Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tài liệu Tiểu luận: ĐIỂM NÓNG ĐÔNG Á doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.69 KB, 24 trang )

1



Tiểu luận


ĐIỂM NÓNG ĐÔNG Á









2



NỘI DUNG
1. Đông Á – vì sao lại “nóng”?
Khu vực Đông Á bao gồm các nước Đông - Bắc Á và Đông - Nam Á, vừa có
những điểm tương đồng về văn hoá, vừa có nhiều khác biệt về thể chế chính trị -
xã hội và trình độ phát triển kinh tế, khoa học – kỹ thuật. Tình hình chính trị - an
ninh của khu vực Đông Á những năm đầu thế kỉ XXI đã trở nên rất nóng bỏng,
đặc biệt là sau sự kiện khủng bố 11-9. Mặc dù quan hệ giữa các nước trong khu
vực hoặc đã được cải thiện đáng kể, hoặc đã được nâng lên tầm cao mới về chất,
tạo ra một tình thế rằng buộc lợi ích lẫn nhau rõ rệt, từ đó tạo điều kiện và cơ sở
thuận lợi cho các nước phối hợp trí tuệ, nguồn lực và hành động để duy trì an


ninh chung, tuy nhiên Đông Á vẫn đang đứng trước nhiều thách thức an ninh lớn.
Đông Á là khu vực tập trung những nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau
nên vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát xung đột ý thức hệ và xung đột trong
vấn đề dân chủ nhân quyền.
Sự thiếu hụt năng lượng, nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất
là vấn đề an ninh môi trường cùng một loạt các vấn đề an ninh kinh tế - xã hội
càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Ở Đông Nam Á, các phong trào ly khai, bạo loạn, lật đổ, cướp biển đặc biệt là
hoạt động khủng bố tại Philippines, Indonesia, Thái Lan… vẫn ngày càng gia
tăng.
3

Có hay không một cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực này? Dưới đáy của Đại
dương mang tên “Thái Bình” đang dậy sóng ngầm bằng một cuộc chạy đua vũ
khí dưới đáy biển do Trung Quốc kích động. Mục tiêu của Trung Quốc là cản trở
hải quân Mỹ tiếp cần vùng biển kế cận, kiềm chế Nhật Bản ở Đông Bắc Á và
Đông Nam Á, kiểm soát các tuyến hàng hải gần và yểm trợ các đòi hỏi chủ quyền
trên biển, răn đe và kiềm chế đối với Đài Loan. Trung Quốc tăng cường hiện đại
hoá quân sự, các nước Đông Nam Á cũng tăng tốc, Singapour, Indonesia,
Malaysia dẫn đầu cuộc hiện đại hoá hải quân khu vực Đông Nam Á. Nhu cầu
mua sắm vũ khí từ máy bay chiến đấu cho tới tầu ngầm đang gia tăng ở khu vực
Đông Á.
Đặc biệt là những điểm nóng tạo nguy cơ tiềm tàng gây bất ổn định khu vực
như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài
Loan và tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông giữa nhiều nước trong khu vực.
Triều Tiên đã phát triển vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, vũ khí sinh hoá
học và sự khác biệt trong ý thức hệ của từng thời kỳ cùng với những thất bại
kinh tế sẽ làm tăng nguy cơ leo thang quân sự. Bán đảo Triều Tiên cũng là
nơi duy nhất tại Đông Á mà Mỹ còn duy trì sự hiện diện quân sự trên đất
liền, Mỹ càng dựa vào vũ khí hạt nhân để nhằm răn đe các cuộc tấn công thì

Triều Tiên càng mong muốn có được vũ khí hạt nhân. Giữa năm nay hàng
loạt vụ thử tên lửa, bom hạt nhân của CHDCND Triều Tiên khiến tình hình
an ninh trong khu vực thêm thêm phức tạp và chảo lửa ở Đông Bắc Á đã
nóng hơn khi những chiếc máy bay F-22 tối tân của không quân Mỹ hạ cánh
xuống căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa, miền Nam Nhật Bản.
Quan hệ Trung - Mỹ trong vấn đề Đài Loan vẫn căng thẳng, Trung Quốc sẽ
sử dụng quân sự nếu Đài Loan tuyên bố độc lập trong khi đó Mỹ tiếp tục
4

cam kết bảo hộ Đài Loan tránh bất kì cuộc xâm lược nào từ bên ngoài và
tăng cường quân sự với Đài Loan thông qua việc bán vũ khí cho Đài Loan.
Vấn đề Biển Đông cũng là đe dọa không nhỏ tới an ninh ở khu vực này.
Tháng 3 vừa qua, tàu không vũ trang Impeccable của Mỹ chạm trán với hải
quân Trung Quốc trên biển Đông và nay Mỹ phải điều động hạm đội đến
vùng biển này; Tổng thống Philippinnes vừa ban hành luật lãnh hải tuyên bố
chủ quyền trên nhóm đảo Scarborough và Trung Quốc tổ chức các chuyến
du lịch trên đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để
chiếm đoạt từ Việt Nam năm 1974. Việc tranh chấp tại vùng biển Đông đặc
biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn đã “nóng” lại càng “nóng”
hơn.
2. Các điểm “nóng” ở Đông Á
2.1 Điểm nóng Triều Tiên
2.1.1 Vì sao Triều Tiên là một điểm nóng?
Bán đảo Triều Tiên là dải đất nằm nhô ra biển ở Đông Á, có đường biên giới
đất liền với Trung Quốc. Bán đảo này bắt đầu từ lục địa Châu Á chạy dài về
phía nam 1.100km.
Cho đến cuối Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Triều Tiên vẫn là một thực thể
chính trị thống nhất nằm trên bán đảo Triều Tiên. Sau khi chiến tranh Triều
Tiên ngừng bắn năm 1953, bán đảo này bị chia cắt lâu dài thành hai quốc gia
là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) và Đại Hàn Dân

Quốc (Nam Triều Tiên).
Sau 8 năm kể từ khi Mỹ và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
(CHDCNDTT) ký Hiệp định khung năm 1994, tháng 10/2002, bán đảo Triều
Tiên lại sôi động khi mà CHDCNDTT công khai thừa nhận đang theo đuổi
5

chương trình phát triển hạt nhân của mình bất chấp việc Mỹ nhân danh
chống khủng bố, liệt họ vào “trục ma quỷ” và có khả năng trở thành đối
tượng bị Mỹ “đánh đòn phủ đầu” sau Iraq. Cuộc thương lượng 6 bên bao
gồm : Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc và Nga đã
tiền hành nhiều lần song không đạt được kết quả cụ thể nào, tất cả đều tỏ ra
bế tắc.
Sau các lần đàm phán 6 bên để tìm cách chấm dứt chương trình hạt nhân của
CHDCNDTT không thành công, các nhà quan sát cho rằng hòa bình, ổn
định ở khu vực Đông Bắc Á lại một lần nữa đứng trước một thách thức
nghiêm trọng khi bị mang ra đặt cược trong tính toán chiến lược của những
người chơi đầy quyết tâm chấp nhận mạo hiểm để đạt được mục đích của
mình.
2.1.2 Triều Tiên nóng như thế nào?
Nhìn lại lịch sử của bán đảo Triều Tiên ta thấy do vị trí địa lý đặc biệt là
nằm ở trung tâm khu vực Đông Bắc Á, nơi tập trung lợi ích của các nước lớn
như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, cho nên từ lâu vận mệnh của dân tộc
Triều Tiên thường bị rơi vào tầm ngắm của các nước lớn xa gần khi các
nước lớn tranh giành quyền kiểm soát lợi ích ở khu vực. Ngày nay Chiến
tranh lạnh đã kết thúc nhưng Triều Tiên là dân tộc có lẽ là duy nhất vẫn còn
bị chia cắt làm hai miền bởi di sản của Chiến tranh lạnh trong khi đó hầu hết
các nước trên thế giới đều tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia
và hội nhập khu vực, ra sức giành vị trí xứng đáng trong trật tự thế giới mới.
Tình hình trên đem lại thuận lợi cho an ninh khu vực nhưng dường như
không thuận lợi cho CHCDND Triều Tiên.

6

Một trong những vẫn đề nổi bật của tình hình thế giới năm nay là giải quyết
cuộc khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Bắc Triều Tiên – một vấn đề được coi
là khó có thể giải quyết triệt để. Thực tế có thấy, từ việc ký kết thỏa thuận
được coi là “lịch sử” ở vòng đàm phán 6 bên kể từ tháng 9 năm 2005 đến
việc thực thi các thỏa thuận đã ký vẫn còn khoảng cách lớn.
Chính sách hạt nhân của CHDCND Triều Tiên được gọi là “Chính sách bên
miệng hố chiến tranh”, tức là khả năng tồn tại bên miệng hố chiến tranh mà
không để bị lôi cuốn vào chiến tranh, buộc các quốc gia khác phải có những
nhượng bộ đơn phương có lợi cho mình. Do đó, có thể thấy rõ, vũ khí hạt
nhân chỉ là một lá chắn của nước này. Trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận
về kinh tế, an ninh quốc gia bị đe doạ từ nhiều phía thì việc họ dùng con bài
hạt nhân để đổi lấy sự viện trợ về kinh tế cũng như với mục đích phòng vệ,
đảm bảo an ninh quốc gia được coi là hành động khôn ngoan. Ban đầu,
nhiều người còn cho rằng đó chỉ là lời bịa đặt, rằng thực chất thì “Không có
một chương trình hạt nhân nào ở Triều Tiên”. Tuy nhiên, sự nghi ngờ nào
cũng có lí do của nó, và Triều Tiên đã đưa cả thế giới đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác.
Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên xuất hiện từ đầu những năm 1990
của thế kỷ XX sau khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, qua những bức ảnh chụp từ
vệ tinh, nghi ngờ CHDCND Triều Tiên có các cơ sở nghiên cứu chế tạo vũ
khí hạt nhân. bí mật, và muốn các thanh sát cơ sở này. Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ muốn thông qua Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) thanh
tra các cơ sở hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Đòi hỏi đó gặp phải sự
phản đối quyết liệt của CHDCND Triều Tiên. Tháng 3/1993, chính quyền
CHDCND Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp định không phổ biến vũ khí hạt
nhân (NPT) mà họ gia nhập năm 1985. Tháng 4/1994, Hợp chủng quốc Hoa
7


Kỳ gửi đề nghị trừng phạt CHDCND Triều Tiên lên Hội đồng Bảo an Liên
Hợp quốc. Sau một thời gian đàm phán, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và
CHDCND Triều Tiên đi đến ký kết đến Hiệp định khung vào ngày 20/
10/1994.
Tuy nhiên, Hiệp định khung này không được các bên tuân thủ nghiêm ngặt.
Sau khi ký hiệp định khung về hạt nhân, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vẫn
không từ bỏ cấm vận đối với CHDCND Triều Tiên, quan hệ hai nước không
trở lại quỹ đạo bình thường. Năm 2001, sau khi lên nắm quyền, Tổng thống
Bush với hình thái ý thức rõ rệt, đã áp dụng thái độ cứng rắn đối với
CHDCND Triều Tiên, quan hệ hai nước ngày càng xấu đi sau sự kiện 11/9.
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã đe dọa sử dụng đòn phủ đầu đối CHDCND
Triều Tiên khiến Hiệp định khung về hạt nhân giữa hai nước hoàn toàn bị
phá vỡ. Năm 2002, CHDCND Triều Tiên tuyên bố họ có quyền phát triển vũ
khí hạt nhân nhằm bảo vệ an ninh lãnh thổ, đòi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
chính thức ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau. Tháng 1/2003, Bắc
Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, tháng 2 tuyên
bố nếu Mỹ phong tỏa bằng biện pháp quân sự thì Bắc Triều Tiên sẽ rút khỏi
Hiệp định đình chiến Triều Tiên. Ngày 24/2, Bắc Triều Tiên phóng tên lửa
có tầm bắn 100 km, tháng 3, phóng thử tên lửa tầm trung có điểm rơi chỉ
cách bờ biển Nhật bản 110 km khiến dư luận Nhật Bản lo ngại. Tháng
4/2003, Bắc Triều Tiên tuyên bố tái chế 8000 thanh nhiên liệu hạt nhân.
Với sự trung gian của Trung Quốc, cuộc đàm phán ba bên gồm Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên lần đầu tiên được tổ chức
tại Bắc Kinh tháng 4/2003. Cuộc đàm phán này đã không hề tính đến vai trò,
lợi ích của Đại Hàn Dân Quốc, Nhật Bản và Cộng hòa Liên bang Nga. Đàm
phán kết thúc mà không đạt được thoả thuận cụ thể nào.
8

Cuộc đàm phán sáu bên lần thứ nhất diễn ra ở Bắc Kinh từ ngày 27 -
29/8/2003 gồm các nước Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Nhân dân

Trung Hoa, CHDCND Triều Tiên, Đại Hàn Dân Quốc, Nhật Bản và Cộng
hòa Liên bang Nga. Vòng đàm phán sáu bên lần thứ hai diễn ra ở Bắc Kinh
từ ngày 25 - 28/2/2004. Vòng đàm phán sáu bên lần thứ ba cũng diễn ra ở
Bắc Kinh từ ngày 24 - 26/6/2004. Đàm phán 6 bên vòng 4 ( giai đoạn 1 :
26/7-7/8/2005; giai đoạn 2 : 13-19/09/2005 ) đã đạt kết quả quan trọng.
Triều Tiên cam kết từ bỏ tất cả vũ khí hạt nhân và các kế hoạch hạt nhân
hiện thời; Mỹ khẳng định tôn trọng chủ quyền của Triều Tiên. Kết quả đàm
phán vòng 5 ( từ tháng 11/2005 – tháng 12/2006 ) là một bước thụt lùi hay
chí ít cũng là một sự giậm chân tại chỗ so với vòng 4. Các bên chỉ thông qua
được Bản tuyên bố của nước Chủ tọa với một số nội dung chung chung như
: Các bên đã tái khẳng định sẽ thực hiện Tuyên bố chung theo nguyên tắc
“cam kết đối cam kết”, “hành động đối hành động”, qua đó sớm thực hiện
mục tiêu phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên một cách có thể kiểm chứng.
Những tuyên bố của CHDCND Triều Tiên về việc sở hữu vũ khí hạt nhân,
các động thái của họ có lúc gây bùng nổ căng thẳng, lúc lại làm loé lên hy
vọng, nhưng cuối cùng dường như tất cả lại trở về điểm khởi phát. Những
điều đó khiến cho các nhà phân tích đặt ra câu hỏi, liệu có phải chính
CHDCND Triều Tiên, chứ không phải là Mỹ, quốc gia ở phía đối địch, là
người đặt ra luật lệ trong cuộc đối đầu hạt nhân này?
2.1.3 Đánh giá nguy cơ bùng phát xung đột ở Triều Tiên?
Có thể nói cuộc khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên vẫn chưa có lối
thoát. Cho dù Mỹ có yêu cầu cộng đồng quốc tế phải mạnh mẽ lên tiếng
phản đối Bình Nhưỡng ( Bắc Triều Tiên ) để buộc nước này ngừng các vụ
thử hạt nhân, tiến tới đạt được một giải pháp cho cuộc khủng hoảng này, thì
9

đó cũng không phải là chìa khóa để giải quyết vấn đề này. Thực tế đó cho
thấy, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở khu vực này vẫn chưa thể có lối thoát.
Cho nên, cho dù Mỹ có yêu cầu cộng đồng quốc tế phải mạnh mẽ lên tiếng
phản đối Bình Nhưỡng để buộc nước này ngừng các vụ thử hạt nhân, tiến tới

đạt được một giải pháp cho cuộc khủng hoảng này, thì đó cũng không phải
là chìa khóa để giải quyết vấn đề này.
Cả thế giới lên tiếng chỉ trích Triều Tiên. Nhưng có chắc chắn không ai ủng
hộ Triều Tiên? Rõ ràng, với những hành động của mình, Triều Tiên đang
mang đến cả 2 mặt tích cực và tiêu cực. Cái tiêu cực thì chắc hẳn ai cũng
hiểu rõ, đơn giản vì câu khẩu hiệu “vũ khí hạt nhân là loại vũ khí giết người
hàng loạt”, nhưng nó cần có bàn tay con người sử dụng, vì mục đích của con
người. Từ trước đến nay, cũng chỉ có Mỹ là sử dụng vũ khí hạt nhân theo
đúng cái định nghĩa của nó “giết người hàng loạt”. Việc lên án, chỉ trích hiểu
sâu xa cũng chỉ là phong trào. Không ai dám nói “Tôi ủng hộ vũ khí hạt
nhân” nhưng rất nhiều người lại đang tốn rất nhiều thời gian và tiền của vì
nó. Ai cũng thanh minh “Chúng tôi sở hữu vũ khí hạt nhân để tự vệ và vì
mục đích hoà bình” nhưng không ai dám khẳng định “Tôi không phải là
người tấn công trước”. Và nếu vậy thì tại sao những nước sở hữu vũ khí hạt
nhân lại không cho phép các nước còn lại có quyền theo đuổi chính sách hạt
nhân? Theo ý kiến cá nhân, hơn ai hết, Triều Tiên đang cổ vũ cho sự bình
đẳng trên toàn thế giới. Họ sẽ vẫn tiếp tục chương trình hạt nhân của mình,
không chỉ vì mục đích của chính họ mà cho cả thế giới. Họ sẽ không thể là
một Iraq thứ hai. Bởi họ có vũ khí hạt nhân, trong khi Iraq không có. Mỹ
đánh Iraq như lấy đó làm gương đê đe doạ các nước khác. Quan điểm trong
chính quyền Bush là cần phải hành động ngăn chặn một nước ngay khi thấy
họ manh nha khả năng hạt nhân. Trong trường hợp CHDCND Triều Tiên,
10
chính sách đó dường như đã quá muộn, nên Washington cần phải tìm cách
để hạn chế tối đa những hậu hoạ. Vậy có thể hiểu một cách đơn giản rằng
chừng nào Triều Tiên còn có vũ khí hạt nhân thì Mỹ chưa thể nổ súng ở đây.
Tình hình thế giới đang vận động hết sức nhanh chóng, phức tạp, đầy mâu
thuẫn và bất trắc. Mặc dù trên bán đảo Triều Tiên hội tụ hầu hết các mâu
thuẫn lớn của thời đại, nhưng do các bên liên quan đều cần có môi trường
hoà bình, ổn định để phát triển và luôn lấy lợi ích an ninh quốc gia làm mục

tiêu tối thượng, nên trong những năm tới, rất khó xảy ra chiến tranh. Dù sao
đây cũng chỉ là khả năng lớn nhất chứ không phải duy nhất. Đối với bán đảo
Triều Tiên mọi thứ đều có thế xảy ra. Và chúng ta sẽ cùng chờ đợi, thời gian
mới là câu trả lời tốt nhất.
2.2. Điểm nóng Đài Loan
2.2.1 Tại sao Đài Loan là điểm nóng?
Vấn đề Đài Loan là một trường hợp trong mâu thuẫn giữa cường quốc hải
quân Hoa Kỳ và lục quân Trung Quốc. Do Đài Loan là một hòn đảo nên Mỹ
có thể sử dụng ưu thế về hải quân vượt trội của mình bao gồm cả các loại tàu
chiến và máy bay để tự vệ khỏi lực lượng lục quân của Trung Quốc. Tuy
nhiên Trung Quốc lại có ưu thế về quân sự để ngăn ngừa việc Đài Loan tấn
công vào lục địa hay tuyên bố quyền độc lập tự trị do khoảng cách của Đài
Loan và đại lục là quá gần.
2.2.2 Đài Loan nóng như thế nào?
Năm 1949, cuộc nội chiến “Quốc - Cộng” ở Trung Quốc kết thúc với thắng
lợi của quân đội cách mạng được Liên Xô giúp đỡ, phe Quốc dân Đảng thất
bại, được Mỹ giúp sức chạy ra đảo Đài Loan lánh nạn hòng xây dựng đảo
này thành “vương quốc” độc lập, thành “hàng không mẫu hạm không thể
11
đánh chìm”, chờ thời cơ. Trong 10 năm qua, nhất là dưới hai thời Tổng
thống gần đây, Đài Loan thường xuyên tự nhận mình là một thực thể có chủ
quyền và độc lập. Trong khi đó, Trung Quốc đại lục không ngừng lớn mạnh,
đang “trỗi dậy” thành cường quốc khu vực và thế giới. Khẳng định chỉ có
một nước Trung Quốc duy nhất trên thế giới và Đài Loan là một tỉnh của
mình, Trung Quốc luôn tỏ rõ thái độ thu hồi Đài Loan kể cả bằng biện pháp
quân sự nếu cần thiết hoặc theo công thức “một nước hai chế độ” như kiểu
Hồng Công.
Căng thẳng hai bờ eo biển Đài Loan đã từng khiến hai bên đã có cuộc đấu
pháo dài ngày qua eo biển Đài Loan vào năm 1958, suýt lôi kéo Mỹ vào
cuộc chiến tranh tổng lực với Trung Quốc làm chấn động cả thế giới. Tình

thế tại eo biển Đài Loan rơi vào bế tắc và nguyên nhân của tình thế này
chính là do những chính sách răn đe truyền thống từ cả phía: Trung Quốc
răn đe Đài Loan bằng lực lượng bộ binh hùng mạnh của mình trong khi đó
Mỹ răn đe Trung Quốc với ưu thế hải quân của mình.
Từ cuộc xung đột vũ trang năm 1958 đến nay, tuy không xảy ra xung đột vũ
trang lớn, nhưng thỉnh thoảng lại dấy lên cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài
Loan mỗi khi thế lực “Đài Loan độc lập” tăng cường hoạt động, và Trung
Quốc phản ứng gay gắt.
Năm 1994 Trung Quốc công bố sách trắng gồm 8 điểm, trong đó có các
điểm quan trọng như: “Chấp nhận nguyên tắc một Trung Quốc mà không
chấp nhận bất kỳ ngoại lệ nào. Đài Loan không được gia nhập bất kỳ một tổ
chức quốc tế nào dành cho các quốc gia, không được quan hệ chính thức với
các nước đã công nhận Trung Quốc lục địa. Nguyên tắc không từ bỏ việc sử
12
dụng sức mạnh quân sự chỉ nhắm vào các lực lượng nước ngoài mà không
nhắm vào Đài Loan…”
Tháng 7 và tháng 8/1995, Trung Quốc đã cho bắn thực tập hai loạt hỏa tiễn,
đạt mục tiêu cách bờ biển Đài Loan 150km. Hành vi này chắc chắn không
nhắm vào “lực lượng nước ngoài” mà rõ ràng đe dọa Đài Loan.
Mùa xuân năm 1996, quân đội Trung quốc PLA đã tiến hành các cuộc tập
trận quy mô lớn dọc theo đường bờ biển phía đông, trên thực tế, cuộc tập
trận này chính là một đợt tập dượt nhằm chuẩn bị cho việc xâm lược Đài
loan. Phản ứng của Mỹ trước vụ phóng hoả tiễn của Trung Quốc bằng cách
gửi hạm đội chiến đấu đến vùng biển Đài Loan đã làm cho Bắc Kinh phải
kinh ngạc và cho họ thấy một nguy cơ mà cuộc khủng hoảng Đài Loan có
thể là điển hình.
Từ đó, quy mô và phạm vi của những cuộc thao diễn quân sự của cả Trung
Quốc và Đài Loan, cũng như mức độ của chúng, không ngừng gia tăng.
Trung Quốc vẫn tự tin rằng họ có thể hợp nhất Đài Loan với đại lục chỉ bằng
sự đe dọa quân sự kèm với những khuyến khích và thuyết phục về chính trị

và kinh tế, tuy nhiên vấn đề hai bờ eo biển Đài Loan lại rơi vào bế tắc do
việc Đài Loan nhờ cậy vào Mỹ và Trung Quốc nhờ cậy vào các nhà cung
cấp nước ngoài của mình.
Tình hình hai bên trở nên căng thẳng, Bắc Kinh liên tục mở các cuộc thao
dượt quân sự trong eo biển Đài Loan, chiến đấu cơ Trung Quốc vi phạm
nhiều lần không phận Đài Loan. E ngại Đài Loan có thể bị tấn công, mùa hè
năm 1999 Hoa Kỳ cho hai hàng không mẫu hạm thuộc hạm đội 7 vào khu
vực để chuẩn bị can thiệp.
13
Mùa xuân năm 2000, các chiến hạm của Mỹ đã được gửi tới eo biển Đài
Loan để bảo vệ cho đảo này trước sự đe dọa xâm lược của Trung quốc. Lập
trường của Trung Quốc là rõ ràng, trong “Luật chống ly khai” năm 2005 cho
thấy, nếu thế lực “Đài Loan độc lập” cố tình thực hiện ý đồ của mình, dứt
khoát tuyên bố Đài Loan độc lập và Mỹ ủng hộ việc đó thì việc sử dụng vũ
lực của Trung Quốc là điều không tránh khỏi, thậm chí Trung Quốc có thể
dùng cả vũ khí hạt nhân đe dọa, nếu Mỹ can thiệp vào cuộc xung đột ở eo
biển Đài Loan…
Hàng ngày, một lực lượng hải quân hùng hậu của Trung quốc rầm rập
giương oai như muốn nuốt sống Đài loan, trong khi đó nhóm tàu chiến Mỹ
thì đứng kề bên, sẵn sàng can thiệp khi cần. Khó có thể đánh giá chính xác
được rằng tình hình căng thẳng như thế sẽ có thể dẫn đến việc bùng nổ một
cuộc chiến như thế nào. Và nếu xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh ở eo
biển Đài Loan, an ninh ở khu vực Đông Bắc Á và thế giới sẽ bị ảnh hưởng
không nhỏ.
2.2.3 Đánh giá nguy cơ bùng phát xung đột Đài Loan?
Tình hình bán đảo Đài Loan có thể coi là bế tắc do chính sách răn đe truyền
thống cả từ phía Trung Quốc và Mỹ: Trung Quốc răn đe Đài Loan với lực
lượng bộ binh của mình; Mỹ răn đe Trung Quốc với ưu thế về hải quân. Vì
cả hai bên đều có xu thế nghiêng về phòng thủ và thêm vào đó, Đài Loan
không có lợi ích sống còn của cả hai nên nguy cơ xảy ra chiến tranh không

nhiều.
2.3 Điểm nóng Biển Đông
Biển Đông đang trở thành điểm nóng của khu vực và rộng hơn là thế giới
với những sự kiện va chạm giữa Mỹ - Trung - Việt; Việt – Malaysia -
14
Philippin. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm ảnh hưởng tới mối quan hệ
giữa các nước trong khu vực và có thể sâu xa sẽ là vấn đề tranh chấp quyền
ảnh hưởng quốc tế của một cục diện thế giới mới (trật tự thế giới mới)?
Đằng sau những tranh chấp đó là gì? Nguy cơ Quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông hiện hữu hơn bao giờ hết.
Tình hình mới nhất của sự kiện Mỹ - Trung là Mỹ vừa điều tàu chiến tới bảo
vệ tàu nghiên cứu. Washington quyết định cử chiến hạm tới hộ tống tàu
thăm dò của Mỹ đang hoạt động ở Biển Đông, sau sự kiện con tàu này chạm
trán các tàu của Trung Quốc.
2.3.1 Vì sao biển Đông là điểm nóng?
Biển Đông bao gồm hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có ý nghĩa chiến
lược quan trọng trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về nhiều mặt như
ngoài các giá trị to lớn về nguồn tài nguyên thiên nhiên, các quần đảo còn án
ngữ một trong những hành lang giao thông biển quan trọng nhất thế giới –
nơi thông thương của ¼ nền thương mại thế giới. nguồn tài nguyên lớn nhất
trên quần đảo này là dầu mỏ, trữ lượng dầu mỏ ước tính khoảng 23,5 tỷ tấn
và lượng khí đốt thiên nhiên khoảng 8269 tỷ m3, nên việc phân chia quyền
lợi khai thác dầu mỏ ở đây là một trong những nguyên nhân chính của mâu
thuẩn và xung đột giữa các bên. Hơn nữa chúng ta có thể thấy vấn đề lợi ích
kinh tế của biển đông còn gắn chặt với vấn đề chủ quyền lãnh thổ của mỗi
quốc gia.
Ngày nay, do sự phát triển nhanh chóng của Châu Á - Thái Bình Dương và
có khả năng trở thành trung tâm kinh tế thương mại lớn trong thế kỉ 21, thì
khu vực này càng trở nên quan trọng hơn nữa không những trong khu vực
15

mà cả trên phạm vi toàn thế giới. Do đó Biển Đông thu hút nhiều sự quan
tâm chú ý của nhiều nước trên thế giới.
Biển Đông hiện tại cũng đang là khu vực đang xảy ra tranh chấp căng thẳng
giữa nhiều nước, trong đó có nước lớn Trung Quốc. Biển Đông đối với
Trung Quốc vô cùng quan trọng vì họ đang chuyển sang thời kì phát triển
cao độ. Do những nhu cầu về tài nguyên, nhiên liệu tăng mạnh, và hơn thế
nữa, Trung Quốc thực sự muốn mở rộng lãnh thổ cũng như phạm vi ảnh
hưởng và sức mạnh của mình ở khu vực biển Đông, cho nên, độc chiếm biển
Đông là mục tiêu lâu dài và xuyên suốt trong chiến lược của Trung Quốc ở
khu vực Đông Nam Á.
2.3.2 Biển Đông nóng như thế nào?
a. Sự bành trướng của Trung Quốc
Chúng ta có thể nhận thấy sự bành trướng của Trung Quốc ở biển Đông bắt
đầu từ năm 1956. Sau khi Pháp thất bại chiến dịch Điện Biên Phủ ở Việt
Nam và Pháp buộc phải kí hiệp định Giơnevơ vào tháng 4/1956, quân Pháp
rút khỏi miền nam Việt Nam. Chính sự vắng bóng của quân đội Pháp lúc
này đã tạo ra một khoảng trống quyền lực cũng như tạo điều kiện cho Trung
Quốc đánh chiếm Hoàng Sa một cách dễ dàng hơn. Có thể nói đây là những
bước đầu Trung Quốc thể hiện sự bành trướng cũng như muốn mở rộng ảnh
hưởng của mình ở quần đảo Hoàng Sa. Tiếp tục cho đến năm 1974, khi hiệp
định Paris về chiến tranh Việt Nam được kí kết thì buộc Mỹ không được can
thiệp vào Việt Nam và quốc hội Mỹ cũng đã thông qua đạo luật Casey-
Church, cấm quân Mỹ can thiệp trở lại Đông Dương . Chúng ta có thể thấy
cơ hội lại tiếp tục mở ra cho Trung Quốc, khi quân Mỹ đã rút hết về nước lại
tạo ra một khoảng trống quyền lực cho Trung Quốc dễ dàng lợi dụng để tiếp
16
tục chiếm đóng các đảo ở Trường Sa và Hoàng Sa. Sự bành trướng của
Trung Quốc ở khu vực biển Đông ngày càng được thể hiện rõ. Lúc đầu họ
đánh chiếm các đảo ở Hoàng Sa, sau đó lại tiếp tục đánh chiếm nhiều đảo
nữa ở cả Trường Sa và Hoàng Sa.

Đặc biệt là sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Vành Khăn
năm 1995 được nhiều học giả trên thế giới đánh giá là dấu hiệu rõ nhất của
Trung Quốc muốn bàng trướng ra biển Đông. Nhưng trước đó, chúng ta
cũng có thể thấy rõ vào tháng 10/1988, Philippin lại chụp được những bức
ảnh cho thấy Trung Quốc lại tiếp tục xây dựng các công sự lớn hơn trên đảo
Vành Khăn, phía Philippin cũng ghi nhận các tàu vận tải chở vật liệu cũng
như sự có mặt của chiến hạm loại Dazhi của hải quân Trung Quốc đến cung
cấp nguyên vật liệu cũng như để yểm trợ các lính công binh Trung Quốc
đang xây dựng các khung công trình mới. Bộ trưởng bộ quốc phòng lúc bấy
giờ của Philippin, ông Olarndo S. Marcado chỉ trích hành động này của
Trung Quốc là “sự xâm lấn dần dần đối với những vùng đang tranh chấp ở
biển Đông”. Ông B.A.Hamzak, giám đốc viện nghiên cứu Hàng Hải Mã Lai
còn gọi hành động của Trung Quốc đối với đảo Vành Khăn là “Tây Tạng
hóa biển Đông”, ý là nói tới tình huống một ngày nào đó các nước có yêu
sách đối với Biển Đông bỗng nhận thấy các đảo trên Biển Đông đã vào tay
Trung Quốc từ lúc nào mà không hay biết. Tiếp đó vào năm 1995, Philippin
tiếp tục phát hiện ra Trung Quốc đang xây dựng các công trình quân sự trên
bốn phía của đảo Vành Khăn. Phản ứng trước động thái này của Trung Quốc
thì không quân Philippin đã phá hủy một loạt cấu trúc đang được xây dựng
trên đảo này. Trung Quốc muốn lợi dụng vị thế mình là một nước lớn để phô
trương sức mạnh quân sự và mở rộng ảnh hưởng ở khu vực biển Đông khi
17
họ bắt đầu “gặm nhấm” nhiều hòn đảo có vị trí quan trọng và chiến lược
trong khu biển Đông nhằm răn đe các nước khác.
Ngày 20/11/2007, Nhật Báo Hồ Nam đưa tin Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã
thông qua quyết định thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi lần lượt là Nam Sa và Tây
Sa. Tam Sa chịu sự quản lý của tỉnh Hải Nam. Cơ quan quản lý hành chính
được đặt trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Tờ Daily Telegraph ra ngày 2/5/2008, cho đăng các bức ảnh chụp từ vệ tinh

của hãng Digital Globe, cho thấy Trung Quốc đang cho xây dựng một căn
cứ tàu ngầm quân sự hạt nhân trên căn cứ hải quân Tam Á, biển Đông . Tờ
báo này bình luận căn cứ này có thể che giấu tới 20 tàu ngầm hạt nhân trước
vệ tinh do thám, hơn nữa căn cứ này còn tạo điều kiện cho các tàu ngầm
không cần nổi lên, khiến chúng càng khó phát hiện hơn. Trung Quốc còn
cho xây dựng căn cứ không quân tại đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, xây dựng đảo
nhân tạo trên bãi Chử Bích thuộc Trường Sa để có mặt bằng tác chiến và có
thể cùng một lúc neo đậu hàng chục tàu quân sự cỡ lớn, đảo Chử Bích và
đảo Đại Hoàn hoàn toàn nằm trong vùng tác chiến của các máy bay chiến
đấu mà Trung Quốc đang có.
Trung Quốc còn muốn phô trương sức mạnh và tiềm lực quân sự khổng lổ
của mình trên hai hòn đảo với các căn cứ tàu ngầm quân sự hạt nhân, căn cứ
không quân, hay tham vọng theo đuổi hàng không mẫu hạm của Trung
Quốc. Theo báo cáo của bộ quốc phòng Mỹ về khả năng quân sự của Trung
Quốc năm 2009, cho thấy sức mạnh về quân sự của quốc gia ngày càng
được tăng cường, nhấn mạnh đến việc Trung Quốc cần làm rõ ý đồ chiến
lược nằm đằng sau việc gia tăng tiềm lực quân sự của mình.
18
b. Sự can thiệp của Mỹ
Là một thế lực toàn cầu, Mỹ đã luôn luôn chủ trương là quyền thông thương
tự do trên biển Đông Nam Á là thuộc lợi ích của Mỹ. Chính vì thế, Quốc hội
Mỹ ra nghị quyết vào tháng 3 năm 1995 nhấn mạnh: “Quyền đi lại tự do trên
biển Nam Trung Hoa nằm trong lợi ích chiến lược của Mỹ”. Ngày 10 tháng
5 năm 1995, Bộ Ngoại giao Mỹ phát biểu mạnh hơn: “Mỹ sẽ rất quan tâm
đến bất cứ một đòi hỏi liên quan đến biển hay ngăn cản hoạt động hàng hải ở
biển Nam Trung Hoa, không phù hợp với Luật Biển.
Vào ngày 16 tháng 6 năm 1995, Joseph Nye, Phụ tá Bộ Trưởng Quốc phòng
về An ninh Quốc tế nói với báo giới ở Tokyo là “nếu hành động quân sự xảy
ra ở quần đảo Trường Sa và ngăn cản tự do đi lại trên biển cả thì chúng tôi
sẵn sàng hộ tống và bảo đảm rằng thông thương tiếp tục.”

Những tuyên bố này nhằm cảnh cáo Trung Quốc khi họ mang quân chiếm
MisChief Reef từ Philippines vào tháng 2 năm 1995. Nhưng chúng cũng
phản ánh thái độ dứt khoát của Mỹ về quyền tự do đi lại trên hải phận quốc
tế.
Trước đó, vào 1 tháng 4 năm 2001, Mỹ cho máy bay thuộc Cục An ninh
Quốc gia (National Security Agency) bay qua vùng biển thuộc biển Nam
Trung Hoa. Trung Quốc cho máy bay bay theo và đụng vào máy bay Mỹ.
Máy bay Trung Quốc rớt, còn máy bay Mỹ bị hư hại phải hạ cánh xuống
Đảo Hải Nam, gây ra tình trạng căng thẳng giữa hai nước.
Mỹ đã cho rằng tàu chiến của Trung Quốc “lượn quanh và diễu hành một
cách khiêu khích và nguy hiểm sát ngay khu vực chiến hạm Mỹ USNS
Impeccable". Mỹ đã xin lỗi về sự kiện đụng máy bay Trung Quốc rơi, nhưng
từ chối xin lỗi về cái mà Trung Quốc kết án là Mỹ xâm phạm vào chủ quyền
19
Trung Quốc. Mỹ cho rằng bay ngoài vùng cách lãnh hải Trung Quốc 60 km
(32 hải lý) là thuộc quyền tự do thông thương trên bầu trời nằm trên vùng
đặc quyền kinh tế; việc này hoàn toàn hợp pháp theo Công ước về Luật biển.
Lần này, ngày 10 tháng 3, nhân dịp Obama mới nhận chức, và nhân việc Mỹ
cho tầu có tên USNS Impeccable thám thính hoạt động tầu ngầm của Trung
Quốc trong vùng biển Đông Nam Á cách đảo Hải Nam 75 dặm, ngoài vùng
lãnh hải và thuộc khu đặc quyền kinh tế, Trung Quốc cho 5 tầu chiến gây
hấn. Mỹ cũng đã cực lực phản đối Trung Quốc, và coi đây là quyền tự do
lưu thông theo Luật biển.
2.3.3 Hướng giải quyết
Trước thềm hội nghị cấp cao Trung Quốc - ASEAN tại Hàn Châu vào tháng
4/1995, các nước ASEAN bày tỏ mối lo ngại trước những hàng động hung
hăng của Trung Quốc trên biển Đông, cũng như những hậu quả chính trị có
thể diễn ra. Tiếp đó là cuộc họp tại Singapore ngày 13/8/1995, các thành
viên của tổ chức ASEAN đã khẳng định lại cam kết của mình với tuyên bố
của ASEAN về biển Đông năm 1992. Mặc dù không trực tiếp nhắc đến

Trung Quốc nhưng các ngoại trưởng ASEAN đã “bày tỏ mối quan ngại của
mình trước những diễn biến gần đây có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn
định trên biển Đông”. Nhận thấy sức ép từ phía ASEAN vào tháng 8/1995
bộ trưởng bộ ngoại giao Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố nhằm giảm sự căng
thẳng ở khu vực biển Đông đối với các nước ASEAN. Nhưng tuyên bố đó
của Trung Quốc có thật sự mong muốn làm giảm căng thẳng ở khu vực biển
Đông hay ko? Theo tôi thì điều đó là khó có thể xảy ra vì Trung Quốc luôn
mang trong mình tư tưởng Đại Hán, luôn muốn đàn áp và xâm chiếm các
nước xung quanh để mở rộng lãnh thổ của mình. Hơn nữa thì tuyên bố đó
Trung Quốc cũng nói rõ họ chỉ chấp nhận đàm phán song phương về biển
20
Đông nhằm mục đích dễ dàng gây sức ép cho các nước nhỏ và tạo sự chia rẽ
trong khu vực ASEAN.
Nhưng từ khi diễn đàn khu vực-ARF ra đời và các nước ASEAN đã lôi kéo
được trung quốc tham gia thì có thể nói đây là một thắng lợi ngoại giao lớn
của các nước ASEAN nhằm làm dịu bớt tình hình cằng thẳng ở khu vực biển
đông. Thông qua ARF, các nước ASEAN và trung quốc đã tiến hành các
cuộc thảo luận đa phương về các vấn đề an ninh nhất là an ninh trên hai
quần đảo này. Từ đó có thể thấy trung quốc có vẻ tỏ ra ôn hòa hơn trong vấn
đề tranh chấp biển đông. Hai bên đã cùng nhau thảo luận và đi tới chấp nhận
công ước luật biển 1982 và đã tiến tới kí “quy chế ứng xử biển đông” năm
2002. nhưng diễn đàn này có thật sự kìm chế được những hàng động hung
hăn của trung quốc ở biển đông hay ko? Nhưng dường là không mà diễn đàn
khu vực-ARF mới chỉ làm dịu bớt và kìm chế những bất ổn chứ hoàn toàn
chưa giải quyết được những điểm nóng vẫn đang tiềm tàng ở khư vực biển
đông.
Ngoài ra thì những tuyên bố về ứng xử các bên trên biển Đông được phía
Trung Quốc và ASEAN ký kết bên thềm hội nghị cấp cao ASEAN tổ chức
tại Phnom Penh vào tháng 11/2002 , càng cho ta cơ sở để tin rằng sự bành
trướng của Trung Quốc ở biển Đông đang dần bị hạn chế nhưng điều này có

thật sự là như thế ko? Theo quan điểm của tôi thì không phải thế vì tuyên bố
này không những không kiềm chế được sự hung hăng của Trung Quốc trên
biển Đông, mà sự bành trướng của Trung Quốc cần có một cách nhìn nhận
khác. Chúng ta có thể thấy tuyên bố này chỉ mang tính chất chính trị, nó
không mang tính chất ràng buộc các bên thì làm sao có thể buộc Trung Quốc
thực hiện. Hơn nữa, tuyên bố này không làm cho các các nước ở khu vực
ASEAN hài lòng. Ví dụ như, tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông
21
chỉ đề cập đến Trường Sa mà không đề cập đến Hoàng Sa, hay những tâm
điểm khác của tranh chấp ở hai quần đảo này. Qua đó cho ta thấy những
hiệp định giữa các nước với Trung Quốc hay những tuyên bố của Trung
Quốc nhằm giảm căng thẳng tình hình ở biển Đông là đều không thực,
không thể ngăn chặn được sự bành trướng của Trung Quốc ở khu vực biển
Đông mà ngược lại chỉ nhằm mục đích đem lại lợi ích nhất định cho Trung
Quốc.
Khu vực biển đông vốn dĩ đã phức tạp, tình hình căng thẳng do sự tranh
giành lợi ích, chủ quyền, kinh tế và an ninh trên biển của các quốc gia như
Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Bru-nây, Ma-lay-xi-a và Phi-lip-pin. Các
cơ chế giải quyết như đàm phán song phương hay đa phương đều không thể
giải quyết triệt để vấn đề này. Nhưng nay lại thêm sự có mặt của một siêu
cường nữa trên thế giới đó là Mỹ sẽ làm cho tình hình khu vực này sẽ trở
nên phức tạp hơn bao giờ hết. Và liệu khi có sự tham gia của Mỹ thì tình
hình nơi đây có giải quyết được ko? Các quốc gia vừa và nhỏ trong hiệp hội
ASEAN có thể khẳng định được chủ quyền trên biển của mình ko? Theo ý
kiến riêng của tôi thì các quốc gia nhỏ này buộc phải liên kết với nhau lại
thật chặt chẽ và giữ thế cân bằng trên giây khi quan hệ với hai nước lớn mỹ
và trung nhằm đảm bảo lợi ích về kinh tế, chủ quyền va an ninh trên biển
của mình.
3. Kết luận
Đông Á tập trung nhiều quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới

nhưng cũng là khu vực có sự tranh giành ảnh hưởng, lợi ích giữa các nước
lớn nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất an ninh. Tuy nhiên, nhìn chung hiện
nay các nước Đông Á vẫn giữ được phản ứng ở mức kiềm chế cho nên an
ninh khu vực còn được đảm bảo. Trong thời gian tới, với nỗ lực của các
22
nước trong khu vực kết hợp cơ chế giải quyết đa phương, các chuyên gia
đánh giá khả quan rằng sẽ sớm có hướng giải quyết nhằm “hạ nhiệt” các
điểm nóng nêu trên.

















23
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
NỘI DUNG 2

1. Đông Á – vì sao lại “nóng”? 2
2. Các điểm “nóng” ở Đông Á 4
2.1 Điểm nóng Triều Tiên 4
2.1.1 Vì sao Triều Tiên là một điểm nóng? 4
2.1.2 Triều Tiên nóng như thế nào? 5
2.1.3 Đánh giá nguy cơ bùng phát xung đột ở Triều Tiên? 8
2.2. Điểm nóng Đài Loan 10
2.2.1 Tại sao Đài Loan là điểm nóng? 10
2.2.2 Đài Loan nóng như thế nào? 10
2.2.3 Đánh giá nguy cơ bùng phát xung đột Đài Loan? 13
2.3 Điểm nóng Biển Đông 13
2.3.1 Vì sao biển Đông là điểm nóng? 14
2.3.2 Biển Đông nóng như thế nào? 15
2.3.3 Hướng giải quyết 19
3. Kết luận 21
DANH SÁCH NHÓM Error! Bookmark not defined.


24

.

×