Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Kinh tế quốc tế TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA ASEAN. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.39 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

----------------

THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA ASEAN.
CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Tác giả
Thành viên

:
:

Lớp
Giảng viên

:
:

NHÓM D1
Nguyễn Thị Ngọc Huyền (trưởng nhóm)
Đỗ Thị Ngọc
Lê Tuấn Anh
Đỗ Nguyễn Minh Thư
Nguyễn Bích Ngọc
Vũ Thị Hải Yến
Vũ Thị Xuân Quỳnh
Kinh tế quốc tế 62B
Thầy TÔ XUÂN CƯỜNG



Hà Nội, tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC

2
2


A.
I.

TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA ASEAN
Giới thiệu chung về ASEAN.

1. Tổ chức ASEAN
ASEAN, viết tắt của Association of South East Asian Nations, nghĩa là Hiệp
hội các quốc gia Đơng Nam Á. Đây là một tổ chức chính trị, kinh tế văn hóa và xã hội
trong khu vực Đơng Nam Á, được thành lập nhằm xây dựng đất nước và mục tiêu
phát triển kinh tế, chính trị và an ninh.
2. Sự ra đời
Đông Nam Á là một khu vực có lịch sử lâu dài và trong q trình của mình đã
đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nhân loại. Các quốc gia trong khu vực là
những đất nước có sự tương đồng cao trên nhiều lĩnh vực văn hóa xã hội cũng như
trình độ phát triển kinh tế.
Sau khi giành được độc lập, các nước Đông Nam Á cịn gặp nhiều khó khăn
nên có nhu cầu hợp tác với nhau cùng phát triển, đồng thời muốn hạn chế ảnh hưởng
của các thể lực bên ngoài đối với khu vực.
Ngày 8/8/1967, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập tại

Bangkok (Thái Lan) với sự tham gia của 5 nước: Indonesia, Malaysia, Singapore và
Philippines. Bản tuyên bố Bangkok tạo dựng nền tảng cho sự ra đời của Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á- ASEAN.
3. Mục tiêu
Tuyên bố ASEAN (hay còn gọi là Tuyên bố Bangkok) năm 1967 nêu rõ mục
tiêu và mục đích của ASEAN như sau:
• Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong
khu vực thơng qua những sáng kiến chung trên tinh thần bình đẳng và hợp
tác nhằm củng cố nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hịa bình của
các quốc gia Đơng Nam Á.
• Thúc đẩy hịa bình và ổn định khu vực thông qua tôn trọng công lý và pháp
quyền trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ các
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
• Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về các vấn đề cùng quan tâm
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành
chính.
• Hỗ trợ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ
nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ tḥt và hành
chính.
• Hợp tác hiệu quả hơn nhằm sử dụng tốt hơn ngành nông nghiệp và công
nghiệp mở rộng thương mại, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông,
liên lạc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
• Thúc đẩy nghiên cứu về Đơng Nam Á.
• Duy trì hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có
tơn chỉ và mục đích tương tự, và tìm kiếm các phương thức để có thể hợp
tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này.
4. Quá trình phát triển

3



Trong giai đoạn đầu (1967 – 1975), ASEAN là một tổ chức non yếu, sự hợp tác
trong khu vực còn trong trạng thái khởi đầu, chưa có vị trí trên trường quốc tế.
Từ năm 1976 đến năm 1999, ASEAN có những bước tiến mới. Sự phát triển
này, được đánh dấu bằng Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali (Indonesia) tháng
2/1976 với việc kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước
Bali).
● Vào thời điểm này, quan hệ giữa các nước Đông Nam Á và ASEAN bước
đầu được cải thiện. Hai nhóm nước đã thiết lập quan hệ quan hệ ngoại giao
và bắt đầu có các chuyến đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao.
● Năm 1984, sau khi giành được độc lập Brunei gia nhập và trở thành thành
viên thứ 6 của ASEAN.
● Từ đầu những năm 90, chiến tranh lạnh chấm dứt và "vấn đề Campuchia"
được giải quyết, tình hình chính trị khu vực được cải thiện căn bản,
ASEAN có điều kiện mở rộng tổ chức kết nạp thành viên mới.
● Ngày 22/7/1992 Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Bali. Tiếp đó tháng
7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Tháng 7/1997
Lào và Mianma gia nhập ASEAN và tháng 4/1999 Campuchia được kết
nạp tổ chức này.
Như vậy, từ 5 nước sáng lập ASEAN đã phát triển thành 10 thành viên. Từ đây,
ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực
hịa bình, ổn định để cùng phát triển.
II. Tiến trình hội nhập kinh tế của ASEAN.
1. Các dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của ASEAN

Năm 1992: Hiệp định Khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và thỏa
thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA).
Trong quá trình hội nhập và phát triển của Hiệp hội, hợp tác kinh tế luôn là một
trụ cột quan trọng, mở đầu với việc ký kết “Hiệp định Khung về tăng cường hợp tác

kinh tế ASEAN” vào dịp Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ tư, tổ chức tại Singapore
từ ngày 27-28/1/1992.
Hiệp định đã tạo khuôn khổ căn bản cho hợp tác ASEAN trên 6 lĩnh vực, bao
gồm: thương mại và cơng nghiệp; khống sản và năng lượng; tài chính và ngân hàng;
lương thực, nông và lâm nghiệp; giao thông vận tải và bưu chính - viễn thơng.
Nhân dịp này, 5 nước thành viên ban đầu của ASEAN cũng ký thỏa thuận về
lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), đặt nền tảng quan trọng cho mở rộng
hợp tác kinh tế-thương mại và xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sau này,
hướng tới thúc đẩy tính cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất
chung thống nhất thơng qua xóa bỏ thuế quan và rào cản phi thuế quan, và thu hút
nhiều hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tháng 12/1997: nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Hiệp hội, Hội nghị cấp
cao ASEAN khơng chính thức lần II (Kuala Lumpur, Malaysia, tháng 12/1997) đã
thơng qua văn kiện quan trọng Tầm nhìn ASEAN 2020, nêu định hướng phát triển lớn
của ASEAN trong những thập kỷ đầu thế kỷ 21, hướng tới mục tiêu xây dựng một tập
hợp hài hịa các dân tộc ở Đơng Nam Á
Năm 2005: Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ nhất, được tổ chức tại
Kuala Lumpur, Malaysia tháng 12/2005, với sự tham gia của nguyên thủ các nước

4


thành viên ASEAN, Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New
Zealand. Tại Hội nghị này, lãnh đạo các nước đã ký Tuyên bố chung về Cấp cao Đông
Á, đề ra mục tiêu, nguyên tắc, lĩnh vực và các phương thức chính cho hoạt động của
EAS- diễn đàn đối thoại về các vấn đề chiến lược nhằm hỗ trợ mục tiêu xây dựng
cộng đồng ở khu vực Đông Á; là một tiến trình mở và thu nạp, trong đó ASEAN giữ
vai trị chủ đạo.
Tháng 11/2007: Hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng, ASEAN đã nỗ lực
xây dựng và Hiến chương ASEAN được ký ngày 20 tháng 11 năm 2007 tại Hội nghị

Cấp cao ASEAN lần thứ 13. Hiến chương ra đời, tạo tư cách pháp nhân cho ASEAN
là một tổ chức hợp tác khu vực; đồng thời cũng tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể
chế để gia tăng liên kết và hợp tác ASEAN, giúp xây dựng ASEAN trở thành một tổ
chức gắn kết hơn và hoạt động hiệu quả hơn, trước mắt là hỗ trợ mục tiêu hình thành
Cộng đồng ASEAN.
Năm 2015: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) ra đời như một trụ cột của
ASEAN, một cột mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của khu vực. Nó
đánh dấu sự khởi đầu của hành trình chung của mười quốc gia thành viên ASEAN với
tư cách là một cộng đồng kinh tế, được hướng dẫn bởi Kế hoạch chi tiết AEC 2025.
2. Về hình thức hội nhập kinh tế ASEAN
a. Liên kết kinh tế nội khối
Nội dung hợp tác chủ yếu và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự do
hóa kinh tế - thương mại và liên kết kinh tế nội khối. Kim ngạch nội khối ASEAN
tăng gấp 2 lần trong 5 năm qua, đạt 1.710 tỷ USD (năm 2008).
Tuy nhiên, ASEAN nhận thức rằng không thể liên kết kinh tế có hiệu quả nếu
khơng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Thu
hẹp khoảng cách phát triển vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu lâu dài, phục vụ
cho sự phát triển đồng đều của khu vực, biến ASEAN trở thành khu vực kinh tế năng
động. Vì vậy, ASEAN đã thực sự bắt tay vào việc tiến hành các chương trình hợp tác
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, điều này thể hiện rõ trong sáng kiến hội nhập
ASEAN.
Năm 2008, ASEAN đã thu hút được 60 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
(FDI), trong khi đó, đầu tư nội khối cũng đạt con số tương đương. Các nhà đầu tư
châu Á coi Indonesia và Việt Nam là những địa chỉ thay thế khi chi phí kinh doanh tại
Trung Quốc ngày một tăng cao. Trên thực tế, xét về quy mô kinh tế, GDP của Trung
Quốc lớn gấp 3 lần ASEAN, nhưng Trung Quốc chỉ thu hút được 108 tỷ USD vốn FDI
(gấp 1,8 lần ASEAN).
Năm 2009, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC),
các nước thành viên ASEAN đã tập trung thực hiện 3 biện pháp chính sau:
• Thứ nhất, hồn thiện cơ chế pháp lý cho AEC

Biện pháp này đã được hoàn thiện bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan trọng,
bao gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp định đầu tư tồn
diện ASEAN (ACIA) và Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định
khung về dịch vụ ASEAN (AFAS).
• Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, thực thi các thỏa thuận kinh tế đã đạt
được thông qua Biểu đánh giá AEC (AEC Scorecard).

5


• Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng về AEC thơng qua chương

trình truyền thơng ASEAN.
Cụ thể như phổ biến thông tin, kiến thức cập nhật về AEC, thiết lập thêm kênh
trao đổi thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp của ASEAN. Việt
Nam đã nhất trí chủ trương xây dựng Chương trình truyền thơng AEC có tham khảo
cách làm của một số nước ASEAN.
b. Mở rộng thêm nhiều hình thức liên kết
• Bên cạnh việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế nội khối, ASEAN có khuynh
hướng “mở” với các đối tác ngồi khối thơng qua các hình thức liên kết
kinh tế, thương mại. Hợp tác kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài
được triển khai từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX, chủ yếu là với các
đối tác lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu
(EU)…
• Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được coi là một trong
những con đường ngắn nhất để tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tế giữa
ASEAN với các đối tác bên ngoài. ASEAN đã ký kết FTA với một số đối
tác lớn như Hàn Quốc (có hiệu lực từ 1/6/2007), Nhật Bản (có hiệu lực từ
1/12/2008), Trung Quốc (có hiệu lực từ ngày 1/1/2010), Ấn Độ (có hiệu lực
từ tháng 1/2010), Australia và New Zealand (có hiệu lực từ 1/1/2010).

Đóng góp vào mục tiêu trở thành một ASEAN tồn cầu, một số điểm nổi bật
chính trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm:
● Việc ký kết Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Hồng Kông và ASEANHiệp định đầu tư Hồng Kông.
● Tiến hành nâng cấp hoặc rà soát các hiệp định, chẳng hạn như việc thực
hiện liên tục việc nâng cấp Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Trung
Quốc Nghị định thư, hồn thành việc rà sốt chung Hiệp định Thương mại
Tự do ASEAN-Australia-New Zealand.
● Ngày 15/11/2020, trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37
diễn ra tại Hà Nội, Sau 8 năm đàm phán, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện khu vực (RCEP) chính thức được ký kết.
Ngồi ra, hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác
như Mỹ, Nga, Canada… đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực vào sự
phát triển thương mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình thức liên kết kinh tế
với các đối tác bên ngoài, trong tương lai, sẽ tạo nên mạng lưới đan kết có tâm là
ASEAN.
c. Thành lập quỹ hợp tác khu vực và quốc tế.
Thành lập các quỹ hợp tác thể hiện rõ mong muốn nỗ lực hội nhập kinh tế khu
vực của ASEAN để đối phó với cơn bão tài chính tồn cầu. Quỹ Dự phòng khẩn cấp
với sự hỗ trợ 10 tỷ USD của Ngân hàng thế giới (WB) được sử dụng mua các tài sản
xấu và hỗ trợ về vốn đối với các tổ chức tài chính cũng như các cơng ty tư nhân.
Ngoài ra, ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3)
thành lập Quỹ tài chính khu vực cứu trợ khẩn cấp với tổng trị giá 120 tỷ USD do các
thành viên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những quốc gia gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, ASEAN còn thành lập Quỹ hợp tác đầu tư với Trung Quốc trị giá
10 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, và nhận sự hỗ trợ của

6


Nhật Bản - nền kinh tế lớn nhất khu vực - với hơn 62 triệu USD để khắc phục suy

thoái kinh tế.
3. Các thành tựu của ASEAN trong quá trình hội nhập kinh tế
• Nền kinh tế ASEAN ln vượt trội so với nền kinh tế toàn cầu. Tăng
trưởng GDP của khu vực có duy trì ở mức gần 5,0% kể từ năm 2011, trong
khi GDP toàn cầu giữ ở mức dưới 4,0% so với cùng kỳ.
• Đến năm 2018, tỷ trọng của ASEAN trong nền kinh tế toàn cầu đã mở
rộng, về danh nghĩa, lên 3,5% (tăng từ 2,9% ở 2010). ASEAN đã vươn lên
vị trí thứ năm trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới, với GDP danh
nghĩa ước tính đạt 3,0 nghìn tỷ USD, tăng hơn 50% so với mức năm 2010.
ASEAN theo sau Mỹ (24,2%), EU (22,1%), Trung Quốc (15,8%) và Nhật
Bản (5,9%).
• Được gắn kết tốt trong chuỗi giá trị toàn cầu, khu vực này cũng là một
trong những khu vực lớn nhất tồn cầu về thương mại Các mặt hàng.
ASEAN có thị phần 7,2% trong thương mại hàng hóa tồn cầu (xếp thứ tư
sau EU, Trung Quốc và Mỹ) và 6,8% thị phần trong thương mại dịch vụ
toàn cầu, và đứng thứ tư sau EU, Mỹ và Trung Quốc. Với mạnh mẽ nền
tảng kinh tế và một thị trường đang phát triển nhanh, ASEAN cũng là một
điểm đến đầu tư hấp dẫn. Trong năm 2018, ASEAN nhận được 154,7 tỷ
USD, chiếm 11,9% tổng dịng vốn FDI tồn cầu, cao nhất trong lịch sử của
khối, xếp hạng thứ ba sau EU và Mỹ. Khu vực này cũng nằm trong số các
nhà đầu tư toàn cầu lớn nhất, với các khoản đầu tư ra nước ngoài lên tới
69,6 tỷ USD - 6,9% tổng kim ngạch thế giới.
III. Những hạn chế của hội nhập kinh tế ASEAN
1. Những hạn chế của hội nhập kinh tế ASEAN

và bài học kinh nghiệm.

Kết quả hợp tác kinh tế trong ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
nhưng chưa thực sự tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương mại.
Thị phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 23% tổng giá trị thương mại của

cả khối (theo báo cáo hội nhập ASEAN năm 2019). Cường độ thương mại nội khối
không tăng lên, thậm chí cịn giảm đáng kể trong vài năm gần đây.
Hợp tác nội khối ASEAN đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương
mại nội khối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 23% tổng khối lượng thương mại toàn
khu vực, song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%) thì rõ ràng
mức hội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao.
Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu chỉ ở mức 7,2%, là mức
thấp so với quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế ASEAN chưa thực sự là những
nền kinh tế mạnh và đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế rất xa nhau. Vì vậy, cần
đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế tồn cầu trong vịng 3-5 năm tới để cạnh
tranh với các đối thủ đang trỗi dậy.
Điều quan trọng nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển
ASEAN 6 (Bruney, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) với
ASEAN 4 (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar) khá cao – được coi là yếu tố cản
trở chính của sự liên kết kinh tế.

7


Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu
(4I), gồm kết cấu hạ tầng, thu nhập, liên kết và thể chế. Mức chênh lệch đó được thể
hiện trên các phương diện sau:
• Thứ nhất, sự chênh lệch về mức độ mở của thị trường. Thuế nhập khẩu
trung bình của ASEAN ở mức 9,53%, dao động từ 0% (Singapore) đến
13,4% (Việt Nam). Để nhập khẩu bất kỳ loại hàng hoá nào trong ASEAN
cần mất thời gian trung bình là 32 ngày. Mức dao động khác nhau từ 3 ngày
(Singapore) tới 45 ngày (Campuchia) và 78 ngày (Lào). Thời gian trung
bình để bắt đầu hoạt động kinh doanh ở ASEAN là 64 ngày, trong khi đó ở
Singapore chỉ cần 6 ngày, cịn ở Indonesia là 97 ngày, Lào là 163 ngày.
• Thứ hai, chênh lệch về mức thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập

bình quân đầu người theo giá hiện hành của Singapore (52488,43 USD) –
nước có mức thu nhập bình qn đầu người cao nhất trong khu vực – cao
gấp gần 40 lần so với Myanmar (1358,62 USD) – nước nghèo nhất khu
vực. Thu nhập bình quân đầu người của Brunei, Malaysia cũng chỉ bằng
1/2 hoặc 1/5 của Singapore.
• Thứ ba, chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các
nước thành viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên
cũng khác nhau nhiều. Trong khi Singapore được đánh giá là nền kinh tế có
năng lực cạnh tranh cao thứ 1/141 trên thế giới thì Việt Nam chỉ được xếp
thứ 67/141, Lào xếp thứ 113/141 (Theo Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn
cầu 2019 – WEF). Tăng trưởng xuất nhập khẩu chế tạo và mức đóng góp
của ngành dịch vụ trong GDP của ASEAN 6 cũng chiếm khá cao (hơn
40%) so với mức 26% - 27% của các nước ASEAN 4 kể từ năm 2003 đến
nay.
• Thứ tư, chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế
trong đóng góp xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 trong
khi nhập khẩu đóng góp 21%GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của
ASEAN 6. Sự khác nhau trong xu hướng thương mại dẫn đến sự chênh
lệch thuế quan.
• Thứ năm, chênh lệch về chỉ số phát triển con người (HDI). Dựa trên các
thông số về y tế, giáo dục và kinh tế, ASEAN được chia thành 3 nhóm về
HDI: nhóm 1 “mức độ phát triển con người rất cao” gồm Singapore, Brunei
và Malaysia, nhóm 2 “mức độ phát triển con người cao” gồm Thái Lan,
Indonesia, Philippines và Việt Nam, cuối cùng là nhóm 3 “mức độ phát
triển con người trung bình” gồm Lào, Campuchia và Myanmar.
• Thứ sáu, chênh lệch mức giàu nghèo. Theo tiêu chí đánh giá mức nghèo
của quốc tế (dưới 1USD/ngày), Lào và Campuchia có số dân sống dưới
ngưỡng nghèo cao nhất, trong khi đó Singapore là 0%, Malaysia là 0,2% và
Philippines là 15,5%.
• Thứ bảy, chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng.

Mức chênh lệch giữa ASEAN 6 và ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới
đường cao tốc, đường sắt, hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga… Nhóm

8


ASEAN 4 cũng thiếu kết cấu hạ tầng “mềm” (công nghệ thông tin, viễn
thông và hệ thống ITC) – điều kiện tối cần thiết cho các giai đoạn phát triển
tiếp theo. Rõ ràng, những chênh lệch về kinh tế - xã hội, sự khác nhau về
năng lực tổ chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìm hãm tiến độ liên kết
và hội nhập khu vực.
Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở
chênh lệch về sự phát triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính…, trong đó,
việc thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh lệch về
trình độ phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tính khả thi
của các chính sách chung bị hạn chế.
2. Bài học kinh nghiệm
Để thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập, ASEAN cần tiếp tục đẩy nhanh liên kết
kinh tế nội khối, tích cực đàm phán với các đối tác bên ngoài để hình thành các khu
vực mậu dịch tự do rộng lớn hơn. Nhưng để liên kết kinh tế nội khối và việc đàm phán
xây dựng các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với các nước ngoài khu vực được
tiến triển nhanh, ASEAN cần giải quyết 6 vấn đề rất trọng yếu sau:
• Một là, hợp tác kinh tế từng phần là giải pháp chiến lược dài hạn thúc đẩy
tiến trình hội nhập của các quốc gia ASEAN. Đây là giải pháp được coi là
thích hợp nhất với các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay cũng như
trong tương lai lâu dài. Thông qua hợp tác về tiểu vùng kinh tế khu vực,
các nước ASEAN sẽ khai thác được lợi thế tuyệt đối về tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động với trình độ kỹ tḥt cao của các đơ thị nằm trong tiêu
khu vực, nhằm hoà nhập các lợi thế tuyệt đối riêng biệt thành một lợi thế
tổng hợp chung để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia.

• Hai là, ASEAN cần nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết đã có và tiếp tục
đề ra các sáng kiến mới nhằm đẩy nhanh tiến trình liên kết kinh tế nội khối,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên.
• Ba là, xây dựng các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với các đối tác
cần phải được tiến hành theo một lộ trình phù hợp, cùng có lợi, cùng phát
triển.
• Bốn là, sự tham gia của các doanh nghiệp cần được thúc đẩy ở cả hai phía.
Một mặt, các chính phủ cần xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp để xây
dựng các khu vực mậu dịch tự do; mặt khác, chính các doanh nghiệp cũng
cần chủ động khai thác triệt để những cơ hội mà các FTA mang lại.
• Năm là, để đẩy nhanh q trình thiết lập một khn khổ và nền tảng pháp
lý, ASEAN cần tham khảo tiến trình liên kết của các tổ chức khu vực, nhất
là mơ hình liên kết EU để nâng cao năng lực thực hiện chính sách của
mình, đồng thời tăng cường hỗ trợ các thành viên kém phát triển và cung
cấp những bảo hộ cần thiết cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong q
trình hội nhập kinh tế. Tuy hai mơ hình liên kết này có những sự khác biệt,
nhưng từ kinh nghiệm EU và thực tiễn, ASEAN cần sáng tạo đưa ra hướng
đi hợp lý cho AEC. Mặt khác, cơ chế hợp tác vận hành khơng nên áp dụng
máy móc mơ hình của EU. Bài học 40 năm qua của ASEAN cho thấy chính
sự tơn trọng lẫn nhau, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và

9




B.
I.

đồng thuận là nguyên tắc bảo đảm sự gắn kết giữa các quốc gia. Nếu rời bỏ

nguyên tắc đó sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề, thậm chí có thể đưa đến chia rẽ.
Nhưng nếu duy trì một cách cứng nhắc các nguyên tắc đó cũng có những
trường hợp sự hợp tác của ASEAN sẽ gặp phải những trở ngại. Vì vậy, phải
tìm cách dung hịa để đáp ứng cả 2 nhu cầu: ASEAN vận hành trôi chảy,
đồng thời duy trì được sự thống nhất trong đa dạng.
Sáu là, nỗ lực khống chế đại dịch COVID-19, vượt qua những khó khăn để
phục hồi kinh tế, đồng thời củng cố đoàn kết trong khối ASEAN; thực hiện
chiến lược đối ngoại độc lập, tự chủ, cân bằng, duy trì vai trị trung tâm
nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong xây dựng Cộng đồng và thể hiện
hình ảnh một ASEAN trách nhiệm, sẵn sàng phối hợp ứng phó với các vấn
đề nảy sinh. Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức
tạp, ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế cũng như gây gián đoạn chuỗi cung
ứng khu vực, các nước ASEAN và đối tác đều mong muốn Hiệp định Đối
tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa ASEAN và 6 đối tác đã có
Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với ASEAN là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand sớm có hiệu lực, cụ thể
là vào đầu năm 2022 nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư trong khu vực,
góp phần vào quá trình phục hồi kinh tế khu vực sau đại dịch. Đồng thời,
các nước ASEAN đưa ra các sáng kiến giúp xử lý những vấn đề tồn đọng
để có thể kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định bên lề Hội nghị Cấp cao
ASEAN lần thứ 37 diễn ra vào tháng 11.

CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI VỚI VIỆT NAM
Q trình gia nhập, vai trị và thành tựu của Việt Nam khi gia nhập
ASEAN

1. Quá trình gia nhập vào ASEAN của Việt Nam

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, có thể nói việc gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á - ASEAN là bước đi quan trọng của Việt Nam, là một quyết

định mang tính lịch sử, một quyết sách đúng đắn và kịp thời, là bước đệm đầu tiên để
Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới đem lại nhiều lợi ích cho đất nước và nhân dân
Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN cũng là một chặng đường
đầy gian nan và là cả một quá trình phấn đấu trong gần ba thập kỷ.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á thành lập vào ngày 8/8/1967. Lúc này,
nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Và Đông
Nam Á lúc này là một khu vực bị chia rẽ sâu sắc do những ảnh hưởng của cuộc chiến
tranh Lạnh.
Tháng 1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt
Nam được ký kết. Việt Nam trong giai đoạn này dù khơng có quan hệ với ASEAN
nhưng vẫn hợp tác song phương với các thành viên của tổ chức này.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã đem
lại nền độc lập, thống nhất hoàn toàn cho dân tộc ta. Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt
đầu xuất hiện những bước khởi đầu tốt đẹp từ chuyến thăm lần lượt các nước ASEAN
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh vào
cuối năm 1977 và đầu năm 1978.

10


Cuối năm 1978 – đầu năm 1979, vấn đề Campuchia đã khiến cho mối quan hệ
giữa Việt Nam và các nước ASEAN từ lập trường đối thoại chuyển sang đối đầu. Các
nước ASEAN thậm chí cịn thực thi chính sách cô lập Việt Nam. Tuy nhiên, tại hội
nghị được tổ chức vào tháng 2/1985, Ngoại trưởng các nước ASEAN đã thống nhất
việc đối thoại trực tiếp với Đông Dương nhằm giải quyết vấn đề Campuchia và lập lại
hịa bình ổn định khu vực.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới, cách nhìn nhận với ASEAN đã có
chuyển biến. Lúc này, Đảng ta cũng xác định “phải tăng cường quan hệ với các nước
Đông Nam Á”. Chưa đầy một năm, vào tháng 8/1987, trong cuộc gặp tại thành phố
Hồ Chí Minh giữa Việt Nam với Indonesia - đại điện ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại

giao Nguyễn Cơ Thạch bày tỏ nguyện vọng muốn gia nhập ASEAN.
Ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW về “nhiệm vụ và
chính sách đối ngoại trong tình hình mới”, nhấn mạnh chủ trương “thêm bạn, bớt thù”,
chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng
tồn tại hịa bình.
Chiến tranh Lạnh kết thúc vào năm 1991 cũng đã đặt ra cho ASEAN u cầu
mở rộng vì hịa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và từng thành viên. Cũng trong
lúc này, từ ngày 24/10 - 1/11/1991, Thủ tướng Võ Văn Kiệt lần lượt thăm hữu nghị
chính thức Indonesia, Thái Lan và Singapore. Những nỗ lực ngoại giao trên đã làm
thay đổi diện mạo quan hệ đối đầu ASEAN - Đơng Dương sang hướng hịa dịu, tạo
điều kiện cho quá trình đàm phán gia nhập ASEAN của Việt Nam được đẩy nhanh.
Năm 1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam
Á (TAC) và trở thành quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM)
hằng năm. Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác
chuyên ngành ASEAN.
Đến tháng 10/1993, Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm mới, xác định rõ ràng
quan hệ láng giềng hữu nghị đối với các nước Đông Nam Á, chủ yếu là các nước
ASEAN. Sau đó, vào tháng 7/1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp của Diễn
đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của
Diễn đàn này. Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nộp đơn
chính thức xin gia nhập ASEAN. Và tại hội nghị AMM lần thứ 27, các nước tuyên bố
nhất trí đón nhận Việt Nam là thành viên của ASEAN.
Ngày 28/7/1995, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM28) diễn ra ở thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei Darussalam, Việt Nam chính
thức gia nhập ASEAN. Việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 giúp đẩy
nhanh quá trình mở rộng Hiệp hội ra cả 10 nước trong khu vực, qua đó củng cố hịa
bình, ổn định ở một khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về địa - chính trị và địa - kinh
tế, là trung tâm kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Tháng 12/1998, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị ASEAN lần thứ VI
trong vai trò chủ tịch luân phiên và chỉ sau 3 năm gia nhập, kế hoạch hành động Hà
Nội tại hội nghị đã góp phần duy trì sự hợp tác và tăng cường vị thế của hiệp hội trong

suốt cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 – 1998.
12 năm sau, vào năm 2010, Việt Nam đăng cai tổ chức hội nghị cấp cao
ASEAN XVI và XVII tại Hà Nội. Đây là năm Việt Nam đảm nhận vai trò chủ tịch
ASEAN và kỷ niệm 15 năm gia nhập.

11


Ngày 9/2/2013, ơng Lê Lương Minh chính thức nhậm chức tổng thư ký
ASEAN và trở thành người Việt Nam đầu tiên đảm nhận chức vụ này.
Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta tiếp tục xác định phương hướng đối với
hợp tác trong ASEAN là “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước
ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”, “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại
các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp Quốc”.
Năm 2018, Việt Nam là chủ nhà hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN
(WEF – ASEAN). Với chỉ thị 25-CT/TW ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư về “đẩy mạnh
và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, nhấn mạnh nội dung cần “tiếp tục
phát huy và khai thác có hiệu quả vai trị thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN”.
Năm 2020, Việt Nam đảm nhận tốt vai trò chủ tịch ASEAN bất chấp đại dịch
Covid-19. Việt Nam đã không ngừng thể hiện vai trị dẫn dắt của mình và ngày càng
khẳng định được vị thế thể hiện qua việc xây dựng kế hoạch phục hồi kinh tế toàn
diện cho khu vực trong bối cảnh đại dịch.
Tại Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), tư duy về đối ngoại song phương và đa
phương có những bước phát triển mới. Song dù hội nhập thế giới nhưng đường lối đối
ngoại của Đảng vẫn phải “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi”.
Những khó khăn trong q trình gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Trong tiến trình Việt Nam gia nhập vào ASEAN, mối quan hệ giữa hai bên luôn
biến thiên qua nhiều giai đoạn. Trước năm 1991, quan hệ Việt Nam – ASEAN luôn

tồn tại tâm lý nghi kỵ và lạnh nhạt, thậm chí, có lúc rất căng thẳng và đối đầu. Về phía
ASEAN, ngay từ khi hiệp hội này thành lập đã để ngỏ khả năng tham gia của các
nước trong khu vực có cùng quan điểm.
Chỉ sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam mới tiến hành điều chỉnh quan hệ
với các nước Đông Nam Á và chủ yếu là các nước ASEAN. Dẫu vậy, trong giai đoạn
này, Việt Nam khá dè dặt trong quan hệ ngoại giao với ASEAN. Thậm chí, bản thân
các nước ASEAN cũng tỏ ra thận trọng khi cân nhắc việc mở rộng thêm thành viên là
Việt Nam trong tình hình tổ chức này cịn q non yếu.
Ngồi ra, khoảng cách kinh tế cũng là một rào cản trong quan hệ Việt Nam –
ASEAN. Trong khi các thành viên ban đầu ASEAN đều đã là những nước đi đầu về
kinh tế, Việt Nam lúc bấy giờ đang phải nỗ lực khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng
nề sau hai cuộc chiến tranh ở trong bối cảnh bị Mỹ bao vây và cấm vận. Do đó, các
nước ASEAN lo ngại việc kết nạp Việt Nam sẽ kìm hãm sự phát triển của khối cũng
như gây xáo trộn, mất cân bằng về tính ổn định, hài hồ và kết dính của tổ chức.
“Vật cản” lớn nhất trong tiến trình Việt Nam gia nhập vào ASEAN là vấn đề
Campuchia. Hành động Việt Nam đưa quân đội vào Campuchia vấp phải phản ứng
quyết liệt của quốc tế, bị xem là hành vi “vi phạm lãnh thổ” một quốc gia có chủ
quyền và đe dọa hịa bình và an ninh thế giới. Các nước ASEAN cũng cho rằng Việt
Nam “xâm lược Campuchia”, gây bất ổn trong khu vực. Từ đó, quan hệ Việt Nam –
ASEAN trở nên “nguội lạnh” đột ngột. Mãi cho đến những năm đầu của thập niên
1990, khi thế giới bước vào xu hướng hịa hỗn hai cực, vấn đề Campuchia được giải
quyết, quan hệ Việt Nam – ASEAN mới được hàn gắn.
Những thuận lợi trong quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam.

12


Bên cạnh những nốt trầm trong thời gian đầu của quá trình gia nhập vào
ASEAN, những nốt thăng ngày càng cất cao sau những năm 1990, thúc đẩy quá trình
Việt Nam vào ASEAN một cách nhanh chóng.

Một trong nhân tố tiêu biểu tạo nên những nốt thăng này chính là “đường lối
đổi mới nói chung và đổi mới trong quan hệ đối ngoại nói riêng của Đảng Cộng sản
Việt Nam”. Thực tế, để hiện thực hóa sự kiện gia nhập ASEAN vào ngày 28-7-1995,
Việt Nam đã trải qua những bước phát triển mạnh mẽ trong tư duy đối ngoại, nhờ đó
có sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt, kịp thời, nhấn mạnh lợi ích cao nhất của đất
nước lúc này là tranh thủ điều kiện hịa bình để phát triển.
Ngồi ra, trước xu thế hồ hỗn Đơng – Tây và Chiến tranh lạnh gần đi vào hồi
kết, ASEAN nhận thức được việc có một khu vực hồ bình và ổn định, cũng như một
thị trường lớn để phát triển là điều cần thiết. Đặc biệt, sau khi Liên Xô sụp đổ vào
tháng 12/1991, cục diện khu vực Đông Nam Á thay đổi, ASEAN buộc phải tìm hướng
đi mới cho mình. Điều quan trọng là phải tạo dựng một tập thể đồn kết giữa các nước
Đơng Nam Á để chống lại các mối đe dọa từ bên ngồi thay vì trở thành khu vực bị
các nước lớn chi phối như trước.
Tóm lại, việc gia nhập vào ASEAN là quyết sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa
lịch sử và chiến lược quan trọng đối với Việt Nam. Quá trình Việt Nam gia nhập vào
ASEAN đã thể hiện được những bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng
và Nhà nước ta về hội nhập khu vực để làm nền tảng hội nhập quốc tế.
2. Vai trò và những thành tựu của Việt Nam từ khi tham gia ASEAN
Hơn 26 năm gia nhập, Cộng đồng ASEAN đã ghi nhận những đóng góp tích
cực của Việt Nam vào sự phát triển chung của Hiệp hội. Các lãnh đạo ASEAN đã
thông qua Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025: “Cùng vững vàng tiến bước, cam kết
xây dựng “một Cộng đồng hịa bình, ổn định và tự cường với năng lực được nâng cao
để ứng phó hiệu quả với các thách thức”.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực thời gian gần đây chịu nhiều tác động từ
dịch bệnh COVID-19, những đóng góp của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi
nhận. Thành quả này bắt nguồn từ những thành tựu sau hơn 25 năm Việt Nam đồng
hành cùng ASEAN. Những thành tựu đó được thể hiện cụ thể như sau:
Về Chính trị - Ngoại giao: Kể từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã xây
dựng quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc; có quan hệ
đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; đạt được cương vị Ủy viên không

thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021.
Về Kinh tế: ASEAN là đối tác xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam (sau Mỹ,
EU, Trung Quốc) là thị trường cung cấp hàng hóa nhập khẩu lớn thứ ba vào Việt Nam
(sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên cho
biết nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289 USD thì đến
năm 2020 con số này đã là 3.520 USD, tăng hơn 12 lần so với năm 1995. Quy mô nền
kinh tế tăng gần 17 lần từ 20,8 tỷ USD vào năm 1995 lên khoảng 343 tỷ USD vào
năm 2020, đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam tăng từ 5,2 tỷ USD vào năm 1995 lên 283 tỷ USD vào năm 2020. Cùng với hội
nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào các tổ chức trong khu vực và trên thế giới, nguồn
vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng mạnh qua các năm, đạt 29 tỷ USD vào năm
2020.

13


Năm 2020, với việc là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã cùng các nước thành
viên phát huy đúng tinh thần “gắn kết và chủ động thích ứng”; đồng thời đề xuất nhiều
sáng kiến nhằm tạo điều kiện củng cố chuỗi cung ứng khu vực, khắc phục hậu quả
tiêu cực do đại dịch Covid-19 gây ra đối với nền kinh tế.
Về Văn hóa - Xã hội: Khi đề xuất thành lập Cộng đồng ASEAN, giới lãnh đạo
ASEAN ban đầu chủ yếu tập trung cho việc xây dựng 2 cộng đồng chính, gồm Cộng
đồng An ninh - Chính trị và Cộng đồng Kinh tế, cịn Cộng đồng Văn hóa - Xã hội về
sau mới được xây dựng với đóng góp lớn từ Việt Nam. Một thành tựu quan trọng khác
khi Việt Nam gia nhập ASEAN là đã rèn luyện, đào tạo và nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ đối ngoại, nhất là cán bộ làm công tác đa phương của Việt Nam; giúp
chúng ta ngày càng vững vàng hơn khi “vươn ra biển lớn” hội nhập tồn cầu.
Nói tóm lại, vào năm 2020, tại lễ kỷ niệm 25 năm ngày Việt Nam gia nhập
ASEAN, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng
định: “Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ trương của Việt Nam

đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong khu vực nhìn nhận về
vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác,
Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần Việt Nam”.
II.

Cơ hội của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế của ASEAN

Gia nhập AEC cũng như tham gia các hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN
với các đối tác, một mặt giúp Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặt khác
cũng là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực.
Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN đã và đang tạo nền tảng để Việt Nam tiếp
tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước
lớn, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Có thể nói, hội
nhập ASEAN cho đến nay vẫn được coi là “điểm tựa” quan trọng cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Về Chính trị - Ngoại giao: Việt Nam gia nhập ASEAN đã đóng góp vào việc
hình thành, củng cố và phát triển các thể chế do ASEAN thành lập và dẫn dắt như:
quyết định mở rộng Hội nghị cấp cao Ðông Á (EAS) để kết nạp thêm Mỹ và Nga; lần
đầu tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+); vận động
để đại diện cho ASEAN dự Hội nghị cấp cao Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới
nổi hàng đầu thế giới (G20).
Về Văn hóa - Xã hội: Chính sách miễn thị thực du lịch ngắn hạn giữa các nước
ASEAN và hạ tầng du lịch ngày càng thuận lợi, ngành du lịch ở các nước ASEAN đã
cất cánh mạnh mẽ trong thời gian qua và thu hút được nguồn khách quốc tế lớn, tạo
nên nguồn thu quan trọng cho nền kinh tế. Khi Việt Nam gia nhập ASEAN, có cơ hội
rèn luyện, đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đối ngoại, nhất là cán bộ
làm công tác đa phương của Việt Nam.
Về Kinh tế: Việc gia nhập ASEAN được coi là bệ phóng giúp Việt Nam hội
nhập sâu vào sân chơi của khu vực và tồn cầu. Việt Nam có cơ hội tham gia nhiều cơ
chế hợp tác khu vực ASEAN+ và các hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực mà

ASEAN là trung tâm; xây dựng quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế
giới.

14


1. Cơ hội có được một thị trường rộng lớn hơn
ASEAN có tổng GDP hiện nay trên 3,2 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung
bình 5%-6% hàng năm. Dân số gần 700 triệu người, với cơ cấu dân số
tương đối trẻ. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục 155 tỷ USD trong
năm 2018, là nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) năm 2018 đạt khoảng 3 nghìn tỷ USD. AEC với việc tự do hóa dịch
chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt
động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn ở các nước
khác trong khu vực ASEAN… Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt
Nam nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường. Mặt khác, AEC tạo lập một khu
vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều nước trở
nên phồn vinh hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên một lượng
mới người tiêu dùng trung lưu với thu nhập cao - cũng là đối tượng khách
hàng rất tiềm năng của các doanh nghiệp.
• Ngồi ra, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP - được ví
như một “siêu hiệp định” - bởi sự tham gia của với sự tham gia của 10 nền
kinh tế ASEAN và 5 đối tác có đa dạng các nền kinh tế cả trình độ cao, với
quy mơ 27.000 tỷ USD, tương ứng khoảng 30% tổng GDP toàn cầu, tạo ra
một thị trường lớn nhất thế giới với hơn 2,2 tỷ người tiêu dùng) cũng đã
được ký kết vào ngày 15/11/2020.
“Việt Nam trong những năm qua có điểm rất lợi về thế trận hội nhập, đó là ký
kết được nhiều FTA, nhiều đối tác chiến lược, đi nhanh về FTA, sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp gắn với xu thế chung của thế giới rất tốt, đó là hình thành mạng sản

xuất, chuỗi giá trị, những thị trường rộng lớn nhất, những nhà đầu tư và kinh doanh tốt
nhất. Do đó là điều kiện tốt để Việt Nam tham gia học hỏi, nắm bắt và đây là lợi thế
của Việt Nam đã có được” - TS. Võ Trí Thành đánh giá.
2. Cơ hội mở rộng xuất khẩu
• Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ
ngày càng mở rộng. AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối
tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền
kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm
qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Với lợi thế là
khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao.
“Điều quan trọng nhất là việc tham gia sâu rộng vào AEC sẽ giúp Việt Nam tăng
cường cải cách nền kinh tế ở trong nước theo những tiêu chuẩn của hội nhập, giúp cho
nền kinh tế Việt Nam phát triển hiệu quả hơn, qua đó dần vượt qua những thách
thức.”, Theo Ông Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương - Phó
Giám đốc ĐHQGHN.
• Cơ hội mở ra cho thấy khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị
trường đơn nhất, khai thác được tối đa các hiệp định thương mại tự do
(FTA) mang lại, thuế suất lưu thông hàng hố giữa các nước trong khu


15


vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Thời gian qua, ASEAN liên tục thuộc
nhóm các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam.
• Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng sang
các nước ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một trong
những thuận lợi đối với việc lưu chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp.
Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm rà hơn và việc cải cách

thủ tục xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ
cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thơng quan hàng hóa
sang các thị trường ASEAN. Với việc tham gia Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), đàm phán ký kết Hiệp định Ưu đãi thuế quan của
ASEAN (CPT), Việt Nam đã có nhiều ưu thế để tăng trưởng thương
mại, kinh tế, đồng thời tạo động lực phát triển sản xuất – kinh doanh.
Đồng thời ASEAN đã ký các Hiệp định thương mại tự do với các thị
trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và
New Zealand.
3. Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam
• Khi AEC được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng
lớn hơn. Thêm vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống dần về
0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá
thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Theo quy
định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được
xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu
sang các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để
Việt Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho
hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực.
• Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ quy
mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa
cạnh tranh. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết
chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào tăng trưởng và
thịnh vượng chung của khu vực.
• Cơ hội để Việt Nam tiếp tục thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng
giá trị gia tăng (từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang mặt hàng có chất
lượng cao); nâng cao năng lực và hiệu quả của nguồn nhân lực Việt
Nam…
4. Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư
• Cơ hội được trơng đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng

gì Việt Nam đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát
triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia
cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi
chung, một cơng xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống nhất, đặc
biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá cịn tương đối rẻ.
• AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh từ
thủ tục hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân

16


bằng hơn. Thu hút đầu tư nhiều hơn đồng nghĩa với q trình chuyển
giao cơng nghệ diễn ra nhanh và tích cực hơn, góp phần nâng cao chất
lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà cho nền công nghiệp Việt Nam
hướng tới phát triển cân bằng với các quốc gia khác.
• Hàng hóa, dịch vụ, vốn, cơng nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự
do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự
phân biệt đối xử nào giữa các thành viên.
• Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như mở rộng cơ hội
đầu tư sang các nước ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tiếp
cận các nguồn hỗ trợ về khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản
lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ
và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
• Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN tạo nền tảng để Việt Nam tiếp
tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất
là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp
tác khu vực và quốc tế, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc
tế của Việt Nam.
III.


Thách thức đối với Việt Nam

Bên cạnh những cơ hội giúp nước ta ngày một phát triển sẽ là những thách thức
mà Việt Nam phải đối mặt và vượt qua trong quá trình hội nhập.
1. Đối với kinh tế
Thứ nhất sự chênh lệch về trình độ phát triển.
Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi tham gia vào ASEAN là
sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các nước ASEAN-6 ở cả năng lực và nguồn
lực. Đây là những vấn đề không thể khắc phục được trong tương lai gần. Chênh lệch
về trình độ phát triển dẫn đến sự phụ thuộc, việc nước ta hợp tác với bên ngồi gia
tăng cũng sẽ đi đơi với sự phụ thuộc của chúng ta ngày càng nhiều hơn.
Theo nghiên cứu của World Bank 2020 GDP bình quân đầu người của
Singapore (59,798 USD) cao gấp 21 lần nước ta (2,786 USD) cho thấy sự tương phản
quá lớn giữa nước ta với các nước thành viên. Để sánh vai được với Thái Lan,
Malaysia hay Singapore thì cần rất nhiều sự chuẩn bị và nhiều thời gian. Theo nghiên
cứu, chúng t nghĩ rằng phải mất từ 10-20 năm nữa nếu Việt Nam chúng ta đi rất nhanh
thì mới có thể bắt kịp được họ như bây giờ.
Thứ hai là vấn đề năng suất lao động của Việt Nam thấp.
Vấn đề năng suất lao động là một trong những thách thức lớn của Việt Nam,
hiện tượng chảy máu chất xám vẫn xảy ra. So với các nước trong khu vực ASEAN,
năng suất lao động trung bình của người Việt Nam thấp dưới một nửa so với
Philippines, 2 người lao động Thái lan và 1 lao động Malaysia bằng 5 người lao động
Việt Nam, 1 người lao động Singapore bằng 15 người lao động Việt Nam. Qua sự so
sánh trên chúng ta có thể hình dung chất lượng của lao động Việt Nam hiện nay thấp
như thế nào. Năng suất lao động thấp đi liền với tiền lương thấp nên nhiều người cho
rằng đó là lợi thế của nước đi sau, nhưng thực tế không đơn thuần như vậy. Tiền lương
chỉ hấp dẫn khi nó thấp hơn năng lực sản xuất thực (đồng nghĩa với việc người chủ
khi trả lương sẽ thu được lợi thế).

17



Thêm vào đó nguy cơ tụt hậu nền kinh tế do năng suất thấp là rất cao vì lao
động thấp đồng nghĩa với tính kém đa dạng của các loại kỹ năng, khả năng sáng tạo
cũng như hiệu quả tổ chức thấp,... Với những đặc điểm này, Việt Nam sẽ không phải
là một điểm hấp dẫn cho những dự án đầu tư mang tính tiên phong về cơng nghệ hoặc
quy mô. Điều này sẽ là nguyên nhân tách Việt Nam (và các nước đi sau) ra ngày càng
xa các nước đã có một nền tảng tốt hơn trong ASEAN (như: Malaysia, Thái Lan hoặc
Indonesia).
Thứ ba là môi trường hội nhập ngày càng cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hơn với
các doanh nghiệp Việt Nam
Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của
hàng hóa từ các nước khác trên thị trường ASEAN do AEC hình thành sẽ tạo ra thị
trường chung, khơng cịn các rào cản hàng hóa, dịch vụ, vốn…Lợi nhuận hóa thương
mại trong AEC cũng sẽ tạo ra sự cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường của các nước trong
khu vực. Khi Việt Nam thực hiện cam kết giảm thuế suất đối với các sản phẩm nhập
khẩu từ các nước đối tác thì hàng hóa Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của
hàng nhập khẩu từ các nước đối tác này.
Cạnh tranh gay gắt có thể tạo ra động lực to lớn giúp các doanh nghiệp nói
riêng, đất nước ta nói chung ngày một phát triển nhưng nó cũng có thể là lí do khiến
khoảng cách giữa nước ta với các nước thành viên ngày càng xa. Thị trường cạnh
tranh khiến một nước yếu như Việt Nam rất dễ bị chèn ép, bị bỏ lại phía sau nếu
khơng vận động biến đổi. Cạnh tranh vừa là động lực vừa là áp lực đối với Việt Nam.
Thứ tư là năng lực cạnh tranh của nước ta còn thấp.
Trong ASEAN Singapore - một quốc gia có năng lực cạnh tranh rất cao đứng
thứ 1 thế giới trong khi năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ xếp thứ 67 có nghĩa là
còn đến 66 bậc về khoảng cách năng lực cạnh tranh trong cùng một khối. Điều đó sẽ
dẫn đến tác động khơng tích cực đến sự phát triển chung của khối. Năng lực cạnh
tranh Việt Nam đến nay tuy đã được cải thiện nhưng chỉ có một số doanh nghiệp lớn.
Tuy nhiên những doanh nghiệp lớn này lại giàu lên là nhờ vào bất động sản nhờ vào

ăn chênh lệch giá đất chứ khơng phải có cơng nghệ.
Xét về các tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như: giá cả, chất lượng, mạng lưới
tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp,… thì sức cạnh tranh hàng hóa Việt Nam cũng
còn thua kém nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ năm nguy cơ Việt Nam bị tụt hậu.
Nếu khơng tận dụng cơ hội phát triển kinh tế thì nước ta sẽ bị tụt hậu so với
các nước trong khu vực. Nước ta phải vận động, biến đổi sáng tạo khơng ngừng nghỉ
để khơng bị tụt lại phía sau trên đường đua khốc liệt này. Chỉ có thể đẩy mạnh tiến độ,
nỗ lực trên mọi phương diện kinh tế - xã hội - mơi trường thì khoảng cách giữa nước
ta với các nước thành viên trong khu vực mới được rút ngắn.
2. Đối với chính trị - xã hội
Thứ nhất là thể chế chính trị khác nhau giữa Việt Nam và các nước thành viên.
Thể chế chính trị của mỗi quốc gia là khác nhau, để có được sự đồng tḥn
trong khối ASEAN là một điều rất khó. Ngồi hợp tác vững mạnh trên lĩnh vực kinh
tế thì nước ta cần tuân thủ các nguyên tắc của khối. Giữa các thành viên trong khối
còn thiếu sự tin tưởng, thậm chí hồi nghi lẫn nhau, xung đột,… Chính vì thế Việt

18


Nam khi tham gia hội nhập ASEAN cần hợp tác hữu nghị trên phương diện hịa bình
và vui vẻ.
Thứ hai hội nhập có thể bị du nhập các tệ nạn xã hội.
Bên cạnh những cơ hội rộng mở như: thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng
thị trường, giao lưu hợp tác hữu nghị với các nước thành viên,… thì Việt Nam cũng có
nguy cơ bị du nhập vào đất nước mình các tệ nạn xã hội. Chúng ta mở cửa giúp hoạt
động thương mại, logistic phát triển nhưng vẫn sẽ tồn tại những cuộc buôn lậu bất hợp
pháp, vận chuyển trái phép chất cấm, …Các loại văn hóa phẩm đồi trụy lôi kéo dụ dỗ
người dân vào con đường lệch lạc trong cách sống, dẫn đến dễ bị tha hóa biến chất
thành những con người ích kỷ, thực dụng nên gây ra nhiều tệ nạn xã hội hòng chống

phá chế độ xã hội chủ nghĩa, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Những
vấn đề này hầu như khơng thể tránh khỏi và rất khó kiểm soát.
Thứ ba nguy cơ bị phai nhạt bản sắc dân tộc.
Bản sắc dân tộc được ví như “bộ gen” phản ánh đặc trưng riêng biệt, độc đáo
và giàu giá trị nhất của một nền văn hóa quốc gia. Gia nhập ASEAN đồng nghĩa với
việc sẽ có những nền văn hóa mới du nhập vào nước mình. Các nền văn hóa khác có
thể mới, lạ nhưng là một người cơng dân thì chúng ta nên có ý thức giữ gìn và phát
huy truyền thống bản sắc dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là nét đặc trưng riêng của
mỗi nước, nếu chúng ta làm phai nhạt nó thì chúng ta rất dễ trở thành bản sao của một
nước khác.
3. Đối với môi trường
Sức khỏe của môi trường thường tỉ lệ nghịch với tiến trình phát triển tăng
trưởng của nền kinh tế. Hiện nay, tại Việt Nam nhiều dự án FDI có điểm giống nhau là
hướng đến khai thác tài nguyên thậm chí tận diệt nguồn tài ngun, gây ơ nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là làm thế nào vừa phát triển
nền kinh tế, hội nhập với các nước trong khu vực vừa không làm tổn hại đến môi
trường.
IV.

Giải pháp của Việt Nam

Để tham gia và trở thành một thành viên tích cực, vững mạnh của AEC, Việt
Nam cần phải ra sức phát huy tinh thần tự lực, tự cường của từng đơn vị, tổ chức kinh
doanh và xã hội, từng địa phương và cả nước, tận dụng mọi tiềm năng, phát huy lợi
thế, nắm bắt cơ hội, hạn chế vững. Trong khi tăng cường hợp tác kinh tế có hiệu quả
với các nước đang phát triển như Lào, Campuchia, Myanmar… cần có mục tiêu nhanh
chóng đuổi kịp các nước phát triển trong khối.những mặt yếu kém, vượt qua mọi
thách thức, vườn lên xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh, bền.
Một số nhóm giải pháp cụ thể:
1. Tái cân bằng thương mại nội khối

ASEAN sẽ cần có nhiều biện pháp hơn để tăng dịng chảy thương mại nội khối
ASEAN, khơng chỉ phục vụ cơ sở tiêu dùng trong nước đang phát triển nhanh chóng,
mà cịn đối trọng với các rủi ro có thể phát sinh do phụ thuộc quá nhiều vào các đối
tác thương mại bên ngoài (thương mại ngoài ASEAN). Thương mại ngoài ASEAN
tiếp tục thống trị xuất khẩu của ASEAN, chiếm 75% xuất khẩu trong năm 2016. Có
một rủi ro đáng kể liên quan đến mức độ phụ thuộc cao vào các đối tác bên ngoài, đặc
biệt là Trung Quốc và Mỹ trong số các nước ASEAN, Việt Nam là một trong những
nước phụ thuộc nhiều nhất vào thương mại. Nó sẽ cần phải cân bằng sự phụ thuộc quá

19


mức vào chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách xây dựng ASEAN như một nguồn nhu cầu
chính cho xuất khẩu trong các lĩnh vực như nông sản và điện tử.
2. Tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân vào nền kinh tế
Hướng tới một nền kinh tế do khu vực tư nhân lãnh đạo sẽ giúp hạn chế thâm
hụt tài chính và gánh nặng nợ. Doanh nghiệp nhà nước không phải lúc nào cũng hiệu
quả về vốn, cần đầu tư trung bình 8,03 đơn vị vốn để sản xuất thêm một đơn vị sản
lượng (còn được gọi là tỷ lệ đầu ra vốn gia tăng ICOR). Con số này cao gấp 1,5 lần so
với nền kinh tế nói chung và gần gấp đôi so với khu vực tư nhân (ngoài nhà nước).
3. Chiến lược thâm nhập thị trường
Các công ty muốn đầu tư vào Việt Nam cần xem xét cẩn thận các khuôn khổ
thể chế tại chỗ và tác động của những điều này đối với việc gia nhập và mở rộng thị
trường. Các công ty như vậy phải:
• Hiểu được chi phí kinh doanh tổng thể và tác động đến thương hiệu và
danh tiếng thông qua nghiên cứu thị trường thích hợp và thẩm định.
• Đầu tư vào việc phát triển các khả năng mới để giảm thiểu các rủi ro liên
quan đến quy định và an ninh liên quan đến các thị trường ASEAN cụ
thể.
• Đảm bảo sự tham gia mạnh mẽ với tất cả các bên liên quan trong khi

cũng áp dụng các khuôn khổ và thực tiễn quản lý rủi ro mạnh mẽ.
• Khám phá việc triển khai các giải pháp công nghệ tiên tiến hơn (chẳng
hạn như các công cụ giám sát dựa trên Internet of Things hoặc hợp đồng
thông minh dựa trên blockchain để giảm thiểu bất kỳ sự gián đoạn chuỗi
cung ứng nào).
4. Kết nối kỹ thuật số các nước
ASEAN cần bắt đầu chuẩn bị cho công nghiệp 4.0. Cải thiện kết nối kỹ thuật số
trên toàn khu vực sẽ là bước đầu tiên theo hướng này. Điều này sẽ giúp tích hợp
ASEAN vào một thị trường duy nhất và cung cấp các đề xuất giá trị mới cho các công
ty để xác định vị trí các trung tâm sản xuất và dịch vụ của họ. Điều này sẽ cung cấp
cho sự di chuyển dễ dàng hơn của vốn, hàng hóa và dịch vụ và giúp phát triển chuỗi
giá trị khu vực đầu cuối mạnh mẽ hơn cho các sản phẩm - với các trung tâm sản xuất
trưởng thành hơn tập trung vào hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các doanh
nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và thị trường ,thiết
kế và các thành phần công nghệ cao, và sản xuất và lắp ráp có giá trị thấp được thực
hiện tại các trung tâm kém tiên tiến hơn.
5. Có được và tăng cường kỹ năng
Giải quyết khoảng cách tài năng và tái kỹ năng lực lượng lao động sẽ là trung
tâm để có được lực lượng lao động sẵn sàng cho Công nghiệp 4.0. Khơng giống như
cơ sở hạ tầng cơng nghệ có thể được xây dựng hoặc mua, việc thúc đẩy tư duy đúng
đắn và phát triển các kỹ năng cho Công nghiệp 4.0 khó khăn hơn nhiều. Do đó, những
khả năng này cần được xem xét và lên kế hoạch để đảm bảo đúng người và kỹ năng để
vận hành mô hình hoạt động cơng nghệ mới. Các thị trường ASEAN mới nổi như Việt
Nam có thể học hỏi từ các đồng nghiệp phát triển như thế nào họ đã chuẩn bị cho sự
gián đoạn công nghệ
Một số giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam:

20



Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam muốn phát triển ở quốc gia khác thì
việc thích nghi được với từng địa phương của nước sở tại là rất quan trọng, do đó nên
hiểu được phong tục tập quán, nền văn hóa của ít nhất một trong 9 nước ASEAN cịn
lại, học tập ngơn ngữ, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về ASEAN.
Thứ hai, cần mở rộng độ bao phủ phúc lợi xã hội, trong đó có cơ chế bảo hiểm
thất nghiệp trên tồn quốc. Biện pháp này sẽ góp phần giảm bớt những tác động của
chuyển dịch cơ cấu và hỗ trợ người lao động chuyển sang làm việc ở các ngành với
năng suất cao hơn.
Thứ ba, chú trọng nâng cao trình độ nguồn nhân lực ln là u cầu quan
trọng để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngồi có trình độ phát
triển cao hơn.
Thứ tư, các hệ thống thương lượng tập thể mới cũng đang là một yêu cầu bức
thiết để tạo ra môi trường kinh doanh bền vững hơn. Điều này góp phần bảo đảm
rằng, tăng năng suất lao động đi kèm tiền lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn,
đồng thời đảm bảo một thị trường nội địa vững mạnh.
Thứ năm, cần cải thiện cơng tác bảo vệ nhóm lao động di cư và các hệ thống
phục vụ việc công nhận kỹ năng của họ, đặc biệt là ở những ngành nghề mà trong đó
các lao động với kỹ năng thấp và trung bình chiếm tỷ lệ cao, như lĩnh vực xây dựng.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Wikipedia
Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2019 (WEF)
World Bank
Niên giám Thống kê ASEAN 2020
Báo cáo Hội nhập ASEAN 2019 (Ban Thư ký ASEAN)
/>7) />8) Việt Nam và AEC 2015, TS Nguyễn Đức Thành
9) Cơ hội và thách thức khi Việt Nam hội nhập vào thị trường thế giới, VP

UBQG – HTKTQT
10) Tạp chí Tài chính Online
1)
2)
3)
4)
5)
6)

22



×