Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN một số phương pháp dạy và rèn kỹ năng đọc hiểu tiếng anh cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.97 KB, 18 trang )

SKKN Một số phương pháp dạy và rèn kỹ
năng đọc hiểu Tiếng Anh cho học sinh THCS
         I. Lời giới thiệu.
          Môn Tiếng Anh là một trong những môn học đặc thù đối với học sinh
bậc THCS.  Trong xu thế hội nhập Quốc tế, Tiếng Anh đóng vai trị ngày càng
quan trọng hơn với tư cách là một phương tiện giao tiếp và là một nhịp cầu
tri thức. Ngày nay, rất nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng Tiếng Anh như là
ngôn ngữ thứ hai và đưa môn Tiếng Anh vào chương trình giảng dạy ở các
bậc học. Khi Tiếng Anh đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của nó trong
trường học, thì việc nâng cao chất lượng dạy và học là vấn đề quan trọng
hàng đầu. Việc học và dạy môn Tiếng Anh ở các trường phổ thông nói chung
và các trường THCS nói riêng càng khơng thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, khó
khăn trước mắt mà mơn học yêu cầu. Làm thế nào để học sinh có thể lĩnh hội
được toàn bộ kiến thức và sử dụng nó một cách thành thạo đang là vấn đề
mà giáo viên chúng ta quan tâm.
Chúng ta đều biết rằng, học Tiếng Anh không đơn thuần chỉ là một ngôn ngữ
mà muốn sử dụng thành thạo ngơn ngữ đó thì người học phải rèn luyện cả
bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết. Sau khi chương trình Tiếng Anh được
biên soạn lại, kỹ năng đọc được rèn luyện riêng rẽ, việc đổi mới phương pháp
trong dạy đọc được yêu cầu, nhiều đề tài mới lạ được đề cập đến, số lượng từ
vựng cũng nhiều lên, phương pháp cũ khơng cịn phù hợp. Chính vì vậy, giáo
viên là người giữ vai trị quan trọng trong việc dạy như thế nào để vừa đáp
ứng được yêu cầu thực tế, vừa nâng cao chất lượng kỹ năng đọc hiểu của các
em.

download by :


Đọc hiểu (Reading) là phần quy định trong chương trình dạy tiếng Anh ở 
trường THCS. Nó giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong việc dạy và học ngoại
ngữ. Như chúng ta đã biết, từ đề kiểm tra một tiết cho đến đề thi học kỳ bao


giờ cũng có phần đọc hiểu.
          Ngay từ lớp 6, học sinh đã được làm quen với bài đọc ngắn dễ hiểu. Khi
chương trình được nâng cao, kỹ năng đọc càng được yêu cầu khắt khe hơn.
Nếu giáo viên khơng có phương pháp giảng dạy phù hợp thì sẽ khơng truyền
đạt hết nội dung của bài dạy. Hơn nữa, những bài đọc ở chương trình lớp 8, 9
thường dài và nhiều từ mới - rất khó cho học sinh khi học, nên giáo viên phải
chuẩn bị bài kỹ trước khi dạy. Việc rèn kỹ năng đọc hiểu rất cần thiết nên tôi
đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Một số phương pháp dạy và rèn kỹ năng đọc hiểu
Tiếng Anh cho học sinh THCS”.
II. Nội dung
           Khi học Tiếng Anh, thông thường các em học sinh phải thực hiện đầy đủ
bốn kỹ năng cần thiết đó là: Nghe, Nói, Đọc và Viết. Trong bốn kỹ năng thì đọc
hiểu  là mợt kỹ năng rất quan trọng. Vì thế trong quá trình giảng dạy, giáo
viên cần phải chú ý rèn cho học sinh kỹ năng này. Nhưng dạy và rèn luyện
như thế nào và dùng thủ thuật ra sao để giúp các em học tốt kỹ năng này là
vấn đề mà bản thân tôi đặc biệt quan tâm và tôi đã viết sáng kiến này.
          1. Dạy kỹ năng đọc phải áp dụng vào thực tế :
          - Đọc là kỹ năng quan trọng, cần thiết trong việc dạy và học ngoại  ngữ
ở trường THCS. Trong giờ đọc, học sinh đọc để lấy thông tin, để kiểm tra lại
các dữ kiện từ đó tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hoặc làm sáng tỏ một
vấn đề nào đó. Nếu khơng đọc được thì học sinh sẽ khó tiếp thu và khó ghi
nhớ những dữ kiện thông tin lâu dài.
           - Trong cuộc sống hàng ngày, học sinh lưu trữ những thông tin quan
trọng qua việc dạy chữ viết, từ việc học theo sách vở trong nhà trường đến

download by :


việc đọc những thông tin ngắn qua quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn sử dụng
thơng tin máy móc. Dạy đọc có nghĩa là người dạy phải làm thế nào để đưa

người học nhận ra ý nghĩa và nội dung của thông tin.
          - Việc dạy đọc thành thạo một câu hoặc một bài văn Tiếng Anh là một
việc khó đối với nhiều giáo viên khi mà đối tượng học sinh của chúng ta
khơng đồng đều vì từ Tiếng Anh khơng thể đánh vần như Tiếng Việt.
          - Ngồi ra, giáo viên nên đưa hoạt động đọc vào sau hoạt động nghe
hoặc nói  để củng cố cho những hoạt động này.
          - Giáo viên cần phải chuẩn bị tốt bài dạy và áp dụng ngay vào việc thực
hành. Nội dung bài dạy cần phải chuẩn xác về ngôn ngữ, đa dạng về thể loại
và có nội dung liên quan đến bài học để học sinh thấy hứng thú với môn học.
Yêu cầu thực hiện của các bài đọc cần chú ý nhấn mạnh vào việc rèn kỹ năng
đọc và thảo luận mở rộng đề tài của bài đọc.
2. Kỹ năng dạy đọc cần kết hợp nhiều yếu tố.
          - Theo một số chuyên gia như: Colvin & Root (1981), Haverson & Haynes
(1982), MeGee (1977) Thonis (1970) …. Giáo viên cần phải chú ý các yếu tố
ảnh hưởng đến sự thành công của việc dạy đọc cho những người mới bắt đầu
học như:
- Khả năng tập trung của học sinh trong thời gian tối thiểu.
- Khả năng đọc hiểu lời hướng dẫn.
- Khả năng đọc một mình và với người khác.
- Khả năng quan hệ với những người đồng học.
- Khả năng nêu tên từng mục trong hình.
- Khả năng đọc từ trái sang phải và đọc từ trên xuống dưới.
- Khả năng sắp xếp, phân loại. (giống nhau, khác nhau)

download by :


- Khả năng thể hiện các kỹ năng vận động như sự khéo léo, vụng về.
- Khả năng theo dõi một dịng chữ in dài.
- Khả năng hiểu và hình thành các ký hiệu.

- Khả năng theo dõi những biểu hiện qua cử chỉ, nét mặt, thân hình.
- Khả năng nhận ra ý tưởng do tranh thể hiện một vật thực nào đó.
- Khả năng nhận ra các ký hiệu âm thanh và hình ảnh vv…..
          Những khả năng này HS có thể đạt được trong quá trình rèn
luyện qua các hoạt động đọc và viết.
          Ngồi ra, cịn có 8 yếu tố khác tác động đến việc dạy đọc Tiếng Anh như:
          2.1. Học sinh có trình độ học vấn phổ thơng nhất định thường gặp khó
khăn trong việc chuyển đi và khái qt hố kiến thức. Do đó, các em cần phải
được hướng dẫn kỹ việc đọc để từ đó có thể tăng thêm sự quan tâm đến các
trang in.
          2.2. Học sinh thường có phản ứng khơng tích cực đối với nhiều trang
chữ in dày đặc.
          2.3. Học sinh có khuynh hướng tập trung các nỗ lực giải mã từng ngôn
ngữ mới trong khi lại hạn chế đến việc giải mã một bài văn.
          2.4. Giáo viên có thể đốn trước học sinh sẽ gặp khó khăn trong việc đọc
hiểu bài văn nếu nội dung bài văn không quen thuộc với các em.
          2.5. Kinh nghiệm nói của học sinh được sử dụng vào việc giải mã một
bài văn thay đổi tuỳ theo lứa tuổi và kinh nghiệm sống của học sinh đối với
thứ tiếng đang học.
2.6. Khả năng suy luận, nói và sự hiểu biết về các khái niệm như cụm từ, câu,
âm và các khái niệm khác có tác động tích cực đến sự thành công của việc
đọc ban đầu.

download by :


2.7. Mức độ hiểu các loại văn bản tuỳ theo lứa tuổi và kinh nghiệm của học
sinh đối với văn hoá của dân tộc nói thứ tiếng đang được học.
2.8. Học sinh học ngoại ngữ có nhu cầu về những giải thích liên quan đến
phép ẩn dụ trong văn viết, các thành ngữ và những thơng tin về văn hố có

thứ tiếng được học nhiều hơn so với học sinh học tiếng mẹ đẻ.
Theo phương pháp mới, khi dạy mỗi bài “Read” giáo viên cần phải thực hiện
theo các bước như sau:
- Pre- reading.
- While – reading.
- Post – reading.
 A/ Pre – reading: (phần giới thiệu bài trước khi đọc)
          Trong phần này, giáo viên cần xây dựng một hay hai hoạt động nhằm 
giới thiệu bài đọc. Phần này chủ yếu là giúp học sinh làm quen với nội dung
và chủ đề sắp được đọc trong bài. Khi thực hiện bước này, học sinh sẽ cảm
thấy hứng thú hơn, đồng thời các em có thể ôn lại những kiến thức đã học
liên quan đến bài mới và rèn thêm các kỹ năng nói, nghe, viết bên cạnh kỹ
năng đọc theo yêu cầu.
Khi thực hiện giảng dạy phần này giáo viên nên tiến hành theo các bước sau:
- Thiết kế hoạt động ngắn (còn gọi là Warm up) bằng các phương pháp khác
nhau để tạo hứng thú cho các em trước khi vào tiết học.
          + Khi thực hiện hoạt động trên, giáo viên thường cho học sinh rèn thêm
kỹ năng nghe, nói, viết bằng cách hỏi đáp; một vài dạng bài tập nhỏ hay một
số trò chơi nhỏ vừa tạo khơng khí thoải mái, vừa ơn lại kiến thức mà các em
đã học.

download by :


          + Dùng các phương pháp phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh
bậc THCS như: yêu cầu đoán tranh, đoán từ vựng…để đoán nội dung chính
của bài đọc nhằm kích thích trí tò mò cho các em.
- Dùng các phương pháp khác nhau từ việc nhìn tranh, tạo hành động, tìm từ
đồng nghĩa, trái nghĩa, giải thích bằng tiếng Anh hay tiếng Việt …. trong việc
giảng dạy từ vựng mới (nếu có trong bài đọc) nhằm tạo cho các em học sinh

hứng thú khi học từ mới.
- Có thể cho các em một số dạng bài tập đoán như: True/ false; Multiple
choice; Match A and B…và giáo viên sẽ sửa dạng bài tập trong phần luyện đọc
để kiểm tra xem mức độ phán đoán của học sinh như thế nào. Hơn thế nữa, 
các em vừa có thể nắm vững nội dung bài sẽ học vừa có cơ hội luyện thêm
một số dạng bài tập mà các em thường gặp trong các bài kiểm tra, các kỳ thi
khi làm bài đọc hiểu.
Ví dụ: English 6: Unit 4- Read- part 3 / page 45
           + Giáo viên đưa ra hình ảnh 2 ngôi trường (1 là trường học của
Phong ở nông thôn và 1 là của Thu ở thành phố) rồi lần lượt chỉ vào từng
hình ảnh và hỏi.
- Giáo viên: Where is this school?
- Học sinh: It’s in the country.
- Giáo viên: Whose school is it?
- Học sinh: It’s Phong’s school.
- Giáo viên: How many classrooms are there in Phong’s school?
- Học sinh: There are eight classrooms.
- Giáo viên: How many students are there in his school?
- Học sinh: There are four hundred students in his school.

download by :


(hình ảnh trường học thứ 2 làm tương tự hình ảnh 1- chỉ cần thay bằng từ
gạch chân)
- Trước khi các em học sinh nghe nội dung trong bài (một hay hai lần, nếu bài
đọc có nội dung khá dài) giáo viên có thể cho các em nghe ngắt đoạn cho các
em học một số từ vựng, đưa ra một bài tập đoán dạng True -False mà các em
sẽ phải làm sau khi nghe. (tranh minh họa)
* Kết quả: Khi áp dụng phương pháp dùng hình và hỏi một số câu hỏi để gợi

mở nội dung trong bài, tôi nhận thấy các em học sinh cảm thấy thích thú, chú
ý và chờ đợi nội dung trong bài hơn. Ngoài ra khi áp dụng phương pháp hỏi
đáp khi dẫn vào nội dung trong bài, tôi có thể luyện cho các em học sinh cả kỹ
năng nghe và kỹ năng nói trong tiết dạy đọc hiểu.
          Ví dụ: English 7: Unit 4- Read- part 6 / page 44
+ Giáo viên cho học sinh chia thành 4 nhóm để tham gia trò chơi ô chữ đoán
từ với chủ đề về các môn học và tìm ra từ gốc để có thể đoán được nội dung
bài mà mình sắp học có chủ đề là gì ( tranh minh họa). Mỗi từ hàng ngang
các em đoán đúng sẽ được 2 điểm, nhưng các em có thể đoán từ gốc (từ hàng
dọc) bất kể lúc nào, nếu các em đoán được sẽ được 4 điểm nhưng nếu các em
đoán sai thì các em sẽ bị ngừng tham gia trò chơi và bị thua cuộc. Cuối cùng
nhóm nào khi cộng điểm cao nhất sẽ là đội thắng trong trò chơi
này.                        
          Sau khi các em đã tìm ra chủ đề từ gốc là school, tôi cho các em nhìn 2
tranh (một tranh là trường học ở Việt Nam; một tranh là trường học ở Mỹ)
- Giáo viên: (chỉ trường học ở Việt Nam) Is this school in Viet nam?
- Học sinh A: Yes, it is
- Giáo viên: (chỉ trường học ở Mỹ) Is this school in Viet Nam, too?
- Học sinh B: No, it isn’t

download by :


- Giáo viên: Where is it?
- Học sinh C: It is in the USA.
- Giáo viên: Good, now listen to the tape, you will know about Schools in the
USA.   
*Kết quả: Khi dùng phương pháp trò chơi ô chữ, giáo viên không những giúp
các em có tâm lý thoải mái trước khi vào tiết học đọc mà cịn giúp các em ơn
lại từ vựng mà đã học.

          Ví dụ: English 7: Unit 7- Read- part 2 / page 77
          Giáo viên chuẩn bị 12 từ: machine, student, factory, chicken, pig,
medicine, book, board, buffalo, rice-paddy, sick children, hospital (giáo viên
có thể kèm theo việc giải thích từ mới nếu có) và yêu cầu các em học sinh sắp
xếp chúng thành 4 nhóm thích hợp theo chủ đề về nghề nghiệp mà các em
thấy thích hợp, sau khi các em đã thực hiện đúng, giáo viên yêu cầu các em
đọc to những từ đó lên. Nhóm nào đọc đúng và đoán đúng nghề của chủ đề đó
thì nhóm đó thắng.
- Teacher: student, board, book.
- Farmer: pig, buffalo, chicken, rice-paddy.
- Worker: factory, machine.
- Doctor: (hay nurse): medicine, sick children, hospital.
- Giáo viên: You have four important jobs, today you study about the life of
farmers. Now listen to the tape.
- Giáo viên cho học sinh nghe băng một lần, sau đó đưa ra một bài tập trắc
nghiệm (tranh minh họa) để các em đoán sau khi nghe lần 2 (khi cho nghe
lần 2 giáo viên ngắt ra thành 3 đoạn) để các em có thể nắm vững nội dung
bài hơn.

download by :


* Kết quả: Cũng nhằm mục đích là ôn từ các em đã học nhưng lần này tôi
dùng phương pháp sắp xếp từ theo chủ đề để các em không bị nhàm chán
trong tiết học. Ngoài ra, khi cho các em dùng bài tập đoán là chọn trắc
nghiệm, tôi có thể cho các em làm quen thêm dạng bài tập để các em có thể
làm tốt phần đọc hiểu trong bài kiểm tra cũng như trong các kỳ thi.
B/ While- reading: (phần luyện đọc).
          - Trong quá trình dạy kỹ năng này, hoạt động đọc được tổ chức nhằm
giúp cho học sinh rèn luyện kỹ năng đọc hiểu, bên cạnh đó cịn phát triển một

số kỹ năng khác.
           Các kỹ năng thường dùng trong giai đoạn này là đọc tập trung và đọc
mở rộng. Đọc tập trung có nghĩa là người đọc phải hiểu tất cả những gì đã
đọc và có thể trả lời các câu hỏi chi tiết về từ ngữ và ý tưởng được diễn đạt
qua bài văn.
          - Đọc mở rộng có nghĩa là học sinh hiểu một cách tổng quát về bài text
mà không cần thiết phải hiểu từng từ hoặc từng ý. Việc đọc tập trung sẽ giúp
cho học sinh đọc mở rộng tốt hơn. Đồng thời, việc đọc mở rộng sẽ cũng sẽ
giúp cho học sinh tự tin hơn khi tiếp xúc với những tài liệu khó.
           - Đối với một bài đọc dài, giáo viên có thể áp dụng cách đọc mở rộng
một vài đoạn và cho học sinh đọc ở một bài đọc khác. Nếu để học sinh đọc một
bài văn quá dài, các em sẽ mất hứng thú và cũng không đủ thời gian rèn
luyện kỹ năng đọc nhanh.
          - Bài đọc trong sách giáo khoa cũ thường được chuẩn bị kỹ, có chọn lọc
và giới hạn về ngôn ngữ để học sinh áp dụng lối đọc tập trung. Nhưng trong
sách giáo khoa mới, hình thức bài học phong phú, đa dạng và chuẩn xác. Với
cách đọc mở rộng, học sinh sẽ cảm thấy dù trình độ ngơn ngữ của các em cịn
hạn chế, các em vẫn có thể hiểu một cách khái quát những gì được thơng tin
qua ngơn ngữ được dùng trong cuộc sống.

download by :


          - Ở các lớp lớn, giáo viên nên hạn chế việc cho học sinh đọc to các bài
đọc vì việc đọc như thế rất khó đối với học sinh. Bài đọc có thể có nhiều từ mà
học sinh chưa biết cách phát âm, các bài hội thoại có thể đòi hỏi nắm
chắc các cấu trúc và ngữ điệu đặc biệt mà học sinh chưa biết. Việc đọc một
bài đọc không chuẩn bị trước sẽ làm cho học sinh đọc kém tự nhiên, ngập
ngừng hoặc phát âm sai làm ảnh hưởng đến những học sinh khác trong khi
đọc thành tiếng học sinh sẽ tập trung nhiều vào phần phát âm hơn là phần ý

nghĩa của văn bản, do đó có thể học sinh đọc thành tiếng tốt nhưng lại hiểu ít
hoặc khơng hiểu gì về điều đã đọc.
          - Trước hết, giáo viên đọc cả bài qua một lượt hoặc cho học sinh nghe
băng sau đó giáo viên cho học sinh đọc thầm. Việc làm này giúp những em
đọc còn yếu sẽ đọc tốt hơn và đỡ mất thời gian.
          - Giáo viên cũng cần thay đổi cách đọc. Trong việc dạy đọc mở rộng,
hình thức đọc thầm rất thích hợp và mang lại hiệu quả cao. Giáo viên có thể
giới hạn thời gian đọc và sau đó cho một số câu hỏi và mức độ đọc hiểu của
học sinh.
           - Phần lớn với những bài đọc dài, tốt nhất giáo viên nên cho học sinh
đọc thầm, tuy nhiên cũng cần phải nói rằng chuẩn bị bài dạy trước khi lên lớp
là điều quan trọng nhất và có thể thay đổi theo một số cách như sau:
          1. Đối với những lớp bắt đầu học, giáo viên đọc mẫu cả lớp đọc theo lặp
lại từng câu.
2. Ở những lớp có trình độ thấp, ngồi việc lặp lại theo giáo viên, học sinh có
thể nghe băng đọc qua một vài lần để làm quen với các giọng đọc của người
bản ngữ.
3. Giáo viên đọc cả đoạn, sau đó học sinh đọc lại cả đoạn đó.
4. Một học sinh đọc cả đoạn theo giáo viên .

download by :


          Bên cạnh đó, lớp nên được chia làm nhiều nhóm hai HS hoặc nhiều HS.
Mỗi nhóm chuẩn bị một đoạn sau đó một HS đại diện của một nhóm sẽ đọc
một đoạn. Trong trường hợp bài đọc là một đoạn hội thoại, nhóm sẽ phân vai
và chuẩn bị. Giáo viên thảo luận với những nhóm gặp khó khăn về phát âm
(trọng âm, tiết tấu, ngữ điệu). Sau đó, một nhóm nào đó sẽ được chọn đọc để
cả lớp theo dõi.
          - Trong khi dạy đọc, giáo viên nên xen kẽ một số câu hỏi nhằm hướng

dẫn học sinh đọc hiểu nội dung thông tin của bài. Song song với việc đó, giáo
viên cũng có thể giải thích thêm về các từ và cấu trúc các em cịn chưa rõ. Vì
vậy, nội dung các câu hỏi cần hướng học sinh đến những ý chính trong bài và
giúp học sinh hiểu nghĩa của bài đọc. Giáo viên không nên đặt các câu hỏi quá
dài và quá khó mà nên nêu các câu hỏi ngắn gọn để giúp học sinh hiểu bài.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh và tổ chức giờ học sao cho cả lớp cùng
tham gia hoạt động trả lời các câu hỏi. Sau đó, hướng dẫn học sinh trả lời các
câu đúng sai.
          - Trong khi dạy đọc, giáo viên có thể tổ chức giờ học thành nhiều hoạt
động theo nhóm từ 2 học sinh trở lên thảo luận câu trả lời. Bằng cách này, tất
cả các em học sinh trong lớp phải tham gia hoạt động trả lời và HS sẽ có cơ
hội làm việc chung và giúp đỡ lẫn nhau.
          -  Hình thức trả lời có thể viết hay nói. Học sinh trả lời bằng cách nói sẽ
ít mất thời gian hơn và được nhiều giáo viên áp dụng. Nhưng trong một lớp
đơng, giáo viên sẽ khó khăn trong việc kiểm soát học sinh xem tất cả các em
hiểu bài hay khơng.
          - Hình thức viết câu trả lời sẽ giúp học sinh có nhiều thời gian để suy
nghĩ  nhưng hình thức này mất nhiều thời gian hơn. Giáo viên cần khuyến
khích học sinh viết những câu trả lời ngắn vì mục đích của bài tập này chỉ
nhằm kiểm tra  mức độ hiểu bài của các em.

download by :


           - Một số loại bài tập trong hoạt động này có thể là :  
          * Loại 1:
           - Hỏi và trả lời. 
           Ví dụ: English 9: Unit 2- Read / page 18   
          - Sau khi đọc xong bài đọc, giáo viên có thể hỏi từng câu hỏi và yêu cầu
từng HS trả lời.

          GV: Where does the word jeans come from? 
          HS: The word jeans comes from a kind of material made in Europe.
          GV: What were the 1960s’ fashions?
          HS: The 1960s’ fashions were embroidered jeans and painted jeans, and
so on.
          GV: Why did more and more people begin wearing jeans in the 1970s? 
          HS: In the 1970s, more and more people began wearing jeans because
they became cheaper.                                                                                                         
          * Loại 2:
 - Đọc và điền vào chỗ trống thông tin vào chỗ trống.
Ví dụ: English 9: Unit 3- Read : part b/ page 26
- GV u cầu HS đọc lại bài đọc, tìm thơng tin điền vào chỗ trống để hoàn
thành đoạn văn.
- HS đọc lại bài đọc sau khi hoàn thành bài tập a.
* Loại 1:
- Đọc và vẽ tranh thể hiện nội dung hướng dẫn.
          Ví dụ: English 7: Unit 9- Read- part 2 / page 93
          - Đọc tóm lại ý chính của bài đọc ….

download by :


          Ví dụ: English 9: Unit 1- Read / page 13
- Ngồi ra, trong q trình dạy học giáo viên và học sinh có thể gặp những
bài đọc dài nhưng dung lượng thời gian có hạn chỉ trong một tiết học 45 phút
làm thế nào để truyền thụ tất cả những kiến thức đến học sinh, vì vậy trong
trường hợp này giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc lướt để lấy thông tin
trong bài đọc (tất nhiên cần phải giải thích từ mới cho học sinh). Nhưng có
khi bài đọc quá nhiều từ mới mà học sinh chưa bao giờ biết thì giáo viên cần
phải dạy cho học sinh cách đốn nghĩa của từ đó trong từng ngữ cảnh.

Ví dụ: English 8: Unit 5- Read / page 49
- Đặc biệt nếu gặp bài quá dài thì giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc câu
trả lời trước, sau đó mới đối chiếu vào bài đọc để tìm thơng tin trả lời. Đây là
phương pháp nhanh nhất giúp giáo viên tận dụng hết thời gian mà vẫn đảm
bảo yêu cầu của bài học. (Chỉ áp dụng cho những bài đọc quá dài) Lesson:
Read.
Ví dụ: English 8: Unit 10- Read / page 92
- Sau khi học xong bài đọc, giáo viên có thể nêu ra một số câu hỏi về kinh
nghiệm học từ vựng của học sinh và yêu cầu các em trả lời như là:
- Do you often learn words in one way?
- Do you have any other ways to learn better?
- In your opinion, what is the best way to learn words?
* Loại 4: 
- Viết bài tóm tắt nội dung của bài đọc.
Ví dụ: English 9: Unit 3- Read: part b / page 26
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm bài viết tóm tắt.
- Khi thực hiện giảng dạy phần này, giáo viên có thể làm theo các bước sau:

download by :


+ Yêu cầu HS ghi nhớ những từ mới vừ học.
+ Yêu cầu HS đọc thầm lại bài đọc.
+ Học sinh hoàn thành bài tập.
+ Yêu cầu 2 HS lên bảng viết câu trả lời.
+ Những HS khác nhận xét và sửa lỗi sai.(nếu có)
+ Giáo viên sửa lỗi cho học.(nếu có )
- Giáo viên cho các em bài tập nhỏ để kiểm tra từ vựng:
+ Giáo viên cho học sinh khoảng 12 từ (shark, shirt, dolphin, book, rose, cap,
turtle, duck, pig, board, crab, hat) và yêu cầu các em làm việc theo nhóm để

chọn ra những vật có trong hồ cá. Nhóm nào có thể chọn và đọc đúng những
từ đó (shark, crab, dolphin, turtle) thì nhóm đó thắng.
+ Giáo viên cho học sinh đối chiếu 2 bên; một bên tiếng Việt, bên kia là tiếng
Anh những từ mà học sinh mới học trong bài. Nhóm nào thực hiện đúng và
sớm nhất thì nhóm đó thắng.
+ Giáo viên cũng có thể cho học sinh bài tập điền từ vào chỗ trống, có thể cho
từ sẵn hay các em tự nhớ từ mà điền vào tùy theo nội dung bài đọc. (những
từ điền tôi thường dùng những các em vừa mới học trong bài đọc-  tranh
minh họa). Khi cho HS làm dạng bài tập này, giáo viên có thể cho các em làm
việc theo nhóm hay theo cặp, có thể cho các em tự sửa bài cho nhau (nhóm
này sửa bài cho nhóm kia; hay nhóm kia tự sửa bài cho nhóm này) và giáo
viên là người sửa bài sau cùng.
- Giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi trong SGK (đây là phần mà các em
thường gặp trong phần đọc hiểu trong sách giáo khoa bậc THCS). Khi thực
hiện phần này, để tránh nhàm chán và giúp học sinh có thể luyện thêm kỹ
năng nghe, nói, giáo viên có thể chia học sinh thành 4 đến 5 nhóm (tùy số
lượng học sinh mỗi lớp), giáo viên đọc câu hỏi, các em học sinh sẽ nghe và thi

download by :


đua trả lời câu hỏi. Nhóm nào trả lời chính xác và nhanh nhất thì nhóm đó
thắng. Đôi khi, để thay đởi phương pháp giáo viên có thể chia học sinh của
mình thành 4 nhóm, cho các em cá cược điểm. Khi kết thúc, đội nào có số
điểm cao hơn thì đội đó thắng. Ngoài ra trong phần này, giáo viên cũng có
thể cho học sinh tham gia trò chơi chọn số may mắn học sinh sẽ mở bất kỳ số
nào mà mình thích (có thể là 1, 2 hay 3 ẩn sau những con số). Bên cạnh đó,
đằng sau những số này, giáo viên cũng có thể cho từ 2 đến 4 ngôi sao, hình
ảnh hay bông hoa…. Khi học sinh chọn những ngôi sao này, học sinh sẽ được
cộng 2 điểm thưởng mà không cần phải trả lời câu hỏi. Cuối cùng, khi kết

thúc trò chơi, nhóm nào có số điểm cao nhất thì nhóm đó thắng. Giáo viên
cũng có thể cho học sinh đổ xí ngầu (thường có trong trò chơi cá ngựa) để
chọn điểm một cách may mắn, khi các em trả lời đúng thì các em của nhóm
đó sẽ có điểm số theo số của xí ngầu mà nhóm đó vừa mới đổ. Kết thúc trò
chơi, nhóm nào có số điểm cao nhất thì nhóm đó thắng.
- Đối với phần trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa, đôi khi giáo viên cũng có
thể cho các em mỗi nhóm giữ bảng câu hỏi và các em tự hỏi nhau. Nhóm nào
có thể đọc câu hỏi và câu trả lời chính xác và có số điểm cao hơn thì nhóm đó
thắng.
          Ví dụ: English 7: Unit 4- Read- part 6 / page 44
      Theo yêu cầu của bài, học sinh phải làm bài tập ở dạng True / False. Khi
dạy dạng bài tập này, tôi thường cho học sinh làm việc theo cặp; một học sinh
sẽ đọc câu cho sẵn trong sách, học sinh còn lại sẽ chọn True / False; nếu câu
đó đúng tôi sẽ yêu cầu em đọc lại, nếu câu đó sai, tôi yêu cầu em phải sửa lại
cho đúng.
           Khi áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để hướng dẫn HS làm các
loại  bài tập theo yêu cầu trong sách giáo khoa hay một số loại bài tập bên
ngoài theo yêu cầu của giáo viên trong phần while-reading, tôi nhận thấy các

download by :


em rất hứng thú học tập và thực hiện các bài tập đạt kết quả  tốt hơn. Theo
tôi, phương pháp vừa học vừa chơi không chỉ giúp học sinh thích học môn
Tiếng Anh mà giáo viên còn có có thể sử dụng được những phương pháp mới
vào các tiết dạy đọc hiểu môn Tiếng Anh ở bậc THCS theo yêu cầu.
C/ Post- reading: (phần vận dụng bài nghe )
           Các hoạt động tiếp theo sau khi học sinh luyện đọc cũng rất quan trọng.
Sau khi các em đọc và làm một số bài tập theo yêu cầu của sách giáo khoa,
giáo viên có thể kiểm tra kỹ năng đọc hiểu của các em để biết được các em có

nắm vững và nhớ nội dung bài đọc hay không bằng nhiều cách như là: cho
các em hỏi nhau một số câu hỏi có liên quan đến nội dung trong bài, thực
hiện bài tập điền vào chỗ trống hoặc tóm tắt nội dung bài đọc, …
          + Khi thực hiện giảng dạy phần này giáo viên có thể làm theo các bước
như sau:
- Giáo viên cho học sinh nghe máy (hay tự đọc thầm) bài đọc lần nữa.
- Giáo viên cho học sinh làm việc theo cặp, nhóm hay cá nhận để làm bài tập.
- Ở phần  này, học sinh thường phải gập sách lại và cố gắng nhớ nội dung bài
đọc. Để củng cớ, giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập với các dạng: tóm
tắt, đặt câu theo từ gợi ý, nhìn tranh kể lại hay điền từ vào chỡ trớng, chọn
trắc nghiệm, … . Giáo viên cũng có thể kiểm tra từ vựng và cách đọc từ mới
nếu có thể.
          Ví dụ: English 8: Unit 9- Read/ page 84
- Giáo viên cho học sinh nghe lại bài đọc 1 lần .
- Giáo viên xáo trộn 5 tranh (trang tranh minh họa) và yêu cầu học sinh sắp
xếp lại cho đúng theo nội dung trong bài.
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại 5 bức tranh (đã sắp xếp theo thứ tự) và yêu
cầu học sinh kể lại theo nội dung bài đọc theo từng tranh (nếu học sinh có

download by :


trình độ yếu, giáo viên có thể cho các em từ gợi ý sẵn để viết thành câu, sắp
xếp từ xáo trộn thành câu hoàn chỉnh hay điền vào chỗ trống ...). Khi giáo
viên nhận thấy học sinh có thể kể tớt từng tranh thì có thể cho mợt vài em kể
lại toàn bộ nội dung có trong bài. Khi cho học sinh thực hành kỹ năng này
cũng giống như trong phần Pre-reading/ while- reading, giáo viên cho các
em thi đua nhóm với nhau trong lớp bằng nhiều trò chơi nhỏ ( như Lucky
number, đổ xí ngầu hay cá cược, ...) nhằm giúp tiết học trở nên sinh động hơn.
          Ví dụ: English 7: Unit 14- Read- part 3 / page 142

- Giáo viên cho học sinh tự đọc thầm bài đọc ( khoảng 2 phút )
- Giáo viên cho học sinh làm bài tập điền từ vào chỗ trống từ bài tóm tắt có
trong sách.
- Giáo viên chia học sinh thành 4 đến 5 nhóm, mỗi nhóm đem theo một tấm
bìa cứng và yêu cầu học sinh ghi từ điền vào bảng sau đó gắn lên bảng,  nhóm
nào ghi từ cần điền đúng và nhanh nhất thì nhóm đó thắng. Giáo viên cũng có
thể cho học sinh thi đua bằng cách một học sinh trong nhóm đại diện lên
bảng ghi từ điền, các thành viên khác trong nhóm lần lượt đọc tiếp từ cần
điền, nhóm nào điền đúng và nhanh nhất thì nhóm đó thắng.
- Giáo viên có thể cho học sinh kể những chương trình ti vi mà các em thích
để mở rộng đề tài, giáo viên có thể hỏi các em có thích xem ti vi hay không và
các em thường xem ti vi khi nào.
 3. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
* Đối với giáo viên:
- Phải nắm rõ các bước dạy kỹ năng đọc hiểu.
- Phải chuẩn bị tốt nội dung bài dạy tốt và các kiến thức có liên quan để làm
cho bài dạy thêm sinh động và hấp dẫn.

download by :


- Phải sử dụng các phương pháp dạy học nhuần nhuyễn để có thể hỗ trợ tốt
nhất cho kỹ năng mình muốn dạy trong giờ dạy đó.
* Đối với học sinh:
- Phải chuẩn bị bài trước ở nhà.
- Phải rèn luyện khả năng đoán từ.
- Phải nắm được nội dung chính và yêu cầu của bài.
* Đối với nhà trường:
- Phải tạo điều kiện để giáo viên được dạy đúng chun mơn đào tạo.
- Phải có đủ các thiết bị dạy học cho bộ môn tiếng Anh.

- Phải tạo điều kiện để giáo viên môn Tiếng Anh được tiếp cận và giao tiếp
Tiếng Anh với những quốc gia nói Tiếng Anh trên thế giới.

download by :



×