúc đẩy q trình đơ thị hóa
2, Thước đo đơ thị hóa
Có nhiều thước đo ĐTH được đưa ra, nhằm đánh giá các đặc trưng của quá
trình ĐTH. Chỉ số này thường được sử dụng trong các nghiên cứu dự báo về động
lực và xu hướng phát triển của ĐTH.
Chỉ số đô thị – nông thôn (Urban – Rural Ratio) được xác định bằng công thức sau:

: Chỉ số đô thị - nông thôn tại thời điểm t
: Dân số đô thị tại thời điểm t
: Dân số nông thôn tại thời điểm t.
Chỉ số này thể hiện chênh lệch dân số của đô thị và nông thơn, từ đó suy ra
sự ảnh hưởng của đơ thị hố đối với nơng thơn.
ĐTH ảnh hưởng đến các q trình dân số như di dân từ những vùng nơng
thơn đến các thành phố lớn, gia tăng tỉ lệ dân số đơ thị... Ngồi ra, ĐTH cịn chi
phối các hành vi dân số như hôn nhân, mức sinh và mức tử, cơ cấu tuổi và cơ cấu
giới tính… Trong quá trình ĐTH, ngồi việc tích tụ dân cư để hình thành các thành


phố mới, số dân thành thị tăng lên chủ yếu do mở rộng địa giới hành chính, gia
tăng tự nhiên và một phần do di dân từ nông thôn ra thành thị dưới nhiều hình thức
khác nhau. Trong điều kiện bình thường, quá trình ĐTH tạo ra những thế mạnh
như: cung ứng nguồn lao động từ nông thôn cho thành thị, điều tiết phí nhân cơng
cũng như thu nhập của người lao động, giảm sức ép về dân số, về đất đai để tạo
tiền đề cho tập trung và tích tụ ruộng đất, phát triển nền nông nghiệp lớn… Từ đây
tạo công ăn việc làm cho lao động ở nông thơn, cải thiện cuộc sống, xố đói giảm
nghèo, đời sống cải thiện. Tuy nhiên, tốc độ ĐTH ngày càng lớn ở các nước đang
phát triển đã và đang để lại những hậu quả và tác động không tốt đến điều kiện
sống ở thành thị, cản trở tiến trình phát triển xã hội.
Di cư là yếu tố cần thiết cho phát triển kinh tế, luồng di cư nông thôn - thành
thị đóng góp đáng kể vào q trình đơ thị hóa và người di cư chủ yếu là thanh niên

đã giúp cho lực lượng lao động ở đô thị được bổ sung và trẻ hóa. 31,7% người di
cư là người có trình độ chun mơn kỹ thuật, 23% là người có trình độ cao đẳng,
đại học, trong khi tỷ lệ này ở người không di cư là 24,5% và 17%. Sự gia tăng dân
số cơ học quá mức ở các đô thị sẽ đẩy các đơ thị rơi vào tình trạng đơ thị hóa
“cưỡng bức” do sự q tải về hạ tầng giao thơng, việc làm, nhà ở, giáo dục, chăm
sóc y tế, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội.

Bảng lực lượng lao động và tỷ lệ thất nghiệp qua các năm của Việt Nam


Tuy tỷ lệ thất nghiệp không cao nhưng xét về góc độ vị thế việc làm thì lao
động Việt Nam chủ yếu là làm các cơng việc gia đình hoặc tự làm các cơng việc
này thường có thu nhập thấp, bấp bênh, khơng ổn định.
Trong khi đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đã vượt 50 triệu người kể từ
năm 2010. Đây là là điều kiện tốt cho quá trình phát triển kinh tế với lực lượng lao
động dồi dào.
3, Đô thị tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội
Giai đoạn 1986-1997, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam chưa nhanh, tỷ lệ đơ thị hóa chỉ
đạt khoảng 23% vào năm 1997. Ở giai đoạn 2000-2010, Việt Nam có tốc độ đơ thị
hóa nhanh hơn. Năm 1999, Việt Nam có 629 đơ thị, đến năm 2010 có 772 đơ thị,
trong đó có 2 đơ thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 64
đô thị loại IV và 630 đô thị loại V. Nhiều đô thị được mở rộng, các thành phố đang
trở nên đông đúc hơn.
Trong giai đoạn 2011-2020, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tạo cơ sở cho
q trình đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Tính đến tháng 12-2018, tổng số đô thị cả
nước là 833 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt 38% tăng 0,9% so với năm 2017, đạt xấp xỉ
cận dưới của các chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Dự
báo năm 2019, tỷ lệ đơ thị hóa sẽ đạt đến con số 40%.
Sự gia tăng của q trình đơ thị hóa trong năm 2018 đã giúp cho thị trường bất
động sản và vật liệu xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng khả quan. Diện tích bình qn

nhà ở tồn quốc đạt khoảng 24 m2 sàn/người, tăng 0,6 m2 sàn/người so với năm
2017; tổng sản lượng xi măng tiêu thụ khoảng 95 triệu tấn, tăng 17% so với năm
2017, đạt 113 % kế hoạch năm.
Cùng với đó, hạ tầng đơ thị được đầu tư từng bước đồng bộ. Bộ mặt đô thị ngày
càng khang trang, hiện đại. Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu nhà ở có chất lượng,
nhiều cơng trình tầm vóc khu vực và quốc tế. Với những kết quả đó, đơ thị đã
khẳng định là động lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế đô thị chiếm 70-80%
tổng quy mơ nền kinh tế. Riêng TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, GRDP năm 2018 đạt
2.4 triệu tỷ, chiếm 40% GDP cả nước.
II, Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng kinh tế bền vững


Qúa trình đơ thị hóa và tăng quy mơ dân số đô thị là nhân tố làm tăng trưởng
kinh tế đơ thị. Tuy nhiên chỉ tăng trưởng thơi thì chưa đủ vì chẳng có gì đảm bảo
chắc chắn rằng người nghèo sẽ được hưởng những thành quả của sự tăng trưởng.
Lúc đó người nghèo cịn chẳng có một chút cơ hội nào để cải thiện cuộc sống của
mình. Do vậy, việc xóa đói giảm nghèo đối với mỗi quốc gia nói cung và Việt Nam
nói riêng chính là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
Để xóa đói giảm nghèo, Chính phủ mỗi nước phải có sự đầu tư. Đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, tạo cơ hội về sản xuất, giải quyết việc làm,… Với tốc độ đơ thị
hóa nhanh như bây giờ, cần phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho
các chương trình xóa đói giảm nghèo có thể trong ngắn hạn nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế đô thị bị ảnh hưởng song xét tồn diện về mặt dài hạn thì kết quả
xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình
cũng giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số đất nước đã tạo ra sự
phát triển vượt bậc của nông nghiệp.
III, Đơ thị hóa là động lực chính thúc đẩy giảm nghèo
Với trên 80% hàng hóa và dịch vụ được sản xuất tại các thành phố, các nước có
mức độ đơ thị hóa cao như Trung Quốc và các nước Đơng Á và Mỹ Latinh khác đã

giữ một vai trò quan trọng trong quá trình giảm tình trạng nghèo khổ trên tồn thế
giới. Ngược lại, hai vùng có tỉ lệ đơ thị hóa thấp nhất, là Nam Á và châu Phi Hạ
Xahara có tỉ lệ nghèo cao hơn hẳn và tiếp tục tụt hậu trong lộ trình của phần lớn
các mục tiêu MDG.
Khi đưa ra mối quan hệ nông thôn-thành thị và mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ, báo cáo đã so sánh và nêu bật sự khác nhau về mức độ thịnh vượng của các
vùng nông thôn và thành thị. Tại châu Mỹ Latinh và Trung Á tỉ lệ tử vong trẻ sơ
sinh tại thành phố thấp hơn vùng nông thôn từ 8 đến 9 điểm phần trăm; tại các
vùng Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á và châu Phi Hạ Xahara mức chênh lệch này là
từ 10-16 điểm phần trăm; và mức độ chênh lệch cao nhất lên tới 21 điểm phần trăm
được quan sát thấy tại Đông Á. Tại Nam Á, 60% dân sống tại đơ thị có cơng trình
vệ sinh trong khi chỉ có 28% dân sống tại vùng nơng thơn có cơng trình vệ sinh.
Tại vùng châu Phi Hạ Xahara, 42% dân thành thị và 23% dân nơng thơn có cơng
trình vệ sinh. Tại các nước đang phát triển, cho đến năm 2010 hầu như toàn bộ dân


sống tại thành thị (96%) đã có nước sạch trong khi tỉ lệ đó tại vùng nơng thơn là
81%.
Nhìn chung, tiến độ thực hiện giảm tỉ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh và xây
dựng cơng trình vệ sinh vẫn còn xa mục tiêu đề ra; cho đến 2015 các mục tiêu này
cũng khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, mục tiêu giảm tình trạng nghèo cùng
cực, cấp nước sạch và xóa bỏ phân biệt giới trong giáo dục cơ sở được thực hiện
rất tốt và đã hồn thành trước kế hoạch vài năm. Tuy tình trạng nghèo cùng cực đã
giảm mạnh tại nhiều nước nhưng ước lượng của Ngân hàng Thế giới cho thấy đến
năm 2015 trên tồn thế giới vẫn cịn 970 triệu người sống dưới mức 1,25 đơ la Mỹ
một ngày. Vì vậy, vẫn cần phải tiếp tục chung tay giảm tỉ lệ nghèo cùng cực xuống
càng gần mức bằng 0 càng tốt.
Thực tế cho thấy, thách thức giảm nghèo và cải thiện điều kiện sống cho người
nghèo tồn tại cả ở khu vực đô thị và nông thôn. Các thành phố lớn và các thị trấn
nhỏ, nhanh chóng trở thành các khu ổ chuột lớn nhất thế giới. Cụ thể, châu Á

chiếm 61% trong số 828 triệu dân sống trong khu ổ chuột trên toàn thế giới, châu
Phi chiếm 25,5% và châu Mỹ Latinh chiếm 13,4%. Các trung tâm đô thị tại các
nước đang phát triển dự tính sẽ phát triển và thu hút 96% trong tổng số 1,4 tỉ người
tăng thêm cho tới năm 2030. Để đối phó với tình trạng tăng trưởng đơ thị cần có
một gói giải pháp về hạ tầng và dịch vụ được điều phối tốt. Chỉ khi đáp ứng được
các nhu cầu thiết yếu về giao thông, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, y tế và giáo dục thì
các thành phố mới khơng bị trở thành các trung tâm nghèo khổ và mất vệ sinh, báo
cáo khẳng định.
Điểm đáng chú ý, tỉ lệ nghèo nông thôn vượt xa tỉ lệ nghèo đô thị tại tất cả các
vùng trên thế giới. Trong đó, phụ nữ nơng thơn chịu thiệt thịi nhất do tình trạng hạ
tầng yếu kém vì họ chính là người đảm nhiệm hầu hết cơng việc gia đình và
thường phải đi bộ rất xa để tiếp cận được với nước sạch, và trình độ giáo dục của
họ cũng thấp hơn. Tuy vậy, mặc dù không dễ để giải quyết các thách thức phát
triển nông thôn, nhưng có thể thực hiện được thơng qua các chính sách bổ sung về
phát triển nông thôn - thành thị và các chương trình hành động của chính phủ tạo
điều kiện cho các thành phố phát triển lành mạnh, tránh những ảnh hưởng thiển cận
cho vùng nông thôn.


Đơ thị hóa là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, muốn tận dụng được tác động tích
cực về kinh tế và xã hội của quá trình này, các nhà hoạch định chính sách cần lập
kế hoạch sử dụng đất hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu về đi lại, nhà ở và các yêu
cầu về hạ tầng khác khi mật độ dân số tăng lên; và cần thu xếp được các khoản
kinh phí cần thiết cho các chương trình phát triển đơ thị đó.
PHẦN III. Liên hệ thực tiễn mối quan hệ giữa đơ thị hóa và giảm nghèo tại
Việt Nam
Đơ thị hóa và nghèo có một mối quan hệ hai chiều. Sử dụng hồi quy ảnh hưởng cố
định và bảng dữ liệu từ các cuộc điều tra hộ gia đình, tài liệu ước tính ảnh hưởng
của đơ thị hố và phúc lợi nghèo đói của các hộ gia đình nơng thơn ở Việt Nam.
Tài liệu cho thấy đơ thị hóa có xu hướng tăng khơng có đất của hộ gia đình nơng

thơn và giảm thu nhập cho mình. Tuy nhiên, đơ thị hóa giúp các hộ gia đình nông
thôn tăng lương và thu nhập phi nông nghiệp. Kết quả là, tổng số thu nhập và chi
tiêu của các hộ gia đình nơng thơn có xu hướng tăng lên với đơ thị hóa. Nghiên
cứu cịn cho thấy đơ thị hóa cũng giúp các hộ gia đình nơng thơn giảm chỉ tiêu tỷ lệ
hộ nghèo, mặc dù ở một mức độ nhỏ.
Theo chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Việt Nam hướng tới sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội
thông qua những cải thiện không ngừng về chất lượng cuộc sống người dân, đảm
bảo an sinh xã hội, phát triển văn hóa và thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ sở. Giảm
nghèo thu nhập rõ rệt là kết quả của tăng trưởng kinh tế nhanh chóng kể từ năm
1990 tại Việt Nam. Theo chuẩn nghèo quốc gia, tỷ lệ nghèo ở mức 17,2% và
khoảng cách nghèo ở mức 4,5%. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn $1,25/người/ngày là
2,44% năm 2012 và khoảng cách nghèo theo chuẩn $1,25/người/ngày là 0,55%.
Tuy nhiên, tình trạng nghèo khơng ổn định và tỷ lệ tái nghèo còn cao. Một phần
đáng kể dân số ở mức cận nghèo; mức sống của họ chỉ vừa đủ cao hơn chuẩn
nghèo và có thể dễ dàng quay lại cảnh nghèo đói. Nguy cơ tái nghèo đặc biệt cao ở
các gia đình ven biển – nơi thu nhập đơn thuần nhờ sản xuất nông nghiệp; các gia
đình thiểu số ở vùng núi, Tây Nguyên, các đảo và vị trí khó tiếp cận nguồn tư liệu


sản xuất và dịch vụ xã hội; người nghèo đô thị với trình độ học vấn hoặc tay nghề
thấp.
Sau hai thập kỉ tăng trưởng kinh tế nhanh, bất bình đẳng thu nhập gia tăng nhưng
không đáng kể. Tuy nhiên, bất bình đẳng có thể gia tăng trong khu vực đơ thị và
trong khu vực nông thôn. Đây là kết quả của sự khác biệt trong khả năng tiếp cận
giáo dục vẫn đang được phân bổ không đồng đều ở các cấp học cao. Một thách
thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong những năm tới là đảm bảo phân bổ lợi
ích tăng trưởng kinh tế cơng bằng cho tồn dân.
Dân số đang già đi sẽ trở thành một thách thức theo hai cách. Di cư trong nước và
quốc tế giảm, chi phí sinh hoạt và nhà ở tại khu vực đô thị gia tăng. Điều này ngày

càng trở nên khó khăn hơn đối với người cao tuổi phải phụ thuộc con cái, đặc biệt
nếu họ chỉ có một con. Người cao tuổi có thể phải đối mặt nghèo thu nhập, nếu con
cái họ không chu cấp đầy đủ, hoặc đối mặt những sự thiếu hụt khác do sự cô lập và
loại trừ. Khi tuổi thọ tăng lên, dân số già sẽ địi hỏi điều kiện chăm sóc y tế ngày
càng đắt đỏ hơn. Như vậy, Nhà nước và cộng đồng sẽ phải xây dựng các phương
thức hỗ trợ số người cao tuổi ngày càng tăng. Tỷ lệ phụ thuộc cao hơn địi hỏi phải
xây dựng chế độ hưu trí quốc gia phù hợp và bền vững.
CÁC SỐ LIỆU VỀ ĐƠ THỊ HĨA
Trong hơn 20 năm tiến hành cơng cuộc đổi mới, q trình đơ thị hố diễn ra hết
sức nhanh chóng nhất là trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt ở các thành phố lớn như
Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 các đơ thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả nước mới có khoảng
500 đơ thị (tỷ lệ đơ thị hoá vào khoảng 17-18%), đến năm 2000 con số này lên 649
và năm 2003 là 656 đơ thị. Tính đến nay, cả nước có khoảng 700 đơ thị, trong đó
có 5 thành phố trực thuộc trung ương, 44 thành phố trực thuộc tỉnh, 45 thị xã và
trên 500 thị trấn. Bước đầu đã hình thành các chuỗi đơ thị trung tâm quốc gia. Các
đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành
chính-chính trị, kinh tế, văn hố, du lịch-dịch vụ, đầu mối giao thông; và các đô thị
trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn, các đô thị mới.
Hiện nay, tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta dưới 40%, theo quy hoạch phát triển đến
năm 2010 con số này sẽ 56-60%, đến năm 2020 là 80%.


Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị, làm cho mật độ dân số ở thành thị tăng
cao; vấn đề giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội
làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp; vấn đề nhà ở và quản lý
trật tự an tồn xã hội ở đơ thị; vấn đề ơ nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước...
THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
Kinh tế của đất nước liên tục tăng trưởng khá và ổn định, cụ thể:
 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng

 Thương mại dịch vụ, du lịch tiếp tục có những khởi sắc và có mức tăng
trưởng khá
 Sản xuất thủ công nghiệp tiếp tục giữ nhịp độ phát triển
 Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao chất lượng
sản phẩm và giá trị trên đơn vị diện tích canh tác
 Hạ tầng du lịch, dịch vụ có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực
 Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến hết năm 2020 là trên 2.900 tỷ
đồng
 Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 là 47,5 triệu đồng, phấn đấu năm
2020 là 50 triệu đồng, tăng hơn 3 lần so với năm 2010
 Thu ngân sách trên địa bàn phấn đấu năm 2020 là trên 500 tỷ đồng
 Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,36% năm 2019
 Giá trị sản phẩm/1ha đất trồng cây hàng năm đạt 110 triệu đồng, tăng 60
triệu so với năm 2010.
Bên cạnh những thành công đạt được, lĩnh vực quy hoạch, quản lý và phát triển hệ
thống đơ thị cịn tồn tại nhiều hạn chế và có phần gia tăng. Một số hạn chế cơ bản
đáng lưu ý là:
Một là, chính sách và hệ thống cơ sở pháp lý còn chồng chéo, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật chưa thống nhất ở một số nội dung. Việc phối hợp giữa các bộ,
ngành, địa phương trong lĩnh vực quản lý xây dựng có lúc chưa thường xuyên, kịp
thời. Điều này trên lý thuyết hiện nay đã được khắc phục do có Luật Quy hoạch,


tuy nhiên, việc áp dụng vào thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều chương trình,
định hướng đã được ban hành, nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao cũng như chưa có
các hướng dẫn cụ thể về tổ chức thực hiện và việc phân bổ nguồn lực để triển khai.
Các quy định, chính sách ưu đãi để khuyến khích, huy động nguồn lực phát triển
chưa rõ ràng và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Khung pháp lý chưa có
quy định về vấn đề huy động, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho phát triển đô
thị, đặc biệt là phát triển không gian và đất đai đơ thị.

Hai là, đơ thị hóa nhanh đã dẫn đến một số bất cập, như tình trạng mở rộng đơ thị
có mật độ thấp, sử dụng đất đai chưa hiệu quả, tính cạnh tranh của các đơ thị khơng
cao. Q trình đơ thị hóa và phát triển đơ thị đã làm cho dân số đô thị tăng nhanh,
trong khi kết cấu hạ tầng không đáp ứng đầy đủ, tạo nên sức ép quá tải ngày càng
lớn. Các dòng dịch cư từ nông thôn vào đô thị ngày càng tăng và rất khó kiểm sốt.
Sức ép dân số đơ thị vốn đã quá tải lại càng quá tải hơn. Do đó, dù muốn hay
không đã tạo nên nhiều khu nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch, nhà tạm, nhất là các
đô thị lớn. Khoảng cách mức sống giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn ngày
càng chênh lệch; tệ nạn xã hội khu vực đô thị ngày càng phức tạp.
Ba là, số lượng đô thị tăng nhanh nhưng chưa đáp ứng được các yêu cầu của phát
triển bền vững. Cuối năm 2015, mặc dù số lượng đô thị tăng nhiều nhưng vẫn
không đạt được mong muốn theo Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ
thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Nhiều đô thị
được nâng loại nhưng chưa đạt được đầy đủ các quy định đã ban hành, còn “nợ”
nhiều tiêu chí. Tình trạng các đơ thị được nâng loại và cho “nợ” chỉ tiêu là phổ
biến, trong đó có nhiều khoản nợ không trả được, như dân số, tỷ lệ lao động phi
nông nghiệp.
Trong Báo cáo “Việt Nam 2035” đã đánh giá: Hệ thống phân loại, nâng cấp và quy
hoạch đơ thị bất hợp lý, kích thích các địa phương chạy theo thành tích mở rộng
quy mơ các đơ thị và đầu tư quá mức, không quan tâm đến các chỉ tiêu thực chất,
như mật độ dân số và khả năng kết nối để kích thích tăng trưởng. Dân số tại các đơ
thị lớn tăng nhanh, thiếu kiểm sốt, tạo thêm nhiều áp lực về hệ thống dịch vụ đô
thị và hạ tầng kỹ thuật, trong lúc mật độ dân số của nhiều đô thị là thấp và hầu như


khơng thay đổi gì kể từ năm 2000 tới nay. Tăng tốc độ đơ thị hóa, dịch chuyển ồ ạt
dân cư nơng thơn vào thành phố nhằm tìm kiếm cơng ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu
về chỗ ở cho người nghèo, nâng cao chất lượng môi trường và cuộc sống,... là
những thách thức chưa từng thấy trong nền kinh tế đang phát triển. Các đô thị Việt
Nam chưa được liên kết tốt với nhau để tạo thành một hệ thống đồng bộ. Nhiều

quy hoạch vùng liên tỉnh đã được thiết lập, tuy nhiên, giữa các tỉnh cũng như hệ
thống các đơ thị chưa có mối liên kết chặt chẽ với nhau, vẫn cịn tình trạng các tỉnh
phát triển độc lập và thiếu đồng bộ trong từng vùng, chưa bảo đảm sự kết nối giữa
đô thị và vùng, nhất là về hạ tầng khung. Khác với thế giới, các đô thị Việt Nam
thường hình thành với một thành phố hạt nhân luôn bị quá tải, bao quanh là vùng
nông thôn rộng lớn mang nặng cơ cấu truyền thống văn hoá làng, xã với mặt bằng
dân trí khơng cao.
Bốn là, các phương pháp và quy trình lập quy hoạch chưa tiên tiến; các mơ hình
phát triển đơ thị chưa được đề xuất rõ ràng, đáp ứng nhu cầu phù hợp với bối cảnh
của các địa phương, vùng, miền khác nhau. Vấn đề lồng ghép các tiêu chí bền
vững vào phát triển đô thị thực hiện chưa được hiệu quả. Chất lượng một số đồ án
quy hoạch đơ thị cịn thấp. Các phương pháp quy hoạch còn lạc hậu, được sử dụng
từ thời kỳ bao cấp, kinh tế tập trung. Quy hoạch chi tiết tại nhiều địa phương bị
điều chỉnh tùy tiện, khơng đúng quy trình, thủ tục, thường có xu hướng tăng tầng
cao, mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất, trong khi giảm diện tích cơng cộng và
cây xanh, điều này dẫn đến việc quá tải lên hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội trong các khu đô thị.
Công tác lập, phê duyệt và quản lý thực hiện quy hoạch tại một số đơ thị cịn chậm
và thiếu đồng bộ, cơng tác quản lý chưa kiểm sốt được sự phát triển của đơ thị.
Phát triển đô thị không đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, một số nội
dung không theo quy hoạch, kế hoạch. Mơ hình phát triển các đơ thị tại các vùng,
miền khác nhau, nơi có đặc điểm riêng khác nhau chưa được định hướng cụ thể và
có sự lựa chọn thích hợp.
Năm là, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa hồn chỉnh và khơng đồng bộ, chưa thích
ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Khu vực đô thị đang phải đối mặt với


vấn đề ơ nhiễm mơi trường và tình trạng suy thối mơi trường cịn xảy ra nghiêm
trọng. Tắc nghẽn giao thơng là tình trạng phổ biến hiện nay tại các đô thị lớn. Hệ
thống cây xanh, công viên cũng như các hạ tầng kỹ thuật khác không đáp ứng yêu

cầu của người dân đô thị. Do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của ứng phó
với biến đổi khí hậu và thiếu kinh phí lập bản đồ cảnh báo thiên tai cho các chủ đầu
tư, người dân và các cơ quan chính quyền, việc triển khai của các địa phương thực
hiện các quy định của Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu cịn rất chậm và
chưa hiệu quả. Mục tiêu chính sách bảo vệ mơi trường đơ thị có sự chưa thống nhất
giữa các ngành. Các công cụ đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động
của mơi trường cịn hạn chế, chưa phát huy được chức năng ngăn ngừa, giảm thiểu
tác động tiêu cực của mơi trường trong q trình phát triển đơ thị.
Sáu là, việc huy động các nguồn lực cho phát triển đô thị không đủ để thực hiện
các kế hoạch, quy hoạch hiện hành một cách hiệu quả. Nhiều dự án bị kéo dài thời
gian thực hiện gây lãng phí nhiều nguồn tài ngun của đất nước. Một số cơng
trình xây dựng sử dụng vốn ngoài ngân sách nhà nước do tư nhân quản lý có chất
lượng cịn thấp. Năng lực quản lý và phát triển đơ thị nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu của phát triển đô thị bền vững. Tại một số địa phương, việc thực hiện
các cơng tác, nhiệm vụ của Chính phủ giao chưa tốt, vẫn cịn tình trạng chậm,
muộn; chất lượng tham mưu chưa cao; một số cán bộ, cơng chức, viên chức chưa
có nhận thức thật sự đầy đủ về phát triển đô thị bền vững. Tình trạng vi phạm trật
tự xây dựng vẫn xảy ra ở một số địa bàn trong cả nước.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Đơ thị hóa là một q trình tất yếu của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, đơ thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại
nhiều hậu quả tiêu cực và lâu dài, cản trở sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy,
chiến lược đơ thị hóa của Việt Nam phải hướng tới mục tiêu bền vững giữ tự nhiên,
con người và xã hội.
1. Đo lường nghèo đa chiều để nhận diện đúng tình trạng nghèo đô thị. Cần
xây dựng một hệ thống theo dõi, đánh giá thường xuyên để thiết kế chính sách hỗ


trợ các nhóm đặc thù, trong đó bao gồm bộ công cụ đo lường tác động của các cú
sốc đến các nhóm khó khan và dễ bị tổn thương. Đây sẽ là sự cải thiện đáng kể so

với các đợt “rà soát nghèo” thuần túy theo thu nhập vào cuối năm.
2. Thiết kế các chính sách hỗ trợ thích hợp và không phân biệt đối xử đối với
người nhập cư, khơng phụ thuộc vào tình trạng hộ khẩu. Cần hỗ trợ người
nhập cư về tìm kiếm và bảo đảm việc làm an toàn, tiếp cận hệ thống an sinh xã hội
và giảm chi phí cuộc sống tại đơ thị. Có thể cải thiện “vốn xã hội” của người nhập
cư bằng cách tạo cơ hội tham gia nhiều hơn vào các hoạt động cộng đồng, dịch vụ
tự giúp, sinh hoạt tổ nhóm, các hoạt động văn hóa, truyền thơng về pháp luật và
các kỹ năng sống với sự tham gia tích cực của các bên liên quan.
3. Qui hoạch đô thị và phân bổ ngân sách dựa trên qui mô tổng dân số bao
gồm cả người nhập cư, nhằm từng bước giải quyết sự quá tải của các dịch vụ nhà
ở (chú trọng cấp thốt nước, vệ sinh mơi trường), dịch vụ giáo dục và y tế, trong đó
ưu tiên đầu tư cho các địa bàn ngoại vi thành phố đang chuyển đổi có đơng người
nghèo và người nhập cư, nhất là những người ở cùng con nhỏ.
4. Đầu tư mạnh hơn cho chương trình giảm nghèo đơ thị. Việc làm tại đô thị
gắn với tiền gửi về nhà của người nhập cư đóng vai trị quan trọng trong chiến lược
sinh kế đa dạng hóa của cư dân nơng thơn. Do đó chương trình giảm nghèo đơ thị
cần được phân bổ nguồn lực thích đáng hơn. Cần thực hiện nghiêm túc hướng dẫn
của Bộ LĐ-TBXH về rà soát nghèo với những hộ ở trên địa bàn từ 6 tháng trở lên,
không phân biệt về tình trạng hộ khẩu và tình trạng cư trú.
5. Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội tồn diện, dễ tiếp cận, khơng
phân biệt đối xử với người nhập cư ở khu vực đô thị. Mở rộng đối tượng được
hỗ trợ mua thẻ BHYT nhằm đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. Mở rộng đối
tượng được nhận trợ cấp tiền mặt thường xuyên đến toàn bộ nhóm “nghèo lõi” ở
đơ thị và nhóm nghèo có con nhỏ. Có chính sách trợ cấp kịp thời cho nhóm gặp rủi
ro dẫn đến đời sống khó khăn, bao gồm cả người nhập cư. Nâng mức trợ cấp tiền
mặt để đạt được hiệu quả thực tế; đồng thời xây dựng cơ chế điều chỉnh kịp thời
các mức hỗ trợ theo diễn biến giá cả. Xây dựng cơ chế chi trả thuận tiện và cơ chế


tư vấn, giám sát trong các chương trình trợ cấp tiền mặt. Đồng thời, xây dựng cơ

chế theo dõi, phản hồi về thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
6. Sửa đổi các chính sách hỗ trợ học nghề hiệu quả, dễ tiếp cận với lao động
nghèo đô thị, như các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nghề cho cơng nhân,
chính sách hỗ trợ các hình thức vừa học vừa làm gắn với các cơ sở ngành nghề dân
doanh, các hiệp hội doanh nghiệp tại đô thị. Tăng cường cung cấp thông tin hướng
nghiệp khách quan, chuyên sâu cho nhóm học sinh tốt nghiệp THPT.
7. Xây dựng cơ chế cụ thể nhằm tăng cường sự tham gia và trao quyền, nhất
là trong giáo dục và y tế. Kiểm soát chặt chẽ việc các nhà trường “vận động” cha
mẹ phụ huynh đóng góp các khoản khác nhau, nhằm giảm chi phí giáo dục cho
người nghèo đơ thị.
8. Xây dựng các chính sách hiệu quả hơn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, thúc
đẩy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, thúc đẩy chính thức hóa các hoạt động
thuộc khu vực phi chính thức. Các chính sách này trong trung và dài hạn sẽ có
tác dụng hỗ trợ người nghèo, người nhập cư giảm rủi ro về việc làm và tiếp cận tốt
hơn với hệ thống an sinh xã hội.



×