1
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH, CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
1.1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng liên doanh,
Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
1.1.1. Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng và hoạt động quản lý
Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trên thế giới gắn liền với sự phát
triển của trình độ sản xuất và tiến bộ của xã hội loài người. Đến những năm
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các Ngân hàng thương mại trên thế giới nhất là ở
Mỹ và các nước Tây Âu đã phát triển mạnh, cùng giai đoạn lịch sử đó đã xuất
hiện ngân hàng phát hành - đó là Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ phát
hành tiền, nhận tiền gửi và cho vay đối với các Ngân hàng thương mại. Đến
thời kỳ này, hệ thống Ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường đã được
xác lập và phát triển thành hệ thống Ngân hàng hiện đại. Các Ngân hàng đã và
đang có những bước phát triển và hoàn thiện, thể hiện tính đa dạng và phong
phú về thể chế; sự phân hoá thành những ngân hàng lớn và nhỏ trong sự cạnh
tranh quyết liệt của cơ chế thị trường; chất lượng hoạt động nghiệp vụ không
ngừng được nâng cao trở thành công nghệ ngân hàng hiện đại như ngày nay.
Sự mở rộng về quy mô và không ngừng được nâng lên về chất lượng của
các Ngân hàng thương mại cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương
và xu hướng toàn cầu hoá hoạt động ngân hàng, làm cho hoạt động của các
Ngân hàng thương mại không chỉ bị giới hạn trong mỗi quốc gia mà nó được
phát triển mở rộng sang nhiều nước khác. Lúc này, sự chu chuyển vốn từ nơi
thừa đến nơi thiếu cũng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và mang tính quốc tế.
2
Mặt khác, mục tiêu của các Ngân hàng thương mại là tìm kiếm lợi
nhuận, sự tìm kiếm này không chỉ ở trong nước mà còn được thực hiện cả ở
nước ngoài. Khi các Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động của mình ra
nước ngoài thì không chỉ là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn, mà còn đảm
bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của mình trong sự cạnh tranh ngày càng
gat gắt của thị trường.
Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận nên các Ngân hàng thương mại nhiều
khi coi nhẹ việc tuân thủ luật pháp và các quy chế an toàn, có trường hợp không
phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Mặt khác, kinh doanh
tiền tệ là loại kinh doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại kinh doanh.
Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh tiền tệ mà các Ngân hàng thương mại
thường gặp phải là:
- Rủi ro lãi suất,
- Rủi ro hối đoái và tỷ giá,
- Rủi ro hệ thống,
- Rủi ro môi trường,
- Rủi ro cơ chế v.v...
Ở nước ta, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, Đảng ta yêu cầu "chuyển
mạnh hoạt động của Ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa " [10]. Theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1998 của Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ), vào giữa năm 1988 chúng ta đã chuyển hệ thống
ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, đó là Ngân hàng Nhà
nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh
doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật, mục tiêu
chính của các Ngân hàng thương mại là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh; nhưng phải tuân thủ nghiêm túc luật pháp và các quy chế. Mặt khác,
kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro như đã phân tích ở
trên. Vì vậy, để hạn chế những vi phạm của các Ngân hàng thương mại, giúp
3
các Ngân hàng thương mại tránh được rủi ro đòi hỏi phải có sự quản lý của
Nhà nước thông qua một cơ quan chức năng, đó là Ngân hàng Trung ương (ở
nước ta là Ngân hàng Nhà nước) và thường được giao chủ yếu cho Thanh tra
Ngân hàng. Điều này được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng, đó là:
"Các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải chịu sự
thanh tra của Thanh tra Ngân hàng theo quy định của pháp luật " [5].
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân
hàng Trung ương của nước ta, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ
và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
" - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước;
- Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình
Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược
phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam;
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng,
trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia,
tách, hợp nhất, sát nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý các
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm
quyền;
- Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy
định của Chính phủ;
- Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế;
4
- Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng;
- Ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng theo quy định của pháp luật;
- Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền
tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính
phủ uỷ quyền;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ ngân hàng" [5].
Trong các chức năng trên, chức năng kiểm tra, thanh tra được giao chủ
yếu cho Thanh tra Ngân hàng và tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
Ngân hàng cũng được quy định cụ thể trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật
các Tổ chức tín dụng.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, do chủ trương "đổi mới" quản
lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, kinh tế trong nước được kích thích và phát
triển thông qua việc xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, Nhà nước thừa nhận vai
trò của kinh tế hàng hoá với chủ trương "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước". Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, Đảng và
Nhà nước ta cũng thực hiện "mở cửa" nền kinh tế nước ta với tất cả các nước,
tạo cơ sở cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào nước ta. Theo đó, nhiều ngân
hàng nước ngoài đã xin phép Nhà nước để đầu tư vào nước ta dưới hình thức
liên doanh (Ngân hàng liên doanh) hoặc thành lập chi nhánh 100% vốn nước
ngoài (Chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
1.1.2. Sự phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài ở nước ta
Sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ làm cho nhu cầu về vốn ngày càng tăng, nguồn vốn trong
5
nước không đủ để đáp ứng. Do đó, cùng với việc hình thành ngân hàng hai cấp
và chủ trương "mở cửa" của Đảng và Nhà nước, các ngân hàng nước ngoài đã
dần có mặt hoạt động tại nước ta.
Ngay từ những năm cuối thập niên 80, nhiều ngân hàng nước ngoài của
các nước đã đến tìm hiểu thị trường Việt Nam đề đầu tư. Năm 1989, ngân hàng
nước ngoài đầu tiên được Nhà nước ta cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện.
Đến năm 1990, Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động
tại Việt Nam dưới hình thức liên doanh theo Luật đầu tư nước ngoài.
Từ khi Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại
nước ta năm 1990, hiện nay (tháng 12/2006) trên đất nước ta đã có 6 Ngân hàng
liên doanh, 37 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 60 văn phòng đại diện của
Tổ chức Tín dụng nước ngoài đang hoạt động cùng với các Tổ chức Tín dụng
trong nước càng làm cho hoạt động tài chính - tiền tệ nước ta phong phú, đa
dạng và sôi động hơn.
1.1.3. Những đặc điểm chủ yếu của Ngân hàng liên doanh,
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước ta
Theo Luật "Các Tổ chức Tín dụng" được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 15/6/2004,
theo khoản 4, Điều 20 "Tổ chức Tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được
thành lập theo luật pháp nước ngoài". Tại Chương VII, Luật này về "Tổ chức
tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam" quy định hình thức hoạt động của Tổ chức tín dụng nước ngoài
(Điều 105) gồm:
- Tổ chức tín dụng liên doanh;
- Tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài;
- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
6
- Tổ chức tín dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt
Nam. Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài không được thực
hiện các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Với những quy định trong Luật "Các tổ chức tín dụng" trên đây và Luật
"Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", đặc điểm của Ngân hàng liên doanh,
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là:
+ Được thành lập theo luật pháp nước ngoài;
+ Đối với Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài
thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh;
Ngoài hai đặc điểm theo quy định của Luật, Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài còn một số đặc điểm tác động đến hoạt động
thanh tra của Ngân hàng Nhà nước, đó là:
+ Tổng giám đốc các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp
với Ngân hàng Nhà nước thường là tiếng Anh. Chữ viết dùng trong các tài liệu
giao dịch của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ
yếu là tiếng Anh, một số tài liệu sử dụng chữ viết của nước nguyên xứ.
+ Có nhiều quy định giới hạn hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các Ngân hàng trong nước, như:
Không được huy động tiết kiệm từ dân cư; vốn huy động từ các tổ chức và cá
nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với Ngân hàng không được vượt
30% vốn tự có .v.v...
+ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không được quy định là một pháp
nhân Việt Nam.
7
+ Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam thường đặt trụ sở ở những nơi có hoạt động "kinh tế thị trường" phát triển
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu nhằm thu được lợi nhuận cao,
điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ 1.1
Biểu đồ 1.1: Sự phát triển về số lượng Ngân hàng liên doanh và
Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1990 – 2006
Đơn vị: Ngân hàng
T
T
Chỉ tiêu 199
0
199
3
199
5
1997 1999 2001 2004 2006
1 Miền Bắc 0 5 9 13 14 16 20 21
2 Miền Nam 1 7 13 15 16 18 23 25
(Nguồn: Báo cáo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1990-2006)
+ Trong quá trình hoạt động tại Việt Nam, các Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài vừa phải tuân thủ luật pháp, quy chế của Việt
Nam; đồng thời phải tuân thủ luật pháp của nước nguyên xứ. Như vậy, nó bị
điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật.
+ Hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ, mà hoạt động của nó có quan
hệ với nhiều nước (hiện tại là quan hệ vay, gửi tiền và thanh toán; trong tương
lai sẽ còn được mở rộng hơn khi hoạt động của thị trường chứng khoán phát
triển và mở rộng).
8
1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân
hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài
a- Những ảnh hưởng từ hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với Việt Nam hiện nay
Như trên đã đánh giá, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài ở nước ta cùng các ngân hàng trong nước đã làm cho
hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ nước ta phong phú, đa dạng hơn. Mặt
khác, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động kinh tế nói chung và
các ngân hàng của Việt Nam nói riêng, đó là:
+ Đối với các hoạt động kinh tế của Việt Nam: Với tổng tài sản gần 35
nghìn tỷ đồng, dư nợ cho vay 20 nghìn tỷ đồng năm 2006 (bảng số 2.2), hoạt
động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần
đáng kể vào việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế của nước ta, tạo động lực cho
sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của
Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì việc đầu tư của các
ngân hàng này sẽ vì mục tiêu lợi nhuận mà xem nhẹ mục tiêu phát triển cân đối
nền kinh tế.
+ Đối với các ngân hàng của Việt Nam: do có sức mạnh về vốn, công
nghệ và điều kiện cạnh tranh trong hoạt động theo cơ chế thị trường, các Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường có nhiều lợi thế hơn
so với các ngân hàng trong nước như đối với nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh và
thực hiện các dịch vụ v.v... Do đó, nếu không có sự quản lý sẽ tạo ra sự cạnh
tranh không lành mạnh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chèn ép các
9
ngân hàng trong nước, làm cho hệ thống các ngân hàng trong nước suy giảm do
không đủ sức để cạnh tranh.
b- Đối với bản thân các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài
Ngoài số vốn được cấp để được hoạt động theo Luật định, các Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam (gọi tắt là ngân
hàng nước ngoài) còn hoạt động bằng số vốn huy động từ các tổ chức kinh tế,
cá nhân trong và ngoài nước. Trong khi vốn được cấp thường chỉ chiếm tỷ
trọng trên dưới 20% tổng tài sản của một ngân hàng thì để đảm bảo an toàn và
ổn định trong kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước phải tổ chức quản lý và thực
hiện giám sát hoạt động đầu tư của các ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích
để các ngân hàng này phải luôn trong trạng thái an toàn. Nó được thể hiện:
- Thứ nhất, đảm bảo chắc chắn rằng Ngân hàng nước ngoài đó phải có đủ
khả năng chi trả thường xuyên cho người gửi tiền, kể cả khi khách hàng rút tiền
ồ ạt. Đây là việc đảm bảo niềm tin, là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi ngân
hàng nước ngoài trong cơ chế thị trường. Bởi vì một khi niềm tin này bị giảm
sút, thì năng lực thu hút vốn của ngân hàng nước ngoài này bị giảm sút, do đó
sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, thậm chí có thể mất khả năng thanh toán và
dẫn đến phá sản.
Biện pháp đảm bảo để thoả mãn vấn đề này là phải quản lý tài sản ở
trạng thái động trong tổng số tiền dự trữ của mỗi đơn vị, nghĩa là làm sao để
mỗi ngân hàng nước ngoài luôn có một lượng vốn có thể đáp ứng được khả
năng chi trả cho người gửi tiền. Yêu cầu của việc quản lý này là sao cho ngân
hàng nước ngoài luôn luôn đảm bảo khả năng chi trả, nhưng lại không để lãng
phí vốn, nghĩa là giảm thấp tối đa rủi ro trong sử dụng vốn vào kinh doanh.
Việc đảm bảo khả năng chi trả của một ngân hàng nước ngoài không chỉ đơn
thuần là đề phòng việc rút tiền ồ ạt của khách hàng và giữ niềm tin với người
10
gửi tiền, mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tài chính, đến thu nhập
và dẫn đến thua lỗ, phá sản của ngân hàng nước ngoài.
Nếu một ngân hàng nước ngoài quản lý tài sản không đủ mức cần thiết,
thì để loại bỏ tình trạng thiếu hụt khả năng chi trả, ngân hàng nước ngoài đó có
thể thực hiện nhiều biện pháp khác như: có thể giảm số tiền cho vay tương ứng,
hoặc phải đôn đốc thu về một khoản vay chưa đến hạn; cũng có thể bán đi một
số tài sản mà mình đang nắm giữ (như trái phiếu, tín phiếu v.v...) và như vậy,
ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn do những phương tiện mình đang quản
lý ở tình trạng kém động, khi đó rủi ro kinh doanh xảy ra. Một biện pháp khác
là ngân hàng nước ngoài phải vay tái chiết khấu từ Ngân hàng Trung ương;
trong nghiệp vụ này, ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn cao hơn, đó là lãi
suất tái chiết khấu. Nếu trường hợp này xảy ra nhiều lần thì Ngân hàng Trung
ương phải có biện pháp "khép cửa sổ chiết khấu" lại; và khi đó, ngân hàng nước
ngoài phải có biện pháp đối phó với tình trạng vỡ nợ của mình. Một biện pháp
khác là vay tiền các ngân hàng thương mại khác, thậm chí từ các tổ chức kinh
tế đang có vốn tạm thời nhàn rỗi; nhưng việc này không phải lúc nào cũng dễ
dàng. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ dẫn đến giá trị tài sản sụt dưới mức nguồn,
làm cho ngân hàng nước ngoài không trả được nợ, dẫn đến mất khả năng thanh
toán và sẽ bị phá sản.
Vì vậy việc quản lý tiền dự trữ là nghệ thuật trong điều hành hoạt động
kinh doanh của người quản lý ngân hàng nước ngoài trong nền kinh tế thị
trường, nó nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên xuất phát từ yêu
cầu tạo và giữ niềm tin trong kinh doanh ngân hàng. Việc theo dõi, báo động
để giúp cho ngân hàng nước ngoài thường xuyên đảm bảo khả năng chi trả là
trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương trong quản lý vĩ mô. Thực hiện trách
nhiệm này, Ngân hàng Trung ương phải thông qua các hoạt động quản lý mà
nó được thực hiện chủ yếu bởi hoạt động, giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
của Thanh tra Ngân hàng, đặc biệt là việc giám sát thường xuyên và định kỳ.
11
Đó là việc phân tích các loại báo cáo do các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài gửi định kỳ đến Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Mục đích của việc này là nhằm xem xét chất lượng tài
sản, việc chấp hành các quy chế quản lý nhằm phát hiện kịp thời sự biến
động của các tài khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản tiền dự trữ của
bản thân ngân hàng nước ngoài để dự báo, chỉ điểm và ứng cứu khi cần thiết.
- Thứ hai, là vấn đề quản lý tài sản của ngân hàng nước ngoài, tức là đảm
bảo chất lượng kinh doanh, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng nước ngoài. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
để tạo ra thu nhập thì phải tổ chức sản xuất kinh doanh như thế nào để có sản
phẩm hàng hoá tốt, giá thành hạ, được nhiều khách hàng tín nhiệm, tiêu thụ và
thu hồi vốn nhanh. Đối với các ngân hàng nước ngoài thì cũng tương tự như
vậy, có điều "hàng hoá" của các ngân hàng là loại hàng hoá đặc biệt, nó thể hiện
ở chỗ:
+ Chỉ chuyển quyền sử dụng hàng hoá (tiền tệ) cho người vay trong một
thời gian nhất định theo phương thức tùy thuộc vào bên vay nó theo hợp đồng
giữa ngân hàng và khách hàng, do đó phải có biện pháp quản lý, theo dõi để thu
hồi lại một cách tốt nhất;
+ Vốn cho vay của các ngân hàng luôn thuộc quyền sử dụng của khách
hàng, nghĩa là nó nằm trong tay khách hàng và do khách hàng quản lý, sử dụng;
chỉ khi nào thu hồi cả gốc và lãi, kết thúc hoạt động của tài khoản cho vay hoặc
kết thúc một cam kết về thanh toán, chuyển tiền .v.v... thì hoàn thành chu kỳ
kinh doanh, nên rất khó tính hiệu quả. Do đó yêu cầu về chế độ hạch toán và tài
chính phải rõ ràng, nghiêm túc và thuận lợi.
+ Độ rủi ro cao và khả năng mất vốn luôn có thể xảy ra; việc này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chất lượng hoạt động kinh doanh của
khách hàng là rất quan trọng. Do đó mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng với
12
khách hàng vay vốn là vấn đề cần quan tâm thường xuyên để tránh rủi ro trong
cho vay.
Từ những vấn đề trên cho thấy quan hệ với khách hàng và tiêu thụ hàng
hoá của ngân hàng không giống với các ngành kinh doanh khác.
Các ngân hàng nước ngoài thu lợi nhuận chủ yếu từ nghiệp vụ cho vay. Ở
Mỹ, 67% tài sản của các Ngân hàng là ở nghiệp vụ cho vay và trong những
năm gần đây tạo ra hơn 60% thu nhập của các Ngân hàng. Đối với nước ta,
nghiệp vụ cho vay của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài cũng chiếm tỷ trọng rất lớn (khoảng 60% tổng tài sản) và tạo ra nguồn
thu nhập chủ yếu cho các tổ chức tín dụng với tỷ trọng hơn 70% tổng thu nhập
(số liệu báo cáo của một số Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài có tổng tài sản trên 100 triệu USD năm 2003, 2004, 2005). Năm 1998,
1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, hoạt động cho vay của một số
ngân hàng có giảm và chuyển sang đầu tư bằng cách gửi tiền ở các ngân hàng
khác, làm cho tỷ trọng dư nợ cho vay và thu lãi từ nghiệp vụ cho vay có bị giảm
so với các năm trước.
Trong nghiệp vụ cho vay thì việc thu thập thông tin đối với khách hàng
vay là quan trọng nhất, phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn như: qua các tài
liệu của người vay cung cấp, qua các thông tin phòng ngừa rủi ro (tình hình tài
chính và quan hệ kinh doanh) và các luồng thông tin khác. Việc tìm khách hàng
tin tưởng để cho vay phải rất thận trọng, nhưng cũng phải năng động và quyết
đoán, bởi vì nếu quá thận trọng sẽ mất đi những cơ hội cho vay mà chúng mang
lại lợi nhuận cao. Đó là sự sàng lọc nhằm thiết lập những mối quan hệ lâu dài
với khách hàng và sự giám sát thích hợp trong quá trình cho vay. Nếu ngân
hàng nước ngoài làm tốt vấn đề này thì rủi ro sẽ ít hơn và lợi nhuận thu được sẽ
cao hơn.
13
- Thứ ba, có liên quan đến hai vấn đề là tổ chức huy động vốn và quản lý
tài chính của mỗi ngân hàng nước ngoài.
+ Việc huy động nguồn vốn sao cho chi phí phải thấp nhất, nhưng nguồn
vốn huy động được phải ổn định, vững chắc, biểu hiện một chiến lược kinh
doanh tích cực và mang tính lâu dài. Vì vậy cơ cấu nguồn vốn là một trong
những tiêu chuẩn để đánh giá một ngân hàng nước ngoài có vững mạnh và phát
triển hay không.
+ Vấn đề quản lý tài chính là phải đạt được mục tiêu thu lợi nhuận tối đa.
Từ mục tiêu này, mỗi ngân hàng nước ngoài phải có các biện pháp thích hợp
trong chỉ đạo, điều hành; mặt khác, mỗi ngân hàng nước ngoài phải chấp hành
đầy đủ các quy định về chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, các nghĩa vụ với
Nhà nước, trích lập và sử dụng các nguồn lực tài chính đúng, có hiệu quả, cải
thiện đời sống người lao động v.v...
Sự có mặt của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tại Việt Nam thể hiện sự phát triển hợp quy luật, mang tính lịch sử gắn liền với
nhu cầu phát triển của kinh tế trong nước và sự phát triển không ngừng của nền
tài chính tiền tệ Việt Nam. Nó đã cùng các tổ chức tín dụng trong nước đáp ứng
nhu cầu về vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nói chung nhằm phục vụ đường lối "công nghiệp hoá, hiện đại hoá" đất nước và
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động Ngân
hàng, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước.
Tuy nhiên, khi có mặt Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, hoạt động của nó phải tuân theo các quy định của luật pháp và phải phù
hợp với đường lối phát triển và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự cạnh tranh của
các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các ngân hàng
thương mại trong nước phải thể hiện sự lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát
14
triển của các tổ chức tín dụng trong nước. Hoạt động của nó cũng phải an toàn
để đảm bảo sự an toàn về tài sản cho người gửi tiền. Do đó, vấn đề đặt ra cho
Ngân hàng Nhà nước là phải có biện pháp và thực hiện giám sát, thanh tra đối
với hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam để đạt được những mục tiêu trên.
Tóm lại, quản lý các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài thông qua hoạt động giám sát, thanh tra của ngân hàng Nhà nước là việc
làm rất cần thiết. Nó không chỉ làm cho các ngân hàng này luôn luôn trong tình
trạng vững vàng, ổn định và có xu thế phát triển, tạo được niềm tin cho những
người gửi tiền ở ngân hàng mình; đồng thời tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc quy
định của luật pháp. Mà quan trọng hơn là làm cho các ngân hàng này hoạt động
theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng
giữa các ngân hàng trong nước, kích thích sự phát triển của hệ thống tài chính
-tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.3. Căn cứ pháp lý và các phương pháp thanh tra, giám sát Ngân
hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
1.3.1. Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát Ngân hàng liên doanh,
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Thanh tra và Giám sát đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài là một trong những hoạt động quan trọng của Ngân hàng Nhà
nước để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng đối với những ngân hàng này. Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước hết là Luật Đầu tư
nước ngoài quy định về hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm đầu tư, quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài; Luật Ngân hàng Nhà nước quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước đối với nền kinh tế,
15
đối với các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; Luật
các tổ chức tín dụng quy định về tổ chức và điều hành của các tổ chức tín dụng,
về hoạt động của các tổ chức tín dụng, về kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể,
thanh lý, quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín
dụng và hoạt động ngân hàng của tổ chức khác, đặc biệt là Luật này có một
Chương riêng quy định về tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của
tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra còn có các bộ
luật liên quan khác như Bộ Luật Dân sự, Lụât Doanh nghiệp v.v... cũng có
những quy phạm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại, trong đó
có các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tiếp theo đó là
các văn bản dưới luật như các Nghị định của Chính phủ và các văn bản pháp
quy của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài những văn bản pháp luật, pháp quy điều
chỉnh chung hoạt động các tổ chức tín dụng như đã nêu ở trên; đối với Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn có một số văn bản riêng
hoặc một phần cụ thể trong văn bản điều chỉnh hoạt động của chúng như Nghị
định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/03/1999 của Chính phủ quy định về tổ chức,
hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín
dụng nước ngoài tại Việt Nam như về tổ chức điều hành, về nội dung hoạt
động; Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/08/1999 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về giới hạn cho vay một khách hàng đối với các tổ chức
tín dụng, trong đó cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cho vay một
khách hàng với tổng dự nợ lớn nhất là 15% tính trên vốn tự có của ngân hàng
mẹ; Quyết định số 380/1997/QĐ-NHNN1 ngày 11/11/1997 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định về trạng thái đồng Việt Nam đối với các Chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam, trong khi đó
các ngân hàng Việt Nam tính trạng thái đối với đồng đô la Mỹ; quy định trong
các giấy phép mở chi nhánh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không
được huy động tiền gửi tiết kiệm .v.v...
16
1.3.2. Phương pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối
với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
là các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật
Các tổ chức tín dụng, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các luật khác có
liên quan. Thực hiện quản lý Nhà nước đối với các tổ chức này, Ngân hàng Nhà
nước sử dụng nhiều cơ quan chức năng của mình, trong đó có Thanh tra Ngân
hàng. Đối với Thanh tra Ngân hàng, việc thực hiện quản lý đối với các Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng sử dụng
hai phương thức chủ yếu là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đã nêu ở trên.
Hai phương thức này được thực hiện tập trung bởi 2 phòng (bộ phận), phòng
giám sát phân tích (thực hiện phương thức giám sát từ xa) và phòng thanh tra
ngân hàng nước ngoài (thực hiện thanh tra tại chỗ). Tuy nhiên do đặc thù của
Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nên phương thức
giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với những tổ chức này cũng có những
điểm khác đối với việc giám sát thanh tra các ngân hàng thương mại trong
nước.
a- Phương thức giám sát từ xa
Giám sát từ xa (hay thanh tra trên các báo cáo) là việc Ngân hàng Nhà
nước tổ chức phân tích, đánh giá tình hình của TCTD dựa trên cơ sở các bảng
cân đối kế toán, các chỉ tiêu thống kê định kỳ do TCTD gửi đến Ngân hàng Nhà
nước theo quy định, trên cơ sở đó giúp cho Ngân hàng nhà nước có được những
thông tin cần thiết về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của TCTD
trong khi chưa tiến hành được các cuộc thanh tra tại chỗ. Giám sát từ xa phục
vụ việc phát hiện nhanh và định kỳ những vấn đề cơ bản cần quan tâm để có
những cảnh báo cho TCTD những vấn đề cần thiết hoặc tiến hành thanh tra tại
chỗ.
17
Từ khi có Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, là đối
tượng giám sát, thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Thông qua hệ
thống máy tính được nối mạng hàng tháng và Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài gửi báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố
trên địa bàn, sau đó các dữ liệu này được truyền về Trung ương để khai thác,
phân tích, đánh giá. Các báo cáo bao gồm: Bảng cân đối tài khoản kế toán cấp
III và hơn 170 chỉ tiêu thống kê ngoài cân đối.
Việc quy định những chỉ tiêu Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước được quy định tại quyết
định số 159/ QĐ - NHNN ngày 15/9/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước. Tuy nhiên phải đến tháng 5/1997, quy chế giám sát từ xa mới chính thức
được ban hành theo Quyết định số 137/QĐ - NHNN ngày 24/5/1997 của Thống
đốc và được áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Nội dung giám sát từ xa đối
với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã được quy
định trong quy chế này, gồm:
- Diễn biến về cơ cấu của vốn và tài sản
- Chất lượng tín dụng, bảo lãnh, hùn vốn, liên doanh vv…
- Việc đảm bảo khả năng thanh toán
- Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh
- Việc thực hiện các quy chế an toàn của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài những nội dung trong quy chế giám sát từ xa ban hành theo quyết
định của 137/QĐ - NHNN áp dụng đối với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
nói chung trên đây. Đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài, trong điều kiện quan hệ về vốn giữa chi nhánh tại Việt Nam với
Ngân hàng mẹ ( Hội sở chính) và các chi nhánh của tập đoàn trên phạm vi toàn
cầu, diễn ra thường xuyên, liên tục nên phải giám sát chặt chẽ số vốn gửi hoặc
đầu tư - cho vay ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt ở những thời điểm việc
đầu tư trong nước gặp khó khăn.
18
Nếu số vốn Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài lớn, chúng ta cần thu nhập thêm thông tin về những Ngân hàng,
Công ty ở nước ngoài đang sử dụng vốn của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tại Việt Nam để có những kiến nghị phù hợp, nhằm đảm bảo an toàn cho Ngân
hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trong mỗi chỉ tiêu giám sát đều được đối chiếu, đánh giá và so sánh với
các giới hạn được Ngân hàng Nhà nước quy định cho Ngân hàng liên doanh,
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại các quy chế liên doanh.
Kết quả giám sát được báo cáo cho ban lãnh đạo và gửi cho phòng thanh
tra các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh để khai thác, phục vụ
hoạt động thanh tra tại chỗ.
Nội dung giám sát từ xa đối với các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được tiến hành như sau:
Một là, Tiến hành phân tổ cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có
- Về cơ cấu tài sản Nợ: cơ cấu tài sản Nợ có chiều hướng tăng trưởng là
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên việc đánh giá cơ cấu tài sản Nợ cần chú ý đến
các vấn đề như: vốn huy động thị trường, khả năng huy động vốn, uy tín của
các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên thị trường,
kiểm tra mối quan hệ giữa vốn và việc sử dụng vốn như giới hạn vốn ngắn hạn
để cho vay trung, dài hạn theo quy định.
- Đánh giá cơ cấu tài sản Có: là việc đánh giá những tài sản đem lại lợi
nhuận trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, gồm: dư nợ cho vay có khả năng thu được lãi; tiền gửi ở
các ngân hàng khác; các khoản hùn vốn liên doanh; mua cổ phần…
- Giám sát đối với các khoản tín dụng, bảo lãnh lớn phát sinh trong 15
ngày có giá trị từ 5% vốn tự có của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài trở lên.
19
- Giám sát dư nợ tín dụng đối với khách hàng từ 5% vốn tự có của các
Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trở lên, gồm một số
chỉ tiêu sau: đối tượng khách hàng được cấp tín dụng, tổng dư nợ tín dụng, giá
trị tài sản thế chấp, cầm cố, loại cho vay.
Hai là, Giám sát chất lượng tài sản Có.
Đánh giá diễn biến và cơ cấu hoạt động tín dụng như đánh giá về phân
loại; đánh giá chất lượng hoạt động cấp tín dụng. Đánh giá các hoạt động kinh
doanh khác của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài .
Ba là, Giám sát tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh
Thanh tra, giám sát trên tài khoản thu nhập và chi phí, khả năng sinh lời
được phân tích theo các nguồn thu, chi chủ yếu như:
- Phân loại các khoản mục thu, chi theo một số tiêu thức giữa khoản mục
thu nhập- chi phí.
- Đánh giá cơ cấu, diễn biến các khoản mục thu- chi.
- Tính toán một số tỷ lệ phản ánh kết quả kinh doanh.
Bốn là, Giám sát Vốn tự có.
Giám sát việc thực hiện quy định về các tỷ lệ để đảm bảo an toàn trong
hoạt động các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài gồm:
- Xác định vốn điều lệ, quỹ bổ sung vốn điều lệ.
- Xác định tài sản Có rủi ro được tính theo quy định về các tỷ lệ bảo đảm
an toàn trong các hoạt động của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
- Xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
- Giám sát việc chuyển nhượng cổ phần có ghi tên theo quy định.
- Giám sát về mức vốn pháp định của các Ngân hàng liên doanh và Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, vốn điều lệ ghi trên sổ sách kế toán tối thiểu phải
bằng vốn pháp định do Chính Phủ quy định.
Năm là, Giám sát một số chỉ số tài chính chủ yếu của các Ngân hàng liên
doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
20
Xem xét phân tích đánh giá các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài một cách tổng thể dựa trên các chỉ số tài chính quan trọng; xác
định các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo nhóm,
theo giá trị tài sản…
b- Phương thức thanh tra tại chỗ
Thanh tra tại chỗ là phương pháp thanh tra truyền thống, là việc thanh tra
được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế,
cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, xem xét các văn bản,
thông tư chỉ đạo, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng… có liên quan đến
hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và công tác kế toán tài chính của đối
tượng được thanh tra.
Đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
việc tiến hành thanh tra tại chỗ về cơ bản là giống thanh tra tại chỗ đối với các
ngân hàng thương mại trong nước. Tuy nhiên do các Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài có một số nét đặc thù (nêu tại điểm b phần 1.1.3
chương I), nên việc tiến hành thanh tra có phần khác với các ngân hàng thương
mại trong nước, nó được thể hiện:
+ Đánh giá việc tuân thủ luật pháp của Việt Nam, nhưng đồng thời
cũng xem xét, đánh giá việc tuân thủ những quy định của ngân hàng mẹ và
luật pháp của nước nguyên xứ.
+ Đánh giá mức độ an toàn đối với tài sản hoạt động tại Việt Nam và đặc
biệt là những tài sản đưa ra đầu tư ở nước ngoài.
+ Việc thu thập thông tin về ngân hàng khi tiến hành thanh tra trực tiếp
trên phạm vi rộng và phức tạp, nó không chỉ những thông tin về bản thân ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam, mà cả những thông tin về ngân hàng mẹ, các
ngân hàng khác ở các nước có quan hệ với ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
21
+ Phải có mối quan hệ chặt chẽ với Thanh tra Ngân hàng Trung ương của
các quốc gia có chi nhánh ngân hàng hoạt động tại Việt Nam để xử lý những
vấn đề liên quan đến ngân hàng mẹ của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam phát hiện qua thanh tra trực tiếp.
+ Phải thận trọng và thực hiện tốt những quy định về đối ngoại để không
làm ảnh hưởng đến chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước.
+ Xác định tư cách pháp lý của người lãnh đạo (Tổng Giám đốc, Giám
đốc) có theo đúng các quy định của luật pháp Việt Nam không.
Mục tiêu của thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài được xác định là:
- Xác định sự chính xác của các tài liệu kế toán đã gửi đến Thanh tra
ngân hàng. Đánh giá sự phù hợp của hệ thống kế toán, đánh giá tình trạng tài
chính - khả năng chi trả, chất lượng hoạt động, nhằm đảm bảo Ngân hàng
được thanh tra không gây phương hại đến lợi ích của người gửi tiền.
- Xem xét việc tuân thủ các điều khoản về nghĩa vụ với Ngân sách Nhà
nước, bởi vì sự vi phạm các vấn đề này có thể sẽ dẫn đến hậu quả về tài chính.
Đánh giá tình hình chấp hành luật pháp và quy định trong các hoạt động kinh
doanh tài chính của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong một thời gian nhất
định.
- Xem xét việc thực hiện các quy định của ngân hàng mẹ và luật pháp
nước nguyên xứ của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
được thanh tra.
- Đánh giá, thẩm định năng lực, khả năng quản lý của Ban Tổng giám
đốc và nhân viên; sự lành mạnh của ngân hàng; nghĩa là ngân hàng phải đủ
vốn, luôn đảm bảo khả năng thanh toán và có lãi để đảm bảo sự lành mạnh về
22
tài chính. Đây là sự bảo đảm cao nhất cho chính ngân hàng và người gửi tiền và
nó là mối quan tâm nhất của Thanh tra ngân hàng.
- Giúp các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thấy
được những ưu điểm, những thiếu sót và tồn tại để khắc phục nhằm đưa hoạt
động của mình đúng luật pháp, an toàn và có hiệu quả.
Việc thanh tra tại chỗ được thực hiện thông thường dưới hình thức tổ
chức các đoàn thanh tra, kiểm tra trực tiếp định kỳ tại các Ngân hàng liên
doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong một thời gian nhất định (thường
là 1 tháng); ngoài ra còn tổ chức các cuộc thanh tra đột xuất với thời gian ngắn
hơn.
c- Mối quan hệ giữa phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
Thông qua các file cân đối kế toán hàng tháng, các ngân hàng thương
mại gửi tới ngân hàng Nhà nước, phòng phân tích giám sát tiến hành phân tích,
đánh giá đối với từng ngân hàng thương mại (trong đó có Ngân hàng liên
doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Đối với những ngân hàng thương
mại có các thông tin sai sót, có các chi tiết nghi vấn trong báo cáo, có những
vấn đề vi phạm, cán bộ phân tích, giám sát nhắc nhở, chấn chỉnh hoặc yêu cầu
ngân hàng thương mại phải giải trình nếu có thông tin nghi vấn, chưa rõ ràng.
Trong các trường hợp cần thiết, cán bộ phân tích, giám sát thông báo cho bộ
phận thanh tra trực tiếp các ngân hàng thương mại để tổ chức thanh tra tại chỗ
đột xuất các ngân hàng thương mại này. Kết quả phân tích giám sát được báo
cáo ban lãnh đạo Thanh tra và ban lãnh đạo ngân hàng Nhà nước để ra các
quyết định quản lý kịp thời. Đồng thời, kết quả phân tích giám sát được chuyển
tới phòng thanh tra trực tiếp các ngân hàng thương mại để phục vụ cho việc
thanh tra tại chỗ.
23
Mặt khác, kết quả thanh tra tại chỗ là sự kiểm tra tính chính xác đối với
các báo cáo giám sát mà các ngân hàng thương mại gửi tới Thanh tra Ngân
hàng.
Mục tiêu và phương thức phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại
chỗ về căn bản được tiến hành như trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên giữa hai bộ phận này chưa có sự phối hợp
chặt chẽ với nhau. Đôi khi các thông tin của bộ phận giám sát cung cấp chỉ có
giá trị tham khảo và các kết quả thanh tra tại chỗ không được phản hồi lại cho
giám sát từ xa. Bên cạnh đó là việc nhìn nhận chưa đúng đắn về tầm quan trọng
của giám sát từ xa trong hoạt động của Thanh tra Ngân hàng.
Các ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo lụât pháp
của nước chính quốc, do đó các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác nhau
được điều chỉnh bởi các hệ thống luật pháp của các nước khác nhau. Các quy
định về vốn, quy chế an toàn trong hoạt động, các giới hạn rủi ro, các quy định
về mặt tổ chức đối với mỗi ngân hàng ở các nước cũng không hoàn toàn giống
nhau; tuy vậy các quy định này đều đảm bảo một mục tiêu chung cho tất cả các
ngân hàng là hoạt động an toàn, hiệu quả và đảm bảo tuân thủ pháp luật nước
sở tại.
Thực hiện chính sách mở cửa, các ngân hàng nước ngoài muốn mở Chi
nhánh ở Việt Nam thì phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện về mặt lụât pháp, vốn
và kỹ thuật. Khi đã được cấp giấy phép và hoạt động tại Việt Nam, các quy
phạm pháp lý được dùng để điều chỉnh hoạt động của các Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài là Luật đầu tư nước ngoài, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ
chức tín dụng, Luật thuế, các bộ Luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng và
các văn bản dưới luật như: các Nghị định của Chính phủ, các Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, các văn bản liên Bộ hoặc các văn bản của Bộ trưởng các
Bộ, ngành thuộc Chính phủ; các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
24
đối với các ngân hàng thương mại nói chung và các Ngân hàng liên doanh, Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng, đặc biệt là các văn bản của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước.
Các văn bản luật và văn bản dưới luật nói trên đều nhằm mục đích điều
chỉnh hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sao cho chúng hoạt
động an toàn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo đúng định hướng của Nhà
nước, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng.
Với mục đích trên, hoạt động giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đạt được những yêu cầu,
mục tiêu nhất định, đó là:
+ Với hoạt động giám sát, thanh tra, Ngân hàng Nhà nước đánh giá được
những ngân hàng nào tuân thủ tốt, ngân hàng nào tuân thủ chưa tốt luật pháp để
có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nghiêm túc, phát hiện những vấn đề còn thiếu
đồng bộ, chưa chặt chẽ trong các văn bản quản lý để điều chỉnh, bổ sung sao
cho các quy định trong văn bản quản l ý của Nhà nước vừa chặt chẽ, đồng bộ
để việc quản lý đối với các ngân hàng tốt hơn.
+ Thông qua giám sát, thanh tra để phát hiện những ngân hàng vi phạm
các quy định của Nhà nước, chấn chỉnh kịp thời những vi phạm của các ngân
hàng, nâng cao ý thức tuân thủ luật pháp của các ngân hàng.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành phân tích, giám sát định kỳ
hàng tháng và thanh tra định kỳ hàng năm hoạt động của các Chi nhánh ngân
hàng ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Kết quả giám sát, thanh tra
của Ngân hàng Nhà nước trong những năm qua đã phát hiện và chấn chỉnh kịp
thời một số vi phạm của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài như: vi phạm về
tỷ giá mua bán ngoại tệ; vi phạm về lãi suất và phí cho vay .v.v... Một số ngân
hàng vi phạm đã bị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra quyết định cảnh cáo.
25
Tóm lại, sự phát triển của hệ thống ngân hàng và hoạt động của các ngân
hàng thương mại là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn đảm bảo cho sự tồn tại,
phát triển bền vững của chính các ngân hàng thương mại trong sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt của thị trường.
Với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, chuyển hoạt động của
nền kinh tế từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị
trường (trong đó có hoạt động ngân hàng) và chính sách "mở cửa" để "hội
nhập" với kinh tế thế giới và khu vực đã tạo điều kiện để các ngân hàng nước
ngoài đầu tư vào nước ta dưới hình thức thành lập Ngân hàng liên doanh hoặc
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với những đặc điểm riêng khác với các ngân
hàng thương mại trong nước.
Với những lý do trên đòi hỏi chúng ta phải làm tốt chức năng quản lý
Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng với việc tăng cường công tác giám
sát, thanh tra nhằm đảm bảo tính tuân thủ luật pháp và sự an toàn cho hoạt động
của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
thông qua hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước với hai phương thức
giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ trên cơ sở các căn cứ pháp lý của Nhà nước.
Đó chính là sự cần thiết của hoạt động giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà
nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở
nước ta.