Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số biện pháp pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ em dân tộc thiểu số trong trường mầm non ngọc thanh a

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.03 KB, 21 trang )

Một số biện pháp pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu
số trong trường mầm non Ngọc Thanh A

        Xuất phát từ cơ sở lý luận, căn cứ vào tình hình thực tế. Nhận thức được
tầm quan trọng của việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc
thiểu số trong trường mầm non. Tôi đã quyết định khảo sát, nghiên cứu,
tham khảo ý kiến chuyên viên ngành học mầm non thành phố Phúc Yên, các
đồng chí cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường để đưa
ra những phương pháp, biện pháp hiệu quả nhất nhằm đưa chất lượng chăm
sóc của Trường Mầm non Ngọc Thanh A đạt kết quả cao.
          Mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình thực hiện theo hướng
chuẩn hố, tiếp cận với trình độ khoa học tiên tiến của khu vực, của địa
phương mình. Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với
thực tiễn giáo dục của nhà trường kết hợp với giáo dục giữa gia đình và xã
hội, chú trọng giáo dục với thực tiễn, tích hợp nội dung theo chủ đề, tăng
cường các hoạt động của trẻ thơng qua hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân.
Để khắc phục những khó khăn trên tơi đã thực hiện một số biện pháp như
sau:
Nắm vững những đặc điểm phát triển về ngơn ngữ của trẻ ở các độ tuổi.
Có các giải pháp hướng dẫn trẻ học Tiếng Việt một cách linh hoạt, phù hợp
với khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường, phù hợp với địa phương và
khả năng nhận thức của trẻ trong lớp.
Thường xuyên tham khảo tài liệu, sưu tầm các thông tin trên mạng intenet,
dự giờ kiến tập đồng nghiệp, học hỏi kinh nghiệm.

download by :


 Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh cùng với giáo viên tích cực dạy Tiếng
Việt cho trẻ.
          Để giúp trẻ tăng khả năng nghe hiểu và thực hành Tiếng Việt một cách


tốt nhất tơi kiên trì, sáng tạo và gần gũi với trẻ. Bằng sự hiểu biết của mình
tơi lựa chọn những nội dung những bài học và những hình thức, những hình
ảnh đẹp hay những tình huống hẫp dẫn giúp trẻ học Tiếng Việt có hiệu quả vì
vậy tôi đưa ra các biện pháp cụ thể như sau:
           Biện pháp 1: Dạy trẻ học Tiếng Việt theo trình tự nghe, hiểu và
thực hành:
  Trẻ học hiểu nghĩa của từ và câu trước khi nói chính xác từ và câu đó:
  Bước vào trường mầm non trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ thứ hai và
đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong q trình trẻ học nói Tiếng Việt, tiếp thu
kiến thức bằng Tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cơ đều
thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ I, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển
khả năng nghe hiểu lời nói của cơ.
Với mục đích trẻ hiểu nghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành Tiếng Việt. Yêu cầu
đối với giáo viên khơng cấm trẻ nói Tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà
khơng hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành
động với đồ vật, bằng ngơn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu
nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề.
Ví dụ: Trẻ làm quen với tên gọi các bạn: đây là bạn Mai chi, đây là bạn Mai
Trang… cô dắt trẻ lên và giới thiệu cho các bạn nghe, lần lượt các bạn trong lớp.
Cho trẻ làm quen với tên gọi và đồ dùng đồ chơi ở các góc trong lớp học: Đây là
viên gạch, đây là quả táo…Khi cô giới thiệu cho trẻ nghe cô hỏi lại để kiểm tra
đối với các trẻ. Cô giới thiệu và làm mẫu một số hành động cụ thể : đứng lên,
ngồi xuống, đi ra ngoài… kết hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích nghĩa của từ

download by :


và câu, nhất là những từ trừu tượng, khó hiểu. Tôi thường xuyên dùng những
từ ngữ nhẹ nhàng để khen ngợi trẻ, nêu những điểm nổi bật làm trẻ thích thú và
chăm chú nghe cơ nói.

Sử dụng đồ dùng cho trẻ tiếp cận theo nhóm đối tượng giúp trẻ dễ sâu chuỗi
được vấn đề hơn:         
Vi dụ: Cho trẻ quan sát tranh các con vật cơ hỏi “ Con gì đây” và “đây là con
gì” đầu tiên trẻ chưa biết tôi hướng dẫn trả lời rồi cho trẻ bắt chước sau đó
trẻ tự trả lời, và cứ như vậy trẻ sẽ tự hiểu đó là những con vật. Vì vậy khi cho
trẻ tiếp súc đối tượng tôi thường đưa các đối tượng có cùng chủng loại: các
loại quả, các đồ chơi...
Tôi thường xuyên trao đổi với trẻ bằng cách chọn từ ngữ sao cho ngắn gọn,
dễ hiểu kết hợp hướng dẫn giúp trẻ hiểu những vấn đề, nhiệm vụ gần gũi đối
với trẻ:  Ví dụ: Khi trẻ đến lớp cơ nhắc “ Chào cô nào” và cô hướng dẫn cho trẻ
thực hiện nói “ Cháu chào cơ” và các khái niệm, các từ chỉ tên người, đồ vật ví
dụ: Tên bạn, quần áo, bát đĩa, tên đồ dùng đồ chơi trong lớp, một số hoạt
động hàng ngày trẻ phải thực hiện ví dụ: con hát nào, con hãy đọc thơ, con
thực hiện cùng cô nào…
Tôi luôn chú ý phát rõ âm để trẻ dễ tiếp thu, dạy trẻ cần phải kèm tranh minh
họa, vật thật đơi khi cần có cả sự giải thích, khi sử dụng từ ngữ cơ lựa chọn
cầu từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trẻ. Chú ý cung cấp từ mới cho trẻ phải
nhắc đi nhắc lại giúp trẻ nghe rõ và hiểu vấn đề một cách cụ thể.
Tạo cho trẻ năng lực bắt chước kết hợp âm thanh, trẻ thường xuyên học nhắc
lại những gì nghe được từ cơ và các bạn, đây cũng là một trong những biện
pháp trẻ dễ học dễ hiểu nhất: Ví dụ: Trong giờ học tơi đưa một bức tranh và
hỏi trẻ cơ có gì đây? Một số trẻ trả lời “ Tranh con vịt” cô khẳng định là đúng
và cho cả lớp và cá nhân bắt chước nói giống cô và các bạn cứ như vậy trẻ
học rất nhanh và hiệu quả cũng rất cao.

download by :


Nghe với những hình ảnh động: Các hình ảnh đính kèm những ngơn ngữ làm cho
trẻ ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung của vấn đề, mà không cần phải ‘dịch’ từng câu.

Ví dụ: Thường xuyên mở các bài hát, đoạn video về các con vật, các hiện
tượng tự nhiên hay các sự kiện… cho trẻ xem, trẻ chăm chú phán đoán và trẻ
cũng dần hiểu một số câu từ trong những đoạn video, clip đó.
Luyện nghe cho trẻ cũng rất quan trọng, luyện cho trẻ nghe được các âm vị
cấu trúc âm tiết khác nhau , nghe biểu cảm về phương diện âm thanh. 
Mặc dù có thể hơi khó với trẻ nhưng đọc hay kể chuyện cho trẻ nghe ngay từ
những ngày đầu tới lớp của trẻ là một trong những cách tốt nhất giúp trẻ
làm quen với ngôn ngữ Tiếng Việt. Thông qua việc dành thời gian đọc, kể cho
trẻ nghe từ đó giúp trẻ nhận biết những điều kỳ diệu mà ngôn ngữ đem lại và
sự thích thú của trẻ đối với những điều kỳ diệu đó sẽ biến trẻ thành người
ham học.
Yêu cầu ở nội dung này cô cần phải kiên trì, thường xun trị chuyện giao
tiếp cùng trẻ có nhiều biện pháp giúp trẻ nghe hiểu một cách chính xác nội
dung cô cần truyền đạt. Do vậy tôi luôn chú ý đến lời nói phải chính xác, rõ
ràng, mạch lạc, tránh nói lắp, nói ngọng.
  Lựa chọn nội dung giáo dục và hoạt động phù hợp với khả năng của trẻ.
Ví dụ: Lựa chọn những bài thơ, bài hát ngắn gọn dễ hiểu, tìm những bài thơ, ca
dao, đồng dao giúp trẻ dễ đọc dễ nhớ và cũng thuận lợi trong việc khai thác nội
dung.
Luôn chú ý hệ thống câu hỏi đàm thoại với trẻ để đảm bảo tình phù hợp,
chính xác và có tính mở chú trọng lấy trẻ làm trung tâm. Đặc biệt khi lựa
chọn đề tài này cần phải chú trọng hơn khi xây dựng nội dung giáo dục để
đảm bảo tính hiệu quả phù hợp với nội dung và đối tượng vùng miền.
 Trẻ học tiếng Việt gắn với những tình huống thực tế:

download by :


Hình ảnh, trị chơi, nhạc họa, diễn kịch… nói chung là các hoạt động nhằm giúp
trẻ tham gia vào môi trường sử dụng Tiếng Việt một cách tự nhiên, không

gượng ép. Các hoạt động đa dạng sẽ giúp trẻ từng bước hình thành phong
cách riêng trong học tập và sử dụng Tiếng Việt. Phong cách riêng chính là nền
tảng của chất lượng và hiệu quả học tập Tiếng Việt cho trẻ em. Nắm bắt được
đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên
báo chí, thơng tin đại chúng để tạo các tình huống và đưa vào dạy trẻ phù hợp
theo nội dung từng chủ điểm.
Ví dụ: Tổ chức các trị chơi cho trẻ như:
- Trị chơi những chiếc thuyền: Cơ đổ nước vào chậu hoặc bát to. Để 3 cái hộp
rỗng vào. Cần thổi chúng chuyển động từ bờ bên này sang bờ khác. Cơ nói với
Trẻ: “Con tưởng tượng xem, đây là biển nhé. Để cho tàu ra khơi, cần có gió
đẩy thuyền đi. Con hít sâu vào rồi thổi mạnh đi!”. Điều quan trọng là theo dõi
việc thở ra và khuyến khích trẻ thực hiện theo u cầu của cơ. Để kích thích
khẩu ngữ của bé, cơ đặt những câu hỏi: “Thời tiết trên biển thế nào con nhỉ?”,
“Con thấy mặt nước trông như thế nào?”…cô  cho trẻ chơi theo nhóm nhỏ các
trẻ khác quan sát và nhận xét về các con thuyền, nhận xét cách chơi của các
bạn cùng với những lời tán thưởng của cơ trẻ rất thích thú cổ vũ cho những
con thuyền, đây cũng là một hình thức trẻ được chơi một cách thoải mái nhất
nhưng trẻ lại nhớ lâu những từ mới như “con thuyền”, “mặt nước”, “thổi
mạnh”, “thuyền đi nhanh, thuyền đi chậm”… bởi qua lúc chơi trẻ hị reo cổ vũ
theo cơ và các bạn.
- Trò chơi dàn nhạc đặc biệt: Cần 6 cái hộp và 3 loại vật liệu hạt rời (ngũ cốc,
đường, bột, hạt cườm…). Điều quan trọng là đổ từng đôi hộp số lượng vật
liệu như nhau để âm thanh trùng nhau chính xác. Nhưng âm thanh của đơi
hộp này cần khác biệt với đôi khác. Một bộ đưa cho trẻ, cịn bộ kia cơ giữ. Cơ
lắc “Hộp” bất kì, cịn trẻ cần tìm trong bộ của mình cái thùng có âm thanh y

download by :


như thế. Cô tăng dần số lượng hộp. Cô nghĩ ra những tên gọi lí thú cho những

dụng cụ đó: Tiếng ồn, quả bom, lúc lắc, lạo sạo…  trẻ được chơi cả lớp và cô
yêu cầu cá nhân lên chọn “Hộp”  cả lớp cùng nhắc giúp bạn với sự gợi ý của
cơ. Cơ nói các con chú ý xem chiếc “Hộp”  này có tiếng kêu thế nào ? ai giỏi lên
tìm hộp có tiếng kêu giống hộp của cơ nào. Trẻ sẽ phải lắc các hộp để tìm
cùng với sự chỉ dẫn của các bạn “ Hộp này, hộp kia, đúng rồi, sai rồi, tìm đi,
lắc hộp đi…” đó là những từ được nhắc nhiều trong trò chơi, trẻ cổ vũ, chỉ dẫn
cho bạn, đây cũng là cách trẻ được học những từ mới mà không cần cô chỉ
dẫn song vẫn đạt u cầu… trẻ em rất thích điều đó.
- Trị chơi cái bao bí ẩn: Cần một cái bao hoặc túi khơng trong suốt để khơng
nhìn thấy được những vật dụng bên trong túi. Cho vào đó những đồ vật hình
oval và hình trịn (trứng, quả bóng nhỏ, bóng lục lạc, cái hộp…). Trước khi cô
cho những vật trên vào bao, hãy cho trẻ sờ chúng trước và gọi tên những vật
đó. Sau đó, đề nghị trẻ tìm vật cần thiết qua cảm ứng: “Bàn tay con có đơi mắt
thần kì đó. Con hãy dùng tay lấy cho cơ quả bóng xem nào!” (hoặc vật khác).
Cô hỏi trẻ về đồ vật trẻ lấy ra khỏi bao: “Đây là cái gì?”, “Có thể chơi bóng như
thế nào nhỉ?”.
- Các tình huống gắn liền với hoạt động trong ngày cũng là những cơ hội để
giáo viên giúp trẻ tăng cường Tiếng Việt cho trẻ. Tôi giúp trẻ làm giàu thêm
vốn từ vựng của mình và giúp trẻ phát triển khả năng nghe, phản xạ bằng
cách yêu cầu trẻ nêu tên tất cả những đồ vật mà trẻ biết bắt đầu bằng những
tên bạn trong lớp, tên cơ, tên các đồ dùng đồ chơi.
Ví dụ: Cô hướng trẻ với những sự vật hiện tượng xung quanh để trị chuyện và
mở rộng ngơn ngữ cho trẻ, gợi ý tạo sự tò mò của trẻ vào những thay đổi khác
thường chẳng hạn: Cây đào sân trường ra hoa, trời mưa rất to, bạn Hoa có áo
mới…

download by :


           Biện pháp 2: Dạy trẻ học Tiếng Việt qua phương pháp trực quan

hành động:
Phương pháp này rất hiệu quả đối với người bắt đầu học một ngơn ngữ mới
(ngồi tiếng mẹ đẻ), cho phép người học tiếp thu ngôn ngữ mới một cách dễ
dàng và tự nhiên mà không bắt buộc phải quá tập trung hay căng thẳng.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở nhiều hình thức khác
nhau. Với phương pháp này, người học được sử dụng tích cực các giác quan
và vận động của cơ thể trong suốt quá trình tham gia vào hoạt động học tập
và thực hành ngôn ngữ mới. Các kỹ năng nghe - quan sát - phản hồi (bằng
hành động của cơ thể) được sử dụng hiệu quả trong quá trình học tập.
Phương pháp này giúp giáo viên và trẻ có thể áp dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo các hoạt động dạy và học để đạt được những giờ học thực sự tích
cực. Sử dụng đồ dùng trực quan đẹp, bắt mắt đó cũng là cách làm trẻ tị mị
xem đó là gì, thích được tham gia vào hoạt động với đồ dùng đó.
  Để góp phần đưa các biện pháp dạy Tiếng Việt cho trẻ mầm non. Là người
lãnh đạo nhà trường tôi đã chỉ đạo cán bộ, giáo viên tổ chức họp tuyên
truyền phụ huynh tích cực hợp tác với nhà trường, cùng thống nhất dạy
Tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mội nơi. Đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong
gia đình cần dùng Tiếng Việt giao lưu với trẻ thường xuyên. Mỗi giáo viên
cần phải có trách nhiệm gần gũi trị chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành
động để trẻ dần được làm quen với Tiếng Việt một cách tự nhiên khơng gị bó.
  Ví dụ: Thơng qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học tiếp
thu có hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích
của phương pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích như:
hiểu và sử dụng ngơn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ
năng nghe, nói một ngơn ngữ mới. Khơng cho trẻ nói khi chưa thực hiện
thành thạo được các hành động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi

download by :



đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự tin làm đúng, trẻ xẽ tự muốn nói và có thể tự
thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi
lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gon, không dẫn dắt, giảng giải
nhiều vì trẻ chưa hiểu Tiếng Việt. Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước
những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu
bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của
người dạy. Lúc đầu dạy từ 1-2 từ dễ hiểu kết hợp với hành động như: Đứng
lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cơ giáo cần cho trẻ ơn lại những gì được
học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà khơng
cần phải giữ ngun thứ tự từ các bước ngày hơm trước dạy nữa ví dụ: Đứng
lên - ngồi xuống, ngồi xuống - đứng lên, rửa tay - rửa chân…Dạy Tiếng Việt
với biện pháp trực quan hành động với đồ vật, biện pháp này dạy trẻ các từ
mới như: Cái bàn, cái ghế, quyển vở…Ngoài ra còn sử dụng các biện pháp dạy
trẻ học Tiếng Việt qua kể chuyện, đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các
đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng trương cho các nhân vật chính, sử dụng
các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc trẻ học Tiếng Việt thông
qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng Việt. Nội dung
chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái.
Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm
quen với Tiếng Việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là
tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng Việt .Cách gọi
làm quen với Tiếng Việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so
với cách gọi làm quen với chữ cái. Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm
quen với Tiếng Việt không chỉ là dạy trẻ phát âm, dạy trẻ tập tơ 29 chữ cái
mà cịn dạy trẻ đọc đúng các chữ cái, các từ trong tranh, hiểu được nội dung
của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết
ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong Tiếng Việt. Có
một số ít trẻ nói được Tiếng Việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của

download by :



Tiếng Việt .Vì vậy việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính
xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cơ phát âm để tìm
được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái.
Ví dụ : Hơm nay cô cho trẻ nhận biết chữ s – x chẳng hạn: Cô cho trẻ xem
tranh " Hoa Sen xanh" cho trẻ đọc từ : Hoa Sen xanh Trẻ nhận biết trong từ
Hoa Sen xanh có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ cái ? Rồi cơ ghép thẻ chữ
rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm lại những chữ
đó. Cịn lại cơ giới thiệu cho trẻ làm quen s- x, tôi phân tích các nét cơ bản cấu
tạo nên chữ cái s-x, cho trẻ phát âm chữ s-x nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu
tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái.
Biện pháp 3: Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua việc làm quen
với chữ cái:
Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ
cái .Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc
làm quen với Tiếng Việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa
phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng
Việt .Cách gọi làm quen với Tiếng Việt thường gợi ra một phạm vi nội dung
rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái . Do đó có thể thấy nội dung
dạy trẻ làm quen với Tiếng Việt không chỉ là dạy trẻ phát âm, dạy trẻ tập tô
29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung của từ và biết
dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ
nhận biết và phát âm đúng 29 chư cái trong Tiếng Việt.
Có một số trẻ nói được Tiếng Việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ
của Tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết
chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cơ phát âm để
tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái tương ứng.
Ví dụ: Hơm nay cô cho trẻ nhận biết chữ  h - k chẳng hạn:


download by :


Cô cho trẻ xem tranh " Hoa loa kèn" cho trẻ đọc từ: Hoa loa kèn 
Trẻ nhận biết trong từ Hoa loa kèn có bao nhiêu tiếng? Có mấy con chữ cái?
 rồi cô ghép thẻ từ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát
âm lại những chữ đó .Cịn lại cơ giới thiệu cho trẻ làm quen h- k, tơi phân tích
các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái h-k, cho trẻ phát âm chữ h-k nhiều lần
giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái  và trẻ nhận biết một cách chính xác
từng chữ cái.
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng Việt tôi tiến
hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tơ chữ cái giúp trẻ
dần dần nắm được tồn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương trình,
đồng thời chính xác hố cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo
dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm học bằng chơi, chơi mà
học. Từ đó tơi ln nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để
dạy trẻ. Điều đáng chú ý là trẻ mầm non xã Ngọc Thanh rất ham thích được
học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thơng qua các trị chơi.
Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và
cùng nhau khám phá. nắm bắt được đặc điểm này chúng tôi đã không ngừng
học sưu tầm những trị chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để
đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm. Ví dụ: Trị chơi tìm
chữ cái s-x trong bài thơ "Hoa Sen" Tơi viết bài thơ lên giấy tô ki (mỗi tờ
tranh đã được viết nội nội dung một bài), tôi mời lớp tôi chia làm 2 đội lên
dùng bút tìm và gạch chân chữ s-x có trong từ có trong mỗi câu thơ và đọc
chữ cái mình đang gạch chân đội nào tìm gạch chân được nhiều chữ s-x thì
chiến thắng và được tun dương. Tơi cịn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ
cái qua nhiều trò chơi khác như "Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó"…
"Dạy trẻ phát âm Tiếng Việt thơng qua trị chơi tìm chữ cái theo u cầu của
cơ" Tăng cường Tiếng Việt thơng qua trị chơi gắn chữ cái trên đồ dùng, đồ


download by :


chơi, " Xếp chữ cái bằng hột hạt". "Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"...
Bên cạnh đó tơi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi
để cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trải
nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu
sắc hơn, tập phát âm Tiếng Việt một cách chuẩn hơn.Từ đó cũng góp phần
khơng nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ. Qua một thời gian thực
hiện trẻ có tiến bộ rõ rệt, trẻ hứng thứ trong học tập, nhiều trẻ thuộc chữ cái
và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp. Tôi tiến hành lên kế hoạch chỉ đạo
giáo viên áp dụng việc cung cấp Tiếng Việt vào các hoạt động như:
Biện pháp 4: Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua môn Văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt
trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ
những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần
thiết.
Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tơi
chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện khơng q dài, có nội dung hấp dẫn trẻ
để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý
nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của lớp tơi ln tạo ra tình
huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc
bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tị mị của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ
trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngơn ngữ giới thiệu
hấp dẫn từ ngữ thật gần, thật dễ hiểu đối với trẻ, tôi đọc thơ hay kể chuyện
với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi
cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến
tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu,
tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc

thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí

download by :


thế cho trẻ trong học thơ, còn đối với chuyện thì  kể nhiều lần và đàm thoại
theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng
nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội
dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tiến hành
mời trẻ khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, khuyến khích trẻ bằng một
món q hay thưởng bằng một phiếu bé ngoan, Chính nhờ như vậy trẻ ngày
càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều trẻ thuộc thơ, kể lại câu chuyện một
cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ em người dân
tộc thiểu số của tôi đã gặt hái được nhiều thành công.
Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học để giúp trẻ học ngôn
ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt trong học tập cũng
như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý
nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết.Trước khi vào
dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn
bài thơ, câu chuyện khơng q dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ
dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất
ngắn, nắm được điểm yếu này của trẻ vùng dân tộc thiểu số, người giáo viên
ln tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng
nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tị mị của trẻ, đã tạo
được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính
bằng ngơn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối với
trẻ, giáo viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các
động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội
từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một
cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng

câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn
nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong học thơ, cịn đối với
chuyện thì cần kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện,

download by :


và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách
phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các
nhân vật trong chuyện, sau đó tơi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện
cho cả lớp nghe, tôi không qn khuyến khích trẻ bằng một món q hay
thưởng bằng những tràng pháo tay động viên, Chính nhờ như vậy học sinh
trường tơi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể
lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho
trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước,
tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày
nâng cao hiệu quả hơn.
 Biện pháp 5: Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
Thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp,
vì vậy ngồi những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả, tơi tiến hành
cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi. Như chúng ta đã
biết khả năng tiếp thu của trẻ em dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng
khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn
Tiếng Việt bằng phương châm " Mưa dầm thấm lâu" cho nên việc cung cấp
ngôn ngữ Tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi vơ cùng hiệu quả, ví dụ: Giáo viên luôn
vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chải tóc cho trẻ và khơng qn kèm
theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp quá. Con ăn cơm
chưa? Ăn bao nhiêu cơm? Ăn với thức ăn gì? Con ăn có ngon khơng? Hay tơi
hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người? Con có em bé khơng? Mẹ con
làm nghề gì?... Qua trò chuyện với trẻ như vậy. Giáo viên sẽ nắm được khả

năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời gian hơn giúp
trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn Tiếng Việt. Giờ chơi tự do tơi hay dẫn trẻ
đến các góc trị chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở các góc, giáo
viên cần dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ phát âm chữ cái có trong
tranh con vật, hoa, cây quả…có từ mang chữ cái đang học, trẻ đọc qua nhiều

download by :


lần như vậy. Trẻ dân tộc trong trường, phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn
trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn
đến hỏi cơ, từ đó trẻ khơng cịn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt
động ngoài trời tơi cịn chỉ đạo Giáo viên chủ nhiệm các lớp cho trẻ ơn kiến
thức đã học qua trị chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian,
cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành
thạo hơn, lưu loát hơn. Tạo khơng khí thân thiện, gần gũi giữa cơ giáo và trẻ,
vấn đề này đặc biệt cần thiết và không tể thiếu được đối với trẻ dân tộc thiểu
số. Giờ vui chơi tơi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi
mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tơi ln theo sát trẻ
để kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời khơng có trọng tâm
hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Chính nhờ vậy mà học sinh trường tôi đa số trẻ biết
dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và cơ giáo.
 Biện pháp 6: Hình thành sự tự tin cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
Tôi lựa chọn phương pháp này mong rằng trẻ sẽ mạnh dạn hơn, tự tin hơn
trong việc sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp cũng như trẻ dám thể hiện bày
tỏ quan điểm của mình về những gì xung quanh, qua đó giữa cơ và trẻ có sự
trao đổi thường xn các thơng tin và đây cũng là cách giúp trẻ thực hành
Tiếng Việt một cách có hiệu quả nhất.
  Chắc chắn là trẻ cũng rất thích khi được cơ giáo và bạn bè động viên. Nhưng
những lời động viên, khen ngợi đó sẽ có tác dụng lớn hơn khi chúng được nói

ra dựa trên những việc trẻ đã làm tốt hoặc đã nỗ lực để thực hiện. Một khi trẻ
đã đạt được một mục tiêu nào đó thì cơ giáo khen ngợi chúng cả về thành
quả lẫn quá trình nỗ lực để đạt được thành quả đó. 
Ví dụ: Sau khi trẻ nặn được một quả cam cơ nói với trẻ rằng “ Con nặn đẹp rồi
con hãy vuốt cho quả mịn hơn nữa đi” hoặc khi trẻ đọc thơ cô khen trẻ và

download by :


khuyết khích các bạn động viên trẻ. Cơ chú ý động viên khen ngợi trẻ kịp thời
và hướng cho trẻ đến với sự chính xác của vần đề.
Ví dụ: Khi cô hỏi trẻ màu sắc của bông hoa hồng màu đỏ “ Bơng hoa có màu
gì?” nếu trẻ trả lời màu xanh tôi thường cho trẻ khác nhận xét và cơ khẳng
định lại và khuyến khích trẻ trả lời lại cho thật chính xác và cũng khơng qn
động viên trẻ tạo tâm lý thoải mãi ngay cả khi trẻ biết mình trả lời sai.
Tuy nhiên, cần phải chọn thời gian thích hợp để trẻ học làm những việc này.
Thời gian vui chơi, hoạt động khám phá là thích hợp nhất vì trẻ có thể làm từ
từ và ít căng thẳng hơn.
Ví dụ: Các hoạt động: Ngồi trời, hoạt động góc, các hoạt động khám phá hay
các tiết biểu diễn văn nghệ… 
Sự tự tin ở trẻ sẽ tăng lên mỗi khi chúng học được một kỹ năng mới hay vượt
qua một mốc quan trọng nào đó. Vì vậy cơ giáo thường xuyên có thể giúp trẻ
gây dựng sự tự tin bằng cách tạo cho chúng thật nhiều cơ hội để rèn luyện và
tập thành thục các kĩ năng mới. Tôi để cho trẻ tự do thể hiện và luôn ở bên để
động viên tinh thần của chúng, nhắc chúng tiếp tục cố gắng. Ln tỏ ra thích
thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện là chúng đã tập thành thạo một kĩ năng
mới rồi . Khen ngợi trẻ mỗi khi trẻ đạt được một mục tiêu nào đó hoặc nỗ lực
làm việc gì đó.
Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi hay ôn luyện tôi thường mời cá nhân trẻ
lên giới thiệu về bản thân và chủ đề trẻ đang học, mời trẻ lên đọc thơ hay ca

hát, mở các bản nhạc vui nhộn cho trẻ cùng vui nhảy múa theo như các Video
erobic mầm non…
Trẻ thường xuyên thực hành sẽ trở nên tiến bộ rất nhiều vì vậy tơi thường
xun chao đổi với trẻ nhằm giúp trẻ được trò chuyện với cô ở mọi lúc mọi
nơi.

download by :


Vi dụ: Giờ đón trẻ cơ trị chuyện với trẻ “ Ai đưa con đi học”, “ Sáng nay con ăn
gì”, “ Ai buộc tóc cho con đẹp thế”…Giờ trả trẻ “ Khi về nhà gặp bố mẹ con sẽ
làm gì?”, “ Con chào bà như thế nào, con chào ông như thế nào?....”
          Cô luôn phải là tấm gương cho trẻ soi vào, ở đây mỗi động tác, lời nói cử
chỉ điệu bộ của cơ cũng là những bài học cho trẻ, muốn trẻ tự tin cô giáo luôn
phải có sự sáng tạo tìm tịi đưa ra các cơ hội giáo dục cho trẻ khác nhau.
          Ví dụ: Tổ chức các trò chơi tập thể hoặc cá nhân, giúp trẻ tích cực tham
gia theo hình thức tập thể.
  Giáo viên nên khám phá những mặt mạnh, những điểm tích cực của trẻ để
khuyến khích, nâng đỡ. Tăng cường Tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi, phù hợp với
khả năng của trẻ. Giáo viên ln cần giúp trẻ hình thành mối quan hệ gắn bó
giữa trẻ này với trẻ khác, giữa trẻ với cơ giáo như vậy trong q trình học, sinh
hoạt động ở trường cùng cô và các bạn trẻ biết chia sẻ bày tỏ và phối kết hợp
cùng hoạt động vui chơi, cô tạo các hoạt động cho cô và trẻ cùng hoạt động:
cùng chơi đùa, cùng ăn uống, cùng trị chuyện với sự thân thiện và tơn trọng
trong một mơi trường an tồn và vui vẻ.
Ví dụ: Cô luôn coi những đứa trẻ là bạn trong lúc chơi, đặc biệt trong giờ chơi
hoạt động góc, trẻ phải có tâm lý được thoải mái khi chơi và phối hợp cùng cô.
Giúp trẻ biết các bầy tỏ nhu cầu:
Cô giáo luôn gần gũi với trẻ và cần kiên nhẫn chờ đợi, khích lệ trẻ bầy tỏ nhu
cầu thay vì phỏng đoán và đáp ứng ngay. Điều này sẽ giúp trẻ từ từ trở nên

một chủ thể sáng tạo, biết tự quyết định, chọn lựa thay vì chỉ có những phản
ứng máy móc, tự động, chỉ biết nhắc lại.
Ví dụ: Cô luôn chú ý đến những thái độ khác biệt của trẻ và gợi hỏi: con cần gì
nào, con thích gì, con đang tìm gì vậy, con cần cơ giúp gì khơng? nhiều trẻ
chưa thể hiện mong muốn nhu cầu của mình tơi thường hỏi những trẻ khá

download by :


hơn “ Bạn muốn gì vậy con” trẻ tự hỏi bạn và đưa ra u cầu giúp bạn từ đó
tơi cho trẻ nhắc lại mong muốn của mình, đây là một hình thức rất cần thiết
vì trẻ biết phải đưa ra những mong muốn bằng Tiếng Việt thì mới có thể chủ
động trong những lần sau
 Giúp trẻ tham gia các hoạt động vận Động:
Trong một ngày tôi luôn quan tâm đến nội dung hoạt động ngoài trời đây là
khoảng thời gian trẻ sẽ vừa chơi vừa học, bằng những hoạt động vui thú như
leo trèo, chạy nhảy vui chơi cùng cơ và các bạn… trẻ được reo vui hị hét một
cách thoải mái. Tơi ln bày các trị chơi cho trẻ cùng tham gia bằng những
hình thức đơn giản nhưng trẻ lại được chơi và trải nghiệm những từ ngữ
Tiếng Việt mới.
Ví dụ: Với trị các trị chơi dấu dép cơ cho trẻ đi tìm và chỉ hoặc nói địa điểm
cô dấu “ dép cô dấu ở đâu nhỉ?” “ Cô dấu dép ở gốc cây đào” … đây là cách
hướng dẫn trẻ chơi mà học từ mới trẻ cũng hiểu luôn ý nghĩa của những từ
mới học và chỉ những lần sau trẻ tự tìm và nói địa điểm cơ dấu một cách rõ
dàng và tương đối đầy đủ.
  Giúp trẻ biết trả lời các câu hỏi:
Giúp trẻ phát triển khả năng hình dung và tưởng tượng thơng qua các câu
hỏi gợi ý: Cái gì, ở đâu, thế nào, để làm gì, khi nào …
Nếu trẻ trả lời đúng phải khen ngợi, động viên. Nếu trẻ trả lời sai thì nhẹ
nhàng nhắc trẻ nghe thêm ý kiến của các bạn và cơ nhắc lại câu hỏi và

khuyến khích bạn khác trả lời và cho trẻ yếu nhắc lại .
Tôi chú trọng đến sự phát triển của cá nhân, thường chú ý đến những trẻ yếu
về ngôn ngữ rụt rè trong lớp đây cũng là những đối tượng được ưu tiên.
  Xây dựng mối quan hệ tốt và giúp trẻ biết chơi đùa với bạn bè

download by :


Chơi đùa là một hoạt động rất quan trọng, qua các trị chơi trẻ có thể thiết
lập mối quan hệ tốt với cô giáo và bạn bè. Ngay cả trong các hoạt động hàng
ngày cũng đưa vào những câu nói và ý tưởng như một trò chơi
 Gọi tên sự vật nhiều lần.
Bất kể lúc nào khi cho trẻ ăn, khi rửa chân tay, tôi gọi tên những đồ vật xung
quanh và chỉ cho trẻ thấy. “Đây là tivi”, “đây là chân cơ”, “đây là chân
con”… Trị chuyện với trẻ bằng những câu ngắn và đơn giản: “Các con đói rồi
hả”, “cùng đi rửa tay cô lấy cơm cho ăn nhé”… Điều này giúp trẻ nhận thức
được đồ vật, xây dựng vốn từ và nhận biết mối liên hệ giữa hành động và lời
nói.
Dạy trẻ cách nhìn, nghe và làm theo
Nhìn thẳng vào mắt trẻ để hướng dẫn trẻ nhìn vào vật rồi nhìn miệng cơ để
xem cách phát âm. Lặp đi lặp lại nhiều lần, khuyến khích nói những điều trẻ
nhìn thấy. Điều đó có nghĩa là phải làm đi làm lại. Tạo thật nhiều cơ hội để
trẻ phải nói đi nói lại cái đó nhiều lần. Đó có thể là những bài hát, những
quyển sách hay những lời chỉ dẫn. Tôi làm theo một quy tắc và mọi thứ đã trở
nên quen thuộc với trẻ và khi trẻ đã quen, chúng sẽ hiểu và cố gắng làm giống
như thế.
Biện pháp 7: Kết hợp với phụ huynh:
Đây là nội dung tôi luôn chú trọng bởi dù ít dù nhiều phụ huynh nào cũng
muốn con em mình học hành tiến bộ. Đối với những trẻ nhỏ ở nhà chưa biết
hát biết múa bằng Tiếng Việt nhưng sau một thời gian đến lớp trẻ biết hát,

đọc thơ và kể lại chuyện cho bố mẹ nghe về những bài học ở lớp bằng tiếng
phổ thông. Từ đó giáo viên ln nhận được sự phối kết hợp nhiệt tình của
phụ huynh. Tơi thường xun trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của

download by :


trẻ, đặc biệt trao đổi về khả năng nói Tiếng Việt của trẻ, và yêu cầu phụ
huynh dạy trẻ thêm Tiếng Việt ở nhà:
Vì dụ: Tơi hướng dẫn cho phụ huynh khi ăn cơm anh chị hãy chỉ cho các cháu
biết những món ăn trong gia đình, khi tắm cho cháu chỉ cho các cháu các bộ
phận trên cơ thể, khi trẻ đi học về nhắc con chào ông bà….
Tuy trẻ đến lớp với cô hàng ngày nhưng cô không thể tập trung vào mỗi cá
nhân và hiểu trẻ bằng bố mẹ. Vì vậy phối hợp với gia đình trong việc cung cấp
vốn Tiếng Việt cho trẻ lại càng tốt hơn. Qua các cuộc họp phụ huynh giáo viên
thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và đặc biệt không
quên cho  phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ
Tiếng Việt của mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng
nội quy của trường mầm non là “Tất cả mọi người khi đến trường, lớp đều
phải nói bằng Tiếng Việt” và nhà trường rất mong phụ huynh hợp tác trong
việc cung cấp Tiếng Việt cho trẻ thường xun gia đình.
Ví dụ: Khi phụ đón trẻ cơ trao đổi về nội dung bài học và gợi ý cho bố mẹ về
kiểm tra trẻ: Hôm nay cháu học làm quen với các con vật, anh chị hãy về nhà
hỏi cháu bằng tiếng dân tộc Sán Dìu và cho cháu dịch Viếng Việt xem cháu
biết nhiều không, yêu cầu phụ huynh dạy thêm cho trẻ...Từ những lời nói ấy
đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn
Tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ trong lớp có nhiều trẻ hiện
giờ nói Tiếng Việt rất thành thạo lưu lốt ngôn ngữ Tiếng Việt, biết dùng từ,
câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, khơng cịn trẻ nói câu khơng rõ nghĩa, câu
thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và

mọi người xung quanh.
Trong một buổi học trẻ được tiếp xúc với cô giáo rất nhiều nhưng chúng ta
biết phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ lại càng
tốt hơn vì vậy Ban giám hiệu nhà trường đã tiến hành cho mời các bậc phụ

download by :


huynh đến họp, thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và
đặc biệt không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học
bằng ngôn ngữ Tiếng Việt của mỗi trẻ ra sao và từ đó thống nhất với phụ
huynh xây dựng nội quy của trường mầm non là “Tất cả mọi người khi đến
trường, lớp đều phải nói bằng Tiếng việt” và nhà trường rất mong phụ huynh
hợp tác trong việc cung cấp Tiếng Việt cho trẻ thường xuyên ở nhà như: Phụ
huynh dùng Tiếng Việt để trao đổi với con em mình nhiều hơn, kèm cặp con
em nhiều hơn trong mơn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ cái,
viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo Tiếng Việt nhất
định con của phụ huynh tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp
học mầm non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã
thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn
Tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ ở trường mầm non Ngọc
Thanh A hiện nay nói thạo, nói lưu lốt ngơn ngữ Tiếng Việt, biết dùng từ,
câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, khơng cịn trẻ nói câu khơng rõ nghĩa, câu
thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và
mọi người xung quanh. Thông qua các hoạt động như vậy, tôi đã chỉ đạo tổ
trưởng chuyên môn thường xuyên kiểm tra giáo viên chủ nhiệm các lớp về
việc rèn và dạy Tiếng Việt cho trẻ.
 Kết quả áp dụng các biện pháp trên:
Qua một số biện pháp tôi tự nghiên cứu và áp dụng cung cấp Tiếng Việt vào
trường mình đã đạt được kết quả như sau: Đến nay đã có trên 95% trẻ nhận

biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng Việt. 96% trẻ biết cách tô các
nét cơ bản và tơ đúng quy trình. 100% trẻ hiểu được ngơn ngữ Tiếng Việt,
biết dùng ngôn ngữ Tiếng Việt để diễn đạt thành câu có nghĩa, trẻ nói lưu
lốt bằng ngơn ngữ Tiếng Việt. Ngoài việc học trẻ đã mạnh dạn tự tin khi
giao tiếp với cô giáo, với bạn bè lúc ở nhà cũng như lúc ở trường.

download by :


Qua q trình nghiên cứu nắm bắt đặc điểm ngơn ngữ Tiếng Việt của trẻ em
người dân tộc thiểu số.
          Đưa ra được nhiều hình thức giảng dạy linh hoạt nhằm mở rộng Tiếng
Việt cho trẻ. Bản thân có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy với đối
tượng là trẻ dân tộc thiểu số, được đánh giá cao trong việc sáng tạo linh hoạt
việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy.
Chất lượng ngôn ngữ Tiếng Việt của trẻ tăng lên rõ rệt, chất lượng các lĩnh
vực phát triển giáo dục cũng tăng cao hơn.
Giúp giáo viên nhận thức đúng đắn hoạt động dạy Tiếng Việt cho trẻ em dân
tộc thiểu số bậc học mầm non. Trẻ biết thêm được một ngôn ngữ mới, nhằm
giúp trẻ tự tin khi giao tiếp với mọi người xung quanh. Từ đó trẻ tham gia
vào các hoạt động một cách hứng thú. Tạo cơ hội mở rộng được tầm nhìn và
kiến thức cho trẻ bước vào bậc học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.  

download by :



×