Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.18 KB, 17 trang )

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến:
Mỗi mơn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ
sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách các em. Trong các môn học ở tiểu học, cùng
với mơn tiếng Việt, mơn Tốn có vị trí hết sức quan trọng bởi vì:
- Các kiến thức kỹ năng của mơn Tốn ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời
sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở
tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt mơn Tốn ở bậc Trung học.
- Mơn Tốn giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng
khơng gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có được phương pháp nhận thức
một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong học tập và
trong đời sống .
- Mơn Tốn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng
suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản,
gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập Tốn; góp
phần phát triển trí thơng minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng ứng xử và
giải quyết những tình huống nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống; nhờ đó mà hình
thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao
động mới trong xã hội hiện đại
Cũng như các mơn học khác, muốn học tốt mơn tốn lớp 5, trước hết mọi học sinh
phải có lịng say mê, hứng thú học tập. Bên cạnh đó giáo viên đặc biệt chú ý đến tâm
sinh lí của học sinh cũng như khả năng tiếp thu kiến thức của các em. Do vậy giáo viên
ngay từ những ngày đầu năm học giáo viên phải hệ thống lại các kiến thức và kĩ năng
đã học. Từ đó tạo tiền đề để các em tiếp nhận những kiến thức mới của năm học này.
Tuy nhiên trong thực tế, mỗi học sinh có trình độ nhận thức không giống nhau dẫn
đến việc tiếp thu kiến thức không đồng đều. Trong lớp được phân thành nhiều đối
tượng, trong đó cần quan tâm nhất là những học sinh chưa hoàn thành mơn học. Vì thế,
để chất lượng giảng dạy mơn Tốn được tốt, địi hỏi giáo viên đứng lớp phải quan tâm
và phải có biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng học sinh để giúp các em hoàn thành


download by :


môn học. Trong thực tế giảng dạy lớp 5, tôi đã nghiên cứu thực hiện và đã đúc kết thành
sáng kiến: “Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành mơn Tốn lớp
5”.
2. Điểm mới của sáng kiến:
Sáng kiến “Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành mơn Tốn lớp
5” x́t phát từ việc đổi mới đánh giá học sinh theo TT30/2014/TT-BGDĐT ngày
28/8/2014 về Qui định đánh giá học sinh tiểu học. Sáng kiến đưa ra những giải pháp
nhằm giúp học sinh hoàn thành môn học mà lâu nay giáo viên thường quen gọi học sinh
yếu kém. Sáng kiến có ý nghĩa thiết thực và mang tính thực tiễn cao, đáp ứng được nhu
cầu của giáo viên trong giai đoạn giáo dục hiện nay. Nú giỳp học sinh cha hoàn
thành môn toán lp 5 tự tin, tự vươn lên trong học tập, biết tự đặt ra nhiệm vụ học
tập và có khả năng tự học để hoàn thành môn học. Đồng thời đề cao tính tự chủ, tự lập
của chủ thể của học sinh, người thầy chỉ làm vai trò hướng đạo, áp dụng tính ưu việt
của mơ hình VNEN trong quá trình dạy học phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo, chủ
động của người học.
3. Phạm vi áp dụng:
Sáng kiến áp dụng trong thời gian từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015 với
đối tượng học sinh lớp 5 tôi đang dạy ở đơn vị công tác. Với sáng kiến này, tơi khơng
có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần cơng sức của mình vào
cơng tác giảng dạy học sinh, giúp các em hoàn thành môn Toán theo hướng đổi mới
đánh giá học sinh tiểu học. Tơi mong muốn sẽ có được những giải pháp hữu hiệu, bài
học kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
ở trường và trong huyện nhà. Điều này càng có ý nghĩa nếu sáng kiến có tính khả thi thì
việc giúp học sinh đạt được yêu cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng môn Toán càng đạt hiệu
quả. Học sinh càng thuận lợi bởi vì đây là môn học công cụ để giúp các em có hành
trang quý báu lên các lớp trên và trong cuộc sống của mình.


download by :


PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TIẾP SỨC HỌC SINH CHƯA HỒN THÀNH
MƠN TỐN LỚP 5:
1. Thuận lợi:
- Cơ sở vật chất của nhà trường ngày càng tăng trưởng phục vụ cho việc dạy học
đảm bảo theo đổi mới.
- Đội ngũ giáo viên phần đa trẻ, khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách
nhiệm với nhiệm vụ được phân công.
- Đa số học sinh chăm ngoan, nổ lực trong học tập. Việc đánh giá theo thông tư
30/2014/TT-BGDĐT thuận lợi cho học sinh chậm tiến bộ, các em không còn tâm lý tự
ti, mặc cảm mà có sự cố gắng vươn lên. Cùng với sự hợp tác giúp đỡ của các bạn trong
nhóm, các biện pháp tiếp sức của giáo viên các em đã có sự tiến bợ.
- Phụ huynh đã có sự nhận thức sâu sắc đến công tác giáo dục con em trên địa bàn.
2. Khó khăn:
a/Về học sinh:
- Mợt sớ học sinh khả năng tiếp thu bài còn chậm, vận dụng thực hành luyện tập còn
hạn chế nên chưa hoàn thành môn học.
- Tính tự giác của mợt sớ học sinh trong học tập chưa cao, chưa nhận thức đúng đắn
về động cơ và mục đích học tập, các em cịn ham chơi, lười học.
- Trong một lớp học có học sinh chưa hoàn thành dẫn đến tiến độ học tập cả lớp
chậm lại, giáo viên dành nhiều thời gian kèm cặp làm ảnh hưởng đến những học sinh
khác.
- Theo quy định hiện nay giáo viên không ra bài tập về nhà cho học sinh, nên việc
tự học bài ở nhà của một số học sinh hầu như khơng có, nếu có thì cũng chỉ học qua loa.
b/Về phía giáo viên:
- Giáo viên ít có kinh nghiệm trong việc vận dụng mơ hình trường học mới nên vẫn
còn lúng túng trong công tác giảng dạy. Khi lên lớp giáo viên thường quen sử dụng các

phương pháp dạy học truyền thống, việc vận dụng phương pháp đổi mới trong dạy học
vẫn chưa linh hoạt.
- Giáo viên chưa có kĩ năng đánh giá học sinh theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT.

download by :


c/Về phụ huynh học sinh
- Một số phụ huynh học sinh không quan tâm đến việc học của con em mình, phó
thác cho nhà trường và thầy cơ giáo. Do đó, các em học sinh thường khơng có ý thức
trong học tập, thậm chí các em khơng hề xem bài hay học bài ở nhà.
3. Số liệu thống kê:
Qua thời gian tích cực thực hiện cơng tác giảng dạy, phụ đạo học sinh chưa hoàn
thành. Tôi theo dõi thấy các em học sinh chưa đạt mơn Tốn ở đợt kiểm tra đầu
năm như sau:

Sĩ số

9 - 10

29

7–8

SL

%

SL


4

13,7

8

5–6

<5

%

SL

%

SL

%

27,6

10

34,4

7

24,1


Từ bảng số liệu trên ta thấy: Kiểm tra định kỳ đầu năm chỉ có 75,9% học sinh đạt
yêu cầu cơ bản trở lên còn lại 24,1% chưa đạt yêu cầu cơ bản.
4. Nguyên nhân:
4.1. Về phía phụ huynh:
Một số phụ huynh học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc đi làm ăn xa ít có
thời gian quan tâm đến việc học hành của con em mình. Bên cạnh đó một số phụ huynh
chưa nắm được nội dung chương trình sách giáo khoa mới đặc biệt là phương pháp
hướng dẫn các em học ở nhà.
4.2.Về phía học sinh:
Lứa tuổi các em cịn ham chơi hơn ham học, chưa hiểu được tầm quan trọng của
việc học. Các em đang ở lứa tuổi hiếu động khả năng chú ý tập trung không lâu. Bên
cạnh đó cịn một số em hay qn, mới dạy thì tính tốn được, giải tốn được nhưng khi
về nhà thì khơng nhớ hoặc nhớ lẫn lộn dẫn đến trình trạng tính tốn sai, giải chưa được
các dạng tốn đã học.
Một số em bị hỏng một số kiến thức, kĩ năng ở lớp trước, khả năng tiếp thu kiến
thức và hình thành kĩ năng chậm. Phương pháp học tập của một số em chưa phù hợp,
thiếu khoa học. Một số em hay lơ là thiếu tập trung, chủ quan hay tính nhẩm mà không
chịu làm ra nháp, làm xong bài không thử lại.

download by :


4.3. Về phía giáo viên:
Một số giáo viên chưa nắm thật vững những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của bài
dạy, giảng dạy cịn mang tính dàn trải, chưa theo dõi sát sao, xử lý chưa kịp thời những
biểu hiện sa sút của học sinh. Khi phát hiện học sinh hỏng kiến thức giáo viên không
dám mạnh dạn dừng bài dạy để giúp các em nắm lại kiến thức. Vì vậy các em khơng
hiểu bài, dễ mặc cảm, chán nản, khơng có hứng thú trong học tập.
Giáo viên khi đứng lớp có vận dụng đổi mới phương pháp nhưng chưa đạt hiệu
quả cao vì giáo viên cịn ảnh hưởng phần nào thói quen nói nhiều hay lặp lại câu trả lời

của học sinh; nhận xét thay cho học sinh. Giáo viên chưa tin tưởng vào khả năng tự học
của các em nên chưa tạo nhiều cơ hội cho các em tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức, hợp
tác nhóm. Chính vì lẽ đó mà cịn hạn chế khả năng phát triển của học sinh.
Tổ chức giúp đỡ, tiếp sức cho các em cịn chung chung khơng có biện pháp cụ thể
cho từng đối tượng học sinh nên số lượng học sinh chưa hoàn thành mơn tốn còn
khơng ít . Giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học
sinh chưa đạt. Chưa tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực,
chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng
học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa hồn thành mơn
học mà bản thân nhận thấy trong q trình làm cơng tác dạy học. Qua việc phân tích
những ngun nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, giúp đỡ tiếp sức
cho các em. Trong phạm vi của đề tài, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh
chưa hồn thành mơn tốn lớp 5.

download by :


II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Biện pháp thứ nhất: Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở
ngại về mặt tâm lí .
Việc thua kém bạn bè trong học tập làm cho các em gặp những khó khăn về mặt
tâm lí như tự ti, chán học. Vì vậy giúp các em khắc phục vượt qua các khó khăn trở
ngại về tâm lí này sẽ tạo điều kiện cho các em vươn lên đạt kết quả trong học tập.
Để làm tốt điều đó, tơi ln gần gũi, chăm sóc uốn nắn các em, tạo cho các em
cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vì lứa tuổi các em là hiếu động, khả
năng tập trung chú ý tuy đã tiến bộ hơn các lớp trước nhưng vẫn dễ bị phân tán. Thật là
một cực hình nếu các em phải ngồi im khơng nói, khơng cựa quậy. Vì vậy, tơi cần
hướng tính năng động của các em vào hoạt động có mục đích để giờ học đạt hiệu quả.
Trong giảng dạy trước đây, chủ yếu tôi đặt câu hỏi cho từng học sinh trả lời,

không cho trả lời tập thể, hạn chế đồng thanh. Vì vậy một số em khơng được gọi thì
khơng có việc để làm. Những em này khơng tập trung suy nghĩ, khơng khí lớp học
không sôi nổi, cho nên tôi nghĩ phải làm sao cho các em vui mà học, học mà chơi, vừa
học vừa chơi. Chơi là hình thức, vui là tính chất, học là mục đích cuối cùng. Muốn được
như vậy thì hình thức cung cấp kiến thức, kĩ năng cho học sinh phải phong phú khơng
chỉ khơ khan: cơ giảng trị nghe, cơ hỏi trị trả lời, mà cần phải tổ chức cho từng học
sinh được tham gia hoạt động.
Cụ thể ở bài Mi-li-mét vng. Bảng đơn vị đo diện tích( Trang 27-SGK): . Thay
vì tơi đặt câu hỏi cho học sinh nêu những đơn vị đo diện tích đã học để hình thành bảng
đơn vị đo diện tích cho học sinh, tôi đã chuyển cái mệnh lệnh khô khan ấy bằng trị chơi
truyền điện: đầu tiên tơi nêu một đơn vị đo diện tích rồi gọi một học sinh khác trả lời,
em này có nhiệm vụ nêu tiếp một đơn vị đo diện tích nhưng khơng được trùng với đơn
vị trước và không được chậm quá 5 giây. Nếu nêu xong em có quyền gọi bạn khác. Cứ
như thế cho đến lúc tôi thấy đủ số đơn vị ở bảng ôn thì dừng lại. Hình thức chơi này,
tuy chỉ từng em nói nhưng vẫn gây được hào hứng và sơi nổi vì tất cả các em đều trong
tư thế chuẩn bị đón nhận luồng điện truyền đến. Các em cịn hứng thú vì đây khơng
phải là lệnh của cơ giáo mà là của bạn bè và bản thân các em được gọi bạn em sau khi
trả lời đúng.

download by :


Để khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến ngoài việc khen ngợi tuyên
dương những ý đúng, ý sáng tạo, tôi cũng không bác bỏ những ý kiến chưa hợp lí của
các em một cách thơ bạo mà tơi ln nhẹ nhàng, hóm hỉnh dẫn dắt các em phát biểu vào
trọng tâm vấn đề. Còn đối với những học sinh chưa đạt hay nhút nhát tôi vẫn chấp nhận
những ý kiến mà các em lặp lại của bạn hay của cô. Tôi thiết nghĩ đối với học sinh tiểu
học giáo viên nên khen ngợi kịp thời khi các em hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời động
viên các em chưa hồn thành nhiệm vụ. Khơng nên trách phạt, chê bai các em mà cần
động viên khuyến khích là chính.

Việc tạo cho các em một khơng khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi thoải mái tạo cho
các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui với nhiều trị chơi học tập. Điều
đó đã góp phần quan trọng giúp các em khắc phục vượt qua những khó khăn trở ngại về
mặt tâm lí.
Biện pháp thứ hai: Hình thành khả năng tự học ở học sinh.
Theo cách dạy truyền thống các em đến trường chỉ nhận được lượng kiến thức
duy nhất từ thầy cô. Những kết luận bài học đều do thầy cô cung cấp. Cách dạy học như
thế tạo cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Chính vì thế chưa hình
thành khả năng tự học ở học sinh.
Do đó, muốn hình thành cho học sinh kĩ năng tự học thì tơi phải lựa chọn, phối
hợp nhiều hình thức giảng dạy như: cá nhân, nhóm, cả lớp. Các em được thực sự cùng
nhau trao đổi, tìm tịi khám phá kiến thức qua các hoạt đợng học tập để tìm ra lời giải
hoặc để hiểu bài; chỗ nào chưa rõ thì hỏi cơ giáo hoặc bạn trong nhóm để có thêm gợi ý
giải thích…HS tiến bộ rõ về sự tự tin cũng như mạnh dạn hơn trong giao tiếp; các em
có sự chia sẻ giúp đỡ nhau trong học tập, kĩ năng tự học và tự đánh giá được nâng lên;
các em có cơ hội phát biểu, nêu vấn đề còn thắc mắc và hiểu được bài học. Đặc biệt
chú trọng đến phương pháp dạy học nêu vấn đề để các em tìm cách giải quyết, với học
sinh còn chậm, giáo viên tiếp sức gợi mở để tìm ra phương án.
Tôi phải chăm chút từng đối tượng học sinh nhất là học sinh chưa hoàn thành theo
hướng cá thể hóa dạy học. Tơi thường xun đi đến từng nhóm, từng học sinh để giúp
đỡ các em, mối thân thiện sẽ hình thành từ đây và các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ,
hiểu biết của mình với giáo viên. Tôi luôn yêu cầu cao đối với bản thân và xác định các

download by :


yếu tố quyết định sự thành công của giờ học là phương pháp dạy của người thầy và
cách học của trò.
Chẳng hạn, dạy bài Diện tích hình tam giác:
GV yêu cầu HS lấy ra 2 hình tam giác bằng nhau, cắt 1 hình tam giác theo một

đường cao rồi ghép lại thành một hình chữ nhật
Đường cắt

1

E

A
1

B
2

2
D

H

C

-Yêu cầu HS so sánh diện tích một hình tam giác với diện tích hình chữ nhật vừa
tạo ra (HS nhận ra diện tích hình tam giác bằng 1/2 diện tích hình chữ nhật),
- u cầu HS nhắc lại cách tính diện tích hình chữ nhật, so sánh cạnh đáy hình
tam giác với chiều dài hình chữ nhật, chiều cao hình tam giác với chiều rộng hình chữ
nhật.
-Từ cách tính diện tích hình chữ nhật suy ra cách tính diện tích hình tam giác.
Sau bước này GV mới cho HS rút ra công thức tính diện tích hình tam giác
S
=


axh
2

Phải tạo khơng khí lớp học sinh động từ khâu giới thiệu bài, hình thành bài mới
như thế nào để lôi cuốn các em tham gia hoạt động một cách tích cực.
Tơi cũng rèn cho các em biết cách sắp xếp và sử dụng đồ dùng học tập như thế
nào cho nhanh, chính xác. Tơi luôn nghiên cứu bài dạy đề ra mục tiêu cho sát, rõ về
kiến thức, kĩ năng, thái độ không chung chung quá nặng so với trình độ học sinh. Xây
dựng cho mình kế hoạch bài dạy sát với trình độ của học sinh, làm sao cho tất cả học
sinh đều làm việc như vậy các em sẽ tập trung chú ý vào bài giảng của thầy cô. Đầu tiết
học tôi thường kiểm tra kiến thức cũ có liên quan đến bài mới rồi từ đó dần dắt vào bài
mới để các em dễ nắm được bài.
Biện pháp thứ ba: Kiểm tra đánh giá mức độ kiến thức ở các lớp dưới, có kế
hoạch bổ sung những kiến thức mà các em bị hỏng.

download by :


Kiến thức các lớp dưới là nền tảng để tiếp thu các kiến thức lớp trên. Do vậy tôi đã
tiến hành kiểm tra, phân loại đối tượng học sinh, lên kế hoách bổ sung các kiến thức
liên quan ở các lớp dưới. Các kiến thức cần ôn tập bổ sung tơi chia làm các nội dung
sau:
- Kĩ năng tính tốn.

- Kĩ năng đổi đơn vị đo.

- Các quy tắc, công thức tính chu vi diện tích các hình đã học.
- Kĩ năng giải các dạng tốn điển hình...
Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi thường xuyên theo dõi kết quả học tập của
các em với nhiều hình thức kiểm tra để nắm được số lượng học sinh chưa hoàn thành

mơn tốn. Từ đó có phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho thích hợp đối với từng đối
tượng. Nếu giáo viên khơng phát hiện kịp thời thì các em dần dần hỏng kiến thức rồi
các em sẽ chán học.
Biện pháp thứ tư: Chia đối tượng học sinh chưa hoàn thành ra từng nhóm
nhỏ có đặc điểm gần giống nhau.
Sau khi nắm được đối tượng học sinh chưa hồn thành mơn Tốn, tơi khơng áp
dụng cách giúp đỡ, tiếp sức một cách chung chung cho tất cả các đối tượng mà tơi tiến
hành phân chia các em ra thành nhiều nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau và có
phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho từng nhóm.
- Nhóm 1: Học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học.
Các em này có khả năng tiếp thu được kiến thức. Nhưng các em cịn ham chơi và
hiếu động nên khơng tập trung trong giờ học dẫn đến các em chưa nắm được kiến thức.
- Nhóm 2: Học sinh chưa biết cách giải bài tốn có lời văn
Các em này có khả năng tính tốn được nhưng kĩ năng giải tốn có lời văn còn
hạn chế hoặc còn nhầm lẫn giữa các dạng tốn.
- Nhóm 3: Học sinh tính tốn chậm.
Ngun nhân dẫn đến tình trạng này là do tư duy các em phát triển chậm, bị
hỏng các kiến thức, kĩ năng của các lớp trước, không nắm được quy tắc thực hiện tính,
quên bảng cửu chương...
Biện pháp thứ năm: Giáo viên lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành
giúp đỡ,tiếp sức đới với từng nhóm nhỏ:

download by :


a/ Đối với nhóm 1: Các em lơ là thiếu tập trung.
Để các em có ý thức tốt tập trung nghe giảng, ở giờ học trên lớp giáo viên cần
thường xuyên nhắc nhở quan tâm đến các em, gọi các em phát biểu, làm bài với câu
hỏi, yêu cầu vừa sức với các em. Cần động viên khen ngợi khi thấy các em có tiến bộ.
Bên cạnh đó giáo viên cần tạo cho khơng khí lớp học thoải mái bằng các hình thức trị

chơi, câu đố có liên quan đến bài học.
Khi dạy bài “Mét khối” giáo viên có thể cho học sinh chơi trị chơi Rung chng
vàng ở bài tập 2 (a.Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là đề-xi-mét khối:
1cm3 ; 5,216m3; 13,8m3; 0,22m3 .
b. Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là xăng-ti-mét-khối:
1dm3; 1,969dm3;

1
dm3; 19,54dm3 )
4

Học sinh suy nghĩ rồi ghi kết quả vào bảng con, giáo viên nhận xét khen ngợi
những học sinh giải đúng.
Đến cuối tiết học tôi quan tâm đến đối tượng này xem các em có nắm được kiến
thức hay chưa? Nếu chưa nắm được tôi cần chú ý nhiều hơn ở tiết ôn luyện cho đến khi
các em nắm được kiến thức mới thôi. Dần dần sẽ thúc đẩy được động cơ học tập của
các em, nếu chúng ta không quan tâm, các em sẽ chán học dẫn đến không nắm được
kiến thức.
Vào các tiết ôn luyện ở cuối mỗi mạch kiến thức tơi thường tổ chức cho các em
chơi các trị chơi mà các em thích như trị chơi hái hoa dân chủ đểgiúp các em ơn tập
và hệ thống hố lại kiến thức đã học.Trong trị chơi này mỗi bơng hoa tơi ghi tên một
quy tắc tính đã học. Sau đó cho một số em lên bảng hái và nêu to cho cả lớp nghe quy
tắc tính có tên trong bơng hoa mà mình đã hái. Giáo viên nhận xét khen ngợi những em
nêu đúng động viên khuyến khích những em nêu chưa được về ôn lại và cố gắng ở lần
sau.
b/ Đối với nhóm 2: Học sinh hạn chế giải bài tốn có lời văn
Để khắc phục được tình trạng này tôi cần phải lưu ý các em nhiều hơn trong hoạt
động giải tốn có lời văn. Ngay từ những bài đầu cần tập cho các em cách phân tích bài
tốn chỉ ra những yếu tố bài tốn đã cho và những yếu tố cần phải tìm và mối quan hệ


download by :


giữa các yếu tố này, từ đó hướng dẫn các em lập kế hoạch giải bài toán một cách khoa
học, dễ hiểu. Nếu làm tốt bước này ngay từ đầu thì khi gặp những bài tốn có lời văn cơ
bản các em có thể giải một cách thuận lợi hơn.
* Với dạng bài tập này học sinh thường mắc phải những sai lầm sau:
+ Một số em không hiểu đề bài, đọc đề tốn mà khơng tóm tắt được bài tốn cho
biết gì? Bài tốn u cầu tìm gì? (do đề tốn dài, thực lực của một số em cịn yếu)
+ Một số em khơng biết phân tích bài tốn theo hướng đi lên, từ cái cần tìm đến
cái đã cho để lập kế hoạch giải tốn.
+Học sinh khơng nắm được mối liên hệ của các phép tính trong một bài tốn giải.
Có những em tìm ra được điều kiện để giải bài tốn song lại khơng biết sử dụng nó cho
bước tiếp theo mà chỉ dựa vào yếu tố bài toán cho phần đầu, giải một phần bài toán theo
qn tính (ví dụ: thấy hình chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng thì tính diện tích, hay
hình hộp chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng và chiều cao thì tính thể tích) rồi bỏ ngõ bài
tốn.
+ Nhiều em biết các bước làm song việc vận dụng các kiến thức thực tế cũng như
cách giải các dạng tốn điển hình vào một phần của bài tốn cịn nhiều lúng túng(do các
em thiếu kiến thức thực tế, việc vận dụng một cách tổng hợp nhiều kiến thức trong một
bài toán hạn chế).
* Biện pháp khắc phục:
+ Hướng dẫn HS đọc kĩ đề bài, tóm tắt bài tốn, nắm chắc những dữ liệu bài tốn
cho, những u cầu cần tìm.
+ Phân tích bài tốn theo hướng đi lên, muốn có cái cần tìm này thì cần phải biết
thêm cái gì, và để tìm cái tiếp theo phải làm như thế nào, cần sử dụng dạng toán nào để
giải quyết. Cứ như vậy cho đến khi định hướng được cách giải bài toán đó.
+ Lập kế hoạch giải bài tốn
+ Đối chiếu các đơn vị đo xem đã phù hợp chưa, đổi đơn vị đo nếu có.
+ Trình bày bài giải.

Ví dụ: Hướng dẫn HS giải bài toán sau:

download by :


Một bể nước dạng hình hộp chữ nhật có kích thước trong lòng bể là: chiều dài 2m,
chiều rộng 1,5m và chiều cao 1m. Khi bể khơng có nước, người ta mở vòi cho chảy vào
bể, mỗi giờ được 0,5m3 . Hỏi sau mấy giờ bể sẽ đầy nước?
-Đầu tiên cho HS đọc kĩ đề tốn( ít nhất 3 lần)
-Cho HS tóm tắt bằng cách chỉ ra những dữ liệu bài tốn cho, những u cầu cần tìm.
+Hướng dẫn HS phân tích:
Hỏi HS: -Nếu cứ mỗi giờ vịi chảy được 0,5m 3, muốn biết sau mấy giờ vòi chảy đầy bể
cần biết gì? (Cần biết lượng nước có trong bể).
Muốn biết lượng nước trong bể cần tính gì? ( thể tích của bể)
-Nêu cách tính thể tích của hình hộp chữ nhật? ( Lấy chiều dài nhân với chiều rộng rồi
nhân với chiều cao, cùng đơn vị đo)
-Nhắc HS lưu ý các số đo phải cùng một đơn vị.
+Hướng dẫn HS lập kế hoạch giải:
Gọi HS nêu các bước giải:
-Dựa vào phân tích bài tốn, theo em bước 1 cần tìm gì? (thể tích của bể )
-Khi đã biết thể tích của bể bước tiếp theo em tính gì ? (Số giờ để vịi chảy đầy bể)
GV chốt: B1: Tính thể tích của bể.
B2: Tính số giờ để vịi chảy đầy bể.
Chẳng hạn trong tiết ôn luyện tuần 21 khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 2:
Một người thợ gị một cái thùng tơn khơng nắp dạng hình hộp chữ nhật có chiều
dài 6dm, chiều rộng 4dm và chiều cao 9dm. Tính diện tích tơn dùng để làm
thùng( khơng tính mép hàn) (SGK trang 110) tơi u cầu các em phân tích, tóm tắt bài
tốn bằng cách đưa ra các câu hỏi:
- Bài tốn cho biết gì? ( Bài tốn cho biết một cái thùng tơn khơng nắp có chiều dài
6dm, chiều rộng 4dm, chiều cao 9dm

- Bài toán u cầu gì? ( Bài tốn u cầu tính diện tích tơn dùng để làm thùng?)
- Thùng khơng nắp thì có mấy mặt? ( Thùng khơng nắp có 5 mặt bao gồm 4 mặt
bên và 1 mặt đáy.))
Sau đó tơi tiếp tục đặt câu hỏi để giúp các em lập kế hoạch giải tốn theo mơ hình
phân tích bài tốn như sau:

download by :


Giáo viên hỏi:

Học sinh trả lời:

Có diện tích xung quanh rồi, ta
cần tính thêm yếu tố nào nữa?

- Tính diện tích một mặt đáy thùng tơn

- Muốn tính diện tích tơn làm thùng

- Tính diện tích xung quanh thùng tơn

Trước hết ta phải tính cái gì?
-Bài tốn u cầu làm gì?

- Tính diện tích tơn dùng để làm
thùng

Từ sơ đồ trên tôi yêu cầu học sinh giải theo thứ tự từng bước từ trên xuống. ( Tính
DT một mặt đáy thùng tôn- Tính DT xung quanh thùng tôn- Tính DT tôn dùng để làm

thùng tôn đó.
Với đối tượng học sinh chưa hoàn thành nếu các em không giải được các bài tốn
hợp thì GV tách bài tốn đó ra làm hai hoặc ba bài toán đơn, cho HS giải từng bài tốn
đơn rồi sau đó gộp các bài tốn đơn thành một bài toán hợp và yêu cầu HS giải.
Trong các tiết ơn luyện có dạng tốn giải tơi cũng yêu cầu các em tự tóm tắt và lập
sơ đồ như thế, sau khi các em lập xong sơ đồ tôi sẽ xem xét chỉnh sửa (nếu cần thiết).
Cứ làm kiên trì như thế các em sẽ nắm được cách giải các bài tốn có lời văn và giải
một cách thành thạo.
c/ Đối với nhóm 3: Học sinh tính tốn chậm.
Đây là một trong những đối tượng tương đối khó, giáo viên cần phải tốn nhiều
thời gian và công sức nhất, khi học chính khóa cũng như lúc giúp đỡ, tiếp sức thêm.
Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hóa kiến thức kỹ năng cho các
em. Khi chưa nắm rõ kiến thức các em thường ghi nhớ một cách máy móc. Dần dần
giúp các em nắm chắc các quy tắc tính, các bước tính khi thực hiện. Bên cạnh đó giáo
viên cần khéo léo sắp xếp cho các em học sinh yếu ngồi cạnh một học sinh khá tạo điều
kiện cho các em có thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Sự có mặt kịp thời của giáo viên
trước những khó khăn của học sinh yếu khi làm bài có tác dụng nâng cao niềm tin cho
các em trong học tập.

download by :


Trong tiết học, giáo viên cần tạo điều kiện cho các em phát biểu nhiều lần bằng
cách nêu những câu hỏi, đưa những bài tập vừa sức các em làm được để tạo niềm tin
trong học tập cho các em đã làm được những bài tập đó, giáo viên nên khen ngợi kip
thời và tăng dần bài tập ở mức học sinh trung bình có thể làm được. Như vậy là tôi đã
giao việc cho các em từ mức dễ đến mức vừa sức.
Đối với các tiết ôn luyện của mỗi tuần tơi thường đưa ra các bài tập có dạng tương
tự nhau để các em luyện cho quen dạng bài. Sau mỗi mạch kiến thức tơi lại hệ thống
hố lại các kiến thức cơ bản để các em dễ nhớ. Đối với những bài có kiến thức dễ lẫn

sau khi các em đa năm được từng dạng tôi sẽ ra mỗi bài tập ở mỗi dạng yêu cầu các em
làm rồi giúp các em rút ra điểm khác nhau của mỗi bài để các em khắc sâu và ghi nhớ
cách làm của mỗi dạng.
Ví dụ: Khi dạy phép chia số thập phân là phép tính mà các em thường sai nhiều,
bởi đối với từng dạng bài thì có cách thực hiện khác nhau.
Cách khắc phục là khi ôn luyện, tiếp sức tôi cho các em làm cùng lúc cả 4 dạng:
Chia một số thập phân cho một số tự nhiên, chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên
mà thương tìm được là một số thập phân, chia một số tự nhiên cho một số thập phân,
chia một số thập phân cho một số thập phân để dễ dàng rèn kĩ năng tính và nhấn mạnh
sự khác biệt. Cụ thể:
Đặt tính rồi tính: 5,28 : 4;

882 : 36;

702 : 72;

8,216 : 5,2

Đối với dạng toán về tỉ số phần trăm các em cũng dễ lẫn giữa dạng 2 và dạng 3.
Để khắc phục tôi cũng làm tương tự cho các em làm cùng lúc hai dạng bài này chẳng
hạn: “tìm 20% của 100” và “ 20% của một số là 100, tìm số đó?”
Khi giúp đỡ tiếp sức cho nhóm này tơi đặc biệt rèn cho các em kĩ năng tính tốn,
bởi có tính tốn được thì các em mới có thể làm được các dạng tốn khác. Cụ thể tơi sẽ
giúp các em thực hiện đặt tính, sau đó thực hiện tính. Khi các em đã tính được kết quả
các phép tính mà tơi đưa ra, tơi sẽ hướng dẫn các em cách thử lại kết quả đó để các em
tự kiểm tra xem mình đã làm đúng chưa.
Biện pháp thứ sáu: Phối kết hợp với cha mẹ học sinh.
Sau một thời gian giảng dạy, tôi nắm được một số học sinh chưa hồn thành mơn
Tốn của lớp mình. Ngồi việc họp tất cả cha mẹ phụ huynh học sinh, tôi tiến hành mời


download by :


cha mẹ học sinh theo từng thời điểm của từng nhóm để trao đổi cặn kẽ về đặc điểm của
từng nhóm học sinh. Từ việc trao đổi từng nhóm riêng lẻ tơi và phụ huynh học sinh có
điều kiện bàn bạc để tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những hạn chế của các em.
Hàng tháng tôi thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để báo cáo kết quả
học tập cũng như những biểu hiện thất thường của học sinh để cho phụ huynh nắm mà
có biện pháp cụ thể đối với các em.
Biện pháp thứ bảy: Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, tơi ln động viên, khuyến khích học sinh. Đặc biệt quan
tâm đến sự tiến bộ của đối tượng học sinh chưa hoàn thành, trân trọng sự tiến bộ của
các em dù là rất ít. Sử dụng các hình thức khen thưởng như: Khen trước lớp, khen trước
tồn trường. Ngồi ra ở lớp, tơi cịn lập quỹ khen thưởng, trích quỹ thưởng cho những
học sinh có sự tiến bộ rõ rệt tháng sau hơn tháng trước. Trong năm học này, việc thực
hiện đánh giá học sinh theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT mang tính nhân văn sâu sắc.
Các em có cơ hội được nhà trường khen thưởng, đó là động lực lớn thúc đẩy sự nổ lực
phấn đấu vươn lên ở học sinh.
Không những thế, tôi luôn động viên gia đình học sinh đặt mục tiêu khen thưởng ở
nhà và theo dõi sự tiến bộ của con em để khen kịp thời.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho các em
chưa hồn thành mơn Tốn của lớp mình phụ trách, tơi nhận thấy các em có tiến bộ rõ
rệt. Đa số các em biết cách tính tốn và tỉ lệ các em thực hiện tính đúng kết quả các
phép tính mà giáo viên đưa ra là rất cao. Đa số các em đã biết cách giải những bài tốn
có lời văn cơ bản. Những em hay lơ là thiếu tập trung trong giờ học nay các em đã hào
hứng tham gia một cách sôi nổi, càng ngày các em chưa hồn thành mơn học thể hiện rõ
nét tiến bộ của mình.
Theo thống kê kết quả bài kiểm tra định kì cuối học kỳ I, năm học 2014- 2015 như
sau:


Sĩ số

Điểm 9 - 10

Điểm 7 – 8

Điểm 5 - 6

download by :

Điểm < 5


29

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

17

58,6

6

20,7

6

20,7

0

0

Từ các bảng số liệu trên cho ta thấy qua nghiên cứu và thực hiện số học sinh đạt
yêu cầu cơ bản tăng từ 75,9 % lên 100% , không có học sinh chưa hoàn thành môn
Toán ( giảm 21,1% so với đầu năm). Đặc biệt các em rất tự tin, hứng thú trong học tập.
Điều này cho ta thấy một số biện pháp giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hồn thành
mơn Tốn đã mang lại kết quả tương đối khả quan. Nhiều em vào đầu năm học rất nhút
nhát hay trốn học nay em có tiến bộ rất nhiều có thể tự học được bài.
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Việc nghiên cứu những biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hồn
thành mơn Tốn ở trong nhà trường có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác nâng cao
chất lượng dạy học. Qua thời gian thực hiện, tôi rút ra bài học kinh nghiệm cho bản
thân, đó là:

Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí. Giáo
viên phải tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, ham thích học tốn
Phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả năng tự học
của học sinh.
Kiểm tra đánh giá mức độ kiến thức ở các lớp dưới, có kế hoạch bổ sung những
kiến thức mà các em bị hỏng.
Phân chia đối tượng học sinh yếu ra từng nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau.
Giáo viên lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành giúp đỡ, tiếp sức đới với từng
nhóm nhỏ.
Phải thường xuyên kết hợp với cha mẹ của các em trong quá trình giúp đỡ học sinh
chư hoàn thành.
Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh đúng mức, kịp thời.
2. Những kiến nghị đề xuất: Để duy trì được kết quả và áp dụng dạy học trong những
năm tiếp theo, tơi có một số kiến nghị như sau :

download by :


- Về phía phụ huynh: Cần quan tâm đến việc học của con em, ngay từ đầu năm học
các bậc phụ huynh phải giúp các em hình thành thói quen và nề nếp tự học ở nhà. Nhắc
nhở con em đến lớp cần chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập, sách vở để các em có điều
kiện học tốt .
-Tạo mọi điều kiện để con em đi học chuyên cần, thường xuyên trao đổi với giáo
viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình. Đặc biệt cha mẹ học
sinh thực sự vào cuộc tham gia giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện và đánh giá con em
mình.
- Về phía giáo viên: Phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí
vui để học giúp các em chưa hồn thành u thích mơn học. Vận dụng linh hoạt các
hình thức, phương pháp dạy học tích cực để các em có cơ hội phát triển kiến thức của
mình. Cần tăng cường rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động học tập.

- Về phía nhà trường: Tăng cường hơn nữa việc tổ chức các chuyên đề, hội thảo về
công tác phụ đạo, tiếp sức giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn học.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương
châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẻ
của bạn bè đồng nghiệp, bản thân ln hồn thành tốt việc giúp đỡ, tiếp sức cho học
sinh chưa hồn thành trong mơn Toán. Để vận dụng vào thực tế dạy học rộng rãi trong
các trường học, kính mong các cấp lãnh đạo, q thầy cơ đóng góp ý kiến để sáng kiến
kinh nghiệm đầy đủ hơn nhằm mang tính khả thi cao.

download by :



×