Lời mở đầu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa, vì để xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn định, vững chắc,
với tốc độ nhanh đòi hỏi phải xác định đợc một cơ cấu kinh tế hợp lý, giải quyết hài hoà
mối quan hệ giữa ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần
kinh tế. Cơ cấu kinh tế có ý nghĩa thiết thực trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển đa
dạng, năng động, phát huy lợi thế, tiềm năng về nguồn nhân lực, vật lực và tài lực. Cơ
cấu kinh tế quốc dân có nhiều loại và tuỳ theo mục đích nghiên cứu, quản lý có thể xem
xét dới các góc độ khác nhau. Nhng dù thuộc loại nào cơ cấu kinh tế quốc dân cũng là
sản phẩm của phân công lao động xã hội, nó đợc biểu hiện cụ thể giữa hai hình thức cơ
bản nhất là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ. Hai
hình thức phân công lao động xã hội này gắn bó với nhau, thúc đẩy quá trình tiến hoá
chung của nhân loại. Mọi sự phát triển của phân công lao động theo ngành kéo theo sự
phân công lao động theo lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ, với đầy đủ các yếu
tố về dân số, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của mỗi vùng sẽ tạo
điều kiện để chuyên môn hóa sản xuất, hỗ trợ cho các ngành phát triển, hình thành các
cơ sở sản xuất kinh doanh để khai thác và phát huy thế mạnh ở từng vùng lãnh thổ. Trình
độ phát triển của phân công lao động xã hội trong mỗi dân tộc là thớc đo trình độ phát
triển chung của dân tộc đó.
Nh vậy, cách tiếp cận về cơ cấu kinh tế xuất phát từ cấu trúc bên trong của nó
qua quá trình tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế, bao hàm các mối quan hệ kinh tế đa
dạng và phức tạp, đợc nhìn nhận trên quan điểm hệ thống không chỉ mang tính chất số l-
ợng mà còn mang tính chất về mặt chất lợng. Nó không chỉ là mối quan hệ riêng lẻ của
từng bộ phận kinh tế mà phải là những quan hệ tổng thể của các bộ phận cấu thành nền
kinh tế bao gồm các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, các ngành kinh tế, các vùng
kinh tế, các thành phần kinh tế.
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, lĩnh vực đầu
t ngày càng chú trọng và phát triển, kể cả đầu t trong nớc và đầu t nớc ngoài. Nhờ đó,
nền kinh tế có đà tăng trởng cao trong nhiều năm liên tiếp, đồng thời cơ cấu kinh tế đã
có sự chuyển dịch theo hớng tích cực.
Vậy tác động của đầu t tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nh thế nào, thông qua
những chính sách gì, thực trạng và giải pháp đối với vấn đề này nh thế nào đề tài này
sẽ làm rõ thêm những vớng mắc còn tồn tại.
1
Chương 1
Lý luận chung về tác động của đầu tư tới chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
1.1/ Khái niệm đầu tư phát triển, cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1/ Khái niệm và bản chất đầu tư kinh tế phát triển
a)
Khái niệm đầu tư phát triển
Thuật ngữ “investment - đầu tư” được hiểu là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực
hiện có, để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư những kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra lúc đầu; các nguồn lực đã bỏ ra có
thể là tài sản vật chất tiền bạc, tài nguyên thiên nhiên hoặc các tài sản vật chất khác và
sức lao động.
Theo luật đầu tư (Luật số: 59/2005/QH11): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Theo quan điểm của chủ đầu tư (doanh nghiệp): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn
kinh doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận trong
thời gian tương lai.
Theo quan điểm của xã hội (Quốc gia): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, để
từ đó thu được các hiệu quả kinh tế – xã hội, vì mục tiêu quốc gia.
Dưới góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về
mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai.
Trên phương diện tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu
tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Về khía cạnh hoạt động: Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào hoạt
động nào đó nhằm thu về mục đích và mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai.
b)
Phân loại đầu tư phát triển
− Theo đối tượng đầu tư:
Đầu tư phát triển và đầu tư tài chính
Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư.
2
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản
hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình
−Theo mục tiêu đầu tư:
Đầu tư tài chính; đầu tư kinh tế và đầu tư xã hội
Đầu tư kinh tế và đầu tư phi kinh tế
Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
c)
Đặc điểm đầu tư phát triển
−Quy mô tiền vốn,vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn: Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Quy mô vốn thường lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây
dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn
đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm. Lao động
cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia.
−Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến
khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời
gian đầu tư kéo dài hàng chục năm.
−Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết quả
đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào
thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động
hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội
−Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực
hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các
nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng:
−Có độ rủi ro cao:
3
1.1.2/ Khái niệm, phân loại cơ cấu kinh tế
d)
Khái niệm
Cơ cấu kinh tế là tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố kinh tế quốc dân,giữa chúng
có mối quan hệ hữư cơ, tương tác qua lại số lượng, chất lượng trong điều kiện không
gian, thời gian kinh tế – xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan
hệ, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định. Cơ cấu kinh
tế thường gồm 3 phương diện hợp thành. Đó là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần
kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ, trong đó cơ cấu ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng
nhất.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước các chủ thể kinh tế luôn
hành động theo hiệu quả kinh tế thiết thực. Ở một chừng mực nhất định quy hoạch phát
triển của Nhà nước có tác động đến cơ cấu đầu tư, nhưng kết quả cuối cùng lại được thể
hiện bằng cơ cấu trên các phương diện của nó. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo chiều
hướng hợp lý hơn, sự thay đổi đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
e)
Phân loại:
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể các ngành trong nền kinh tế quốc dân được hợp
thành theo một quan hệ tỷ lệ về lượng, thể hiện mối quan hệ giữa các ngành và phản
ánh trình độ phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hóa về tư
liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Ở nước ta hiện nay đang tồn tại sáu thành phần
kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế
cá thể, tiểu chủ; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước
và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không
có sự phân biệt không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều có môi trường và điều kiện
phát triển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Cơ cấu vùng kinh tế là vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
của các địa phương, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng
điểm ở ba miền đang được xây dựng và hình thành từng bước. Ở nước ta hiện nay có
sáu vùng kinh tế trọng điểm là:
− Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc).
− Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
− Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
− Tây Nguyên.
4
− Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
− Đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.3/ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
a)
Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cơ cấu từ trạng thái này sang
trạng thái khác. Các thay đổi này có thể bao gồm thay đổi về số lượng các yếu tố, quan
hệ tỷ lệ, thay đổi về chất lượng các yếu tố.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế – xã hội từ nền kinh tế
lạc hậu, mang tính chất tự cấp, tự túc bước vào chuyên môn hóa hợp lý, trang bị kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao và nhịp độ tăng
trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung.
Chuyển dịch cơ cấu được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành
nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy
mô, tốc độ giữa các ngành, vùng.
b)
Phân loại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương
quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó.
Cho đến nay, chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành kinh tế: Phân ngành
kinh tế theo Hệ thống sản xuất vật chất (Material Production System – MPS ) và Hệ
thống phân ngành theo Hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts –
SNA).
• Có hai xu hướng lớn của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đang diễn ra
trên thế giới
− Chuyển dịch từ khu vực vật chất sang khu vực dịch vụ. Xu hướng này
thường diễn ra ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, dưới ảnh hưởng của cuộc cách
mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.
− Chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ yếu là chuyển dịch
cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Xu hướng này chủ yếu đang
phát triển, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa.
• Với điều kiện của nước ta, đang trong quá trình công nghiệp hóa, mở cửa
nền kinh tế, với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và do tác động của cuộc
cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại, chúng ta có thể thực hiện cùng lúc hai bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên, rút ngắn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
5
hướng hiện đại hóa
Chuyển dịch cơ cấu Vùng là quá trình phát triển của các khu vực vùng lãnh thổ
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương
quan giữa chúng và với tổng thể nền kinh tế so với một thời điểm trước đó.
Cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế đang chuyển dịch tương ứng với chuyển dịch cơ cấu
ngành.
Trong cả nước đang nổi lên các vùng kinh tế phát triển năng động:
Chuyển dịch cơ cấu Thành phần kinh tế là quá trình phát triển của các thành
phần kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối
quan hệ tương quan giữa chung và với tổng thể nền kinh tế so với thời điểm trước đó.
1.2/ Lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
− Các hình thức biểu hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế:
Sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành: tức là xuất hiện thêm những ngành
mới hay mất đi một số ngành đã có. Sự kiện này chỉ có thể nhận biết được khi hệ thống
phân loại ngành là đủ chi tiết. Trong trường hợp chỉ xét đến những ngành gộp thì không
thể biết được những ngành sản phẩm mới hình thành hay ngành sản phẩm đã mất đi
trong một ngành gộp đã có.
Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn tới sự thay đổi
cơ cấu. Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả của sự phát triển
không đồng đều giữa các ngành sau mỗi giai đoạn.
Thay đổi trong mối quan hệ qua lại: sự thay đổi này trước hết biểu hiện bằng số
lượng các ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại giữa ngành này và các ngành
khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành hay nhận được từ các
ngành đó. Những thay dổi này thường liên quan đến thay đổi về công nghệ sản xuất sản
phẩm hay khả năng thay thế cho nhau để đáp ứng những nhu cầu của xã hội trong
những điều kiện mới.
Các nhân tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Điều kiện xuất phát:
Cơ sở hạ tầng kinh tế gồm: hạ tầng thiết chế luật pháp và cơ sở hạ tầng vật chất.
Điều kiện ban đầu cho công nghiệp: Nền nông nghiệp non trẻ được cải tiến từng
bước về hiệu quả và thực hiện thông qua cạnh tranh trong nước và quốc tế. Ở những
nước kém phát triển phải đào tạo một tầng lớp kinh doanh công nghiệp.
Tác động của các yếu tố bên ngoài:
Sự tổn thương về cơ cấu tài chính: thường thể hiện qua những khoản thanh toán
6
thuần của cán cân thanh toán thông thường bao gồm cả thu nhập do đầu tư của các nhà
đầu tư và tiền trả nợ nước ngoài trong quan hệ tỷ lệ với thu nhập và dự trữ ngoại tệ của
họ.
Sự tổn thương của mô hình thương mại: do tình trạng dễ bị tổn thương về khối
lượng buôn bán do chịu tác động mạnh của thay đổi thu nhập phụ thuộc cả vào cơ cấu
mặt hàng lẫn mô hình buôn bán về không gian địa lý.
Sự tổn thương của cơ cấu công nghiệp nội địa: những ngành cơ bản như nhiên
liệu, năng lượng, hóa chất, thép thường có tỷ lệ nhập khẩu cao đối với khối lượng sản
xuất trong nước nên khi giảm nhập khẩu có thể gây phản ứng dây chuyền về tình trạng
thiếu nguồn cung trong nhiều ngành công nghiệp khác.
Tác động của các chính sách:
Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách đầu tư
Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián
tiếp bằng việc sử dụng các chính sách:
Chính sách can thiệp trực tiếp: chính sách phân bổ vốn, Kế hoạch hóa, Xây dựng
cơ chế quản lý đầu tư.
Chính sách điều tiết gián tiếp: thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng
một cơ cấu đầu tư.
1.3/ Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành, thành phần hay
vùng kinh tế với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả về số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động, vốn ) của mỗi bộ phận trong tổng
thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của
từng bộ phận và sự tác động qua lại giữa chúng. Sự tác động này có thể là trực tiếp hoặc
gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, còn mối
quan hệ gián tiếp được thể hiện theo các cấp 1, 2, 3 Nói chung mối quan hệ của các bộ
phận trong nền kinh tế đều biến đổi cả về số lượng lẫn chất lượng và ngày ngày cang trở
nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội trong nước và quốc tế.
Vậy thì khi đầu tư muốn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nó phải tác
động vào:
Mặt số lượng: Tỷ trọng của các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân (theo
GDP, lao động, vốn )
Mặt chất lượng, đầu tư phải tác động tới:
7
• Vị trí, tầm quan trọng của từng bộ phận nền kinh tế. Cụ thể hơn, vị trí, tầm
quan trọng của các bộ phận này phải gắn liền với hiệu quả đầu tư vào chính những bộ
phận đó nói riêng và chiến lược dài hạn của toàn nền kinh tế nói chung
• Sự tác động qua lại (bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp) của các bộ phận trong
nền kinh tế có thể là ngành, vùng hay thành phần kinh tế và thậm chí trong chính nội bộ
của mỗi bộ phận).
Suy cho cùng, để coi đầu tư là một công cụ đắc lực trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo những định hướng mong muốn, ta phải chỉ ra được tác động của đầu
tư tới xu hướng chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế của một nền kinh tế.
Và để làm rõ những vấn đề trên, sau đây chúng tôi xin được đưa ra một số mô
hình kinh tế tiêu biểu:
Lý thuyết tân cổ điển – hàm Cobb Douglas:
Y=T.K
α
.L
β
.R
γ
Y: sản lượng.
K: vốn đầu tư
L: lao động
R: đất
α + β + γ = 1
α, β, γ phản ánh tỷ lệ đóng góp cận biên của các yếu tố đầu vào.
Nếu giả sử các yếu tố kia cố định thì Y sẽ phụ thuộc vào vốn đầu tư K, K tăng sẽ
dẫn đến Y tăng.
Kết luận, đầu tư làm tăng tỷ trọng của từng ngành nói riêng và toàn nền kinh tế
nói chung.
Để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành người ta sử dụng công
thức:
a/
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp:
)(
)(
)(
tGDP
tGDP
t
NN
NN
=
β
b/
Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp
)()()( ttt
DVCNNN
βββ
+=
Mối quan hệ giữa chuyển dịch của ngành nông nghiệp và ngành phi nông nghiệp
– Hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp:
8
c/
Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng
)(
)(
)(
tGDP
tGDP
t
CN
CN
=
β
d/
Tỷ trọng của ngành dịch vụ
)(
)(
)(
tGDP
tGDP
t
DV
DV
=
β
e/
Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất
)()()( ttt
CNNNSXVC
βββ
+=
Mối quan hệ giữa chuyển dịch của ngành dịch vụ và ngành sản xuất vật chất
– Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất:
)()(()()((
)()()(
cos
2222
0
tltltt
tltlt
PhiNNNNPhiNNNN
PhiNNNNNN
ββββ
βββ
θ
+×+
+×
=
θ
0
= arccosθ
0
Góc này bằng 0
0
khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và 90
0
khi sự chuyển
đổi cơ cấu là lớn nhất.
k =
90
0
θ
và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là
d
NN
= β
NN
(tl) - β
NN
(t)
Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là:
)()(()()((
)()()(
cos
2222
0
tltltt
tltlt
PhiDVDVPhiDVDV
PhDVDVDV
ββββ
βββ
θ
+×+
+×
=
θ
0
= arccosθ
0
k =
90
0
θ
và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là
d
DV
= β
DV
(tl) - β
DV
(t)
Chỉ tiêu hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu
kinh tế của ngành
Hệ số co giãn giữa việc thay đổi
cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ
cấu kinh tế của ngành
=
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành/ tổng
vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so
với kỳ trước
% thay đổi tỷ trọng GDP của ngành trong
tổng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ
trước
9
Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của một ngành nào trong tổng
GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu
Chỉ tiêu hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi
GDP
Hệ số co dãn giữa việc thay
đổi cơ cấu đầu tư ngành với
thay đổi GDP
=
% thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của
ngành nào đó / tổng vốn đầu tư xã
hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
% thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP
giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết: để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế(GDP) lên 1% thì tỷ
trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu.
1.4/ Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm tác động của đầu
tư ở một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một số nước đang phát triển ở
Châu Á
Thái Lan:
Từ một nước phát triển nông nghiệp là chủ yếu, Thái Lan đã trở thành một nước
công nghiệp mới nhờ vai trò quan trọng của chính sách thu hút vốn nước ngoài thích
hợp và hiệu quả trong giai đoạn đầu.
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm1954, đến
năm 1972 ban hành luật đầu tư nước ngoài và sau đó sửa đổi vào năm 1986, 1989. Luật
đầu tư nước ngoài không cho phép người nước ngoài đầu tư vào nghành trồng lúa, nghề
khai thác muối (muối mỏ), buôn bán nông sản trong nước, buôn bán bất động sản, xây
dựng…
Thời kỳ 1961-1971: là thời kỳ nền kinh tế thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật để phát triển
kinh tế trong nước. Vì thế trong giai đoạn này chính sách đầu tư tập trung khuyến khích
phát triển các liên doanh với nước ngoài.
Thời kỳ 1972-1986: là thời kỳ thực thi chính sách giảm nhập khẩu, chỉ cho phép
nhập khẩu chủ yếu là máy móc, trang thiết bị và nguyên vật liệu chưa sản xuât được
trong nước. Trong giai đoạn này, chính sách đầu tư tập trung vào khuyến khích các dự
án làm hàng xuất khẩu, các dự án phải tạo ra 80% sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
Thời kỳ 1987-1997: là thời kỳ khuyến khích mạnh mẽ các dự án sản xuất hàng
xuất khẩu. Những công ty có 50% sản phẩm làm ra để xuất khẩu thì các nhà đầu tư
nước ngoài có thể chiếm phầm lớn cổ phần, còn các công ty có 100% sản phẩm phục
10
vụ xuất khẩu thì có quyền bỏ 100% vốn để mua cổ phần công ty đó. Giảm bớt các dự án
tập trung ở Bangkok, đồng thời cũng cho phép các nhà tư bản Thái Lan đầu tư ra nước
ngoài. Năm 1989, đầu tư ra nước ngoài của Thái Lan đạt 492 triệu USD và con số đó
ngày một gia tăng.
Indonesia:
Là một nước công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại thiếu vốn
để khai thác, do đó đường lối phát triể kinh tế của nước này cũng phải đưa vào nguồn
vốn nước ngoài. Năm 1991, nợ nứoc ngoài của nước này đã lên đến 57,5 tỷ USD. Luật
đầu tư nước ngoài ra đời năm 1967, trong đó điều đáng chú ý là:
Thời gian hoạt động của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể lên đến 30
năm;
Khuyến khích hình thức liên doanh, trong đó phần góp vốn của các chủ đầu tư
trong nước tối thiểu là 20% vốn pháp định vào thời điểm thành lập công ty và trong
vòng 15 năm sau khi hoạt động được phép tăng vốn ít nhất tới 51%;
Được miễn thuế nhập khẩu và thuế doanh thu đối với hàng nhập khẩu dùng cho
mục đích góp vốn đầu tư.
Malaysia:
Trong các nước đang phát triển, Malaysia được đánh giá là nước thành công trong
thu hút FDI để thực hiện công nghiệp hóa. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đa sắc
tộc, tích luỹ nội địa thấp, Malaysia luôn coi trọng nguồn vốn FDI đối với sự phát triển
nền kinh tế đất nước vì coi đây là yếu tố then chốt đẻ thực thiện công nghiệp hóa. Do
quan điểm như vậy. Malaysia đã luôn tích cực cải thiện môi trường đầu tư của mình để
thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, dòng FDI đổ vào Malaysia ngày càng tăng và đã
đóng góp to lớn tạo ra sự tăng trưởng “thần kỳ” cả nền kinh tế nước này trong nhiều
năm qua.
Nhờ vào chính sách đầu tư thông thoáng, đầu tư nước ngoài của Malaysia
năm1991 đạt 6,4 tỷ USD và đến năm 1996 chiếm hơn ½ tổng số vốn đầu tư trong cả
nước. Các nước đầu tư lớn nhất vào Malaysia là Nhật Bản, Đoài Loan, tương ứng đạt
7,02 tỷ USD và 2,29 tỷ USD.
Mới 20 năm trước đây, Malaysia vẫn còn là nước xuất khẩu dầu thô, đầu thực vật, cao
su, chì, gỗ và các nguyên liệu khác, tỷ lệ của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất
khẩu chỉ đạt 22% vào những năm 1980. Nhưng từ năm 1996, tỷ lệ đó đã lên 80 % và hiện nay
Malaysia là một trong những trung tâm sản xuất điện tử cao cấp trên thế giới.
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Malaysia chủ yếu tập trung vào:
11
- Xây dựng hệ thống chính trị ổn định và đoàn kết dân tộc;
− Hệ thống giáo dục vững mạnh;
− Hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại;
− Có kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn với mục tiêu rõ ràng;
− Có chương trình khuyến khích đầu tư tích cực cho cả người đầu tư trong và
ngoài nước
Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của những nước đi trước,
đặc biệt là những nước Đông Nam Á, vì có những điểm tương tự với nước ta. Từ đó, có
thể học cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà các nước này
đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chính sách đầu tư hợp lý tạo đà cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tỷ trọng phân bố của các ngành khác nhau mang lại kết quả và hiệu quả khác nhau
Vốn đầu tư (tỷ trọng vốn đầu tư) cho các ngành, vùng kinh tế có ảnh hưởng trực
tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng, đồng thời ảnh hưởng
đến tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Đầu tư vốn mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn
bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hoàn thành cơ cấu đầu tư hợp lý.
Tăng trưởng kinh tê cao kết hợp với chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý đến tạo
nguồn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả.
12
Chương 2
Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế do sự tác động của đầu tư
Tổng quan nền Kinh tế quốc dân.
Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ,
của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu
ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư
lãng phí, không đem lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào công cuộc đổi mới quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực.
Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục và tăng cường công cuộc đổi mới kinh tế
trên nhiều lĩnh vực và đạt được những thành tựu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế – xã hội của
mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất
và phân công lao động quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành
tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm
trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006
(8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng
vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và
Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP
cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước
tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu
vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44
NLTS 4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0
CNXD 12,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4
DV 7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2008
Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP
13
khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0%/ so với 20,81% năm 2006,
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu
vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Nét mới
trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý
sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải,
du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO.
Do kinh tế tăng trưởng cao nên tình hình tài chính lành mạnh, thu chi ngân sách
nhà nước cân đối, bội chi ngân sách trong phạm vi Quốc hội cho phép. Theo Bộ Tài
chính, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt 287.900 tỉ đồng, vượt dự toán
cả năm (dự toán 281.900 tỉ đồng) và tăng 11,6% so với năm 2006. Các khoản thu có tỷ
trọng lớn đều đạt mức khá. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của mưa lũ, song nhiều khoản
thu chủ yếu như thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thuế công thương nghiệp và
dịch vụ ngoài quốc doanh, phí và lệ phí, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, thu từ nhà,
đất tăng khá. Một số khoản thu đạt khá so với dự toán, trong đó: thuế công thương
nghiệp ngoài quốc doanh; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 100,8%; thu
từ nhà và đất đạt 117,6% dự toán
Tổng số chi ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt dự toán năm. Bội chi ngân
sách cả năm ước đạt 5% GDP. Đến nay ngân sách trung ương đã cấp chuyển 100% dự
toán chi bổ sung cân đối cho các địa phương, trong đó một số địa phương có khó khăn
đã được cấp đủ 100% trợ cấp cân đối ngân sách theo dự toán để chủ động nguồn xử lý
các nhiệm vụ chi trong tháng cuối năm. Bên cạnh đó, việc bảo đảm lương thực cho công
tác cứu trợ nhân dân và kinh phí để hỗ trợ các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ gây ra
cũng được chú trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu đề ra.
2.1/ Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam
2.1.1/
Tổng quan về cơ cấu ngành kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
tích cực.
a)
Nổi bật là nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức tăng
trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế - xã hội.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7% (so với mục
tiêu đề ra 4,5 - 5%), trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4%, ngư nghiệp 8,4%.
Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa
hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loại giống lúa mới đã được sử dụng trên 87% diện
tích gieo trồng. Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân hàng năm trên 1,6 triệu tấn;
14
lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến
bước đầu được hình thành; sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm 1995, diện
tích một số cây công nghiệp tăng khá: cà phê gấp hơn 2,7 lần, cao su tăng 46%, mía tăng
khoảng 35%, bông tăng 8%, thuốc lá tăng trên 18%, rừng nguyên liệu giấy tăng 66%, Một
số loại giống cây công nghiệp có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất đại trà.
Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu
đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ha năm 2000.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2000 ước trên 1,4 triệu
tấn, bằng 1,4 lần so với năm 1995.
Nghề nuôi, trồng và đánh bắt thủy hải sản phát triển khá. Sản lượng thủy sản
năm 2000 đạt trên 2 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1,6 - 1,7 triệu tấn; xuất khẩu đạt
1.475 triệu USD.
Công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng có tiến bộ. Trong 5 năm đã trồng
1,1 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi tái sinh 700
nghìn ha. Độ che phủ tăng từ 28,2% năm 1995 lên 33% năm 2000.
Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, gấp hơn 1,7 lần năm
1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu cả nước; đã tạo
được 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ 2 thế giới), cà phê (đứng thứ 3) và
hàng thủy sản chiếm 34% trị giá kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Những thành tựu đạt được nêu trên là kết quả thực hiện các chính sách đổi mới
về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh đầu tư, ứng dụng những tiến bộ về
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường.
b) Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ.
Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm 13,5%; trong đó
công nghiệp quốc doanh tăng 9,5%, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5%, khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%.
Một số ngành công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lựa chọn các
sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trường để đầu tư chiều sâu, đổi mới
công nghệ, đạt chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá: năm 2000 so với
năm 1995 công suất điện gấp 1,5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng gấp 2,1 lần (tăng 8,7
triệu tấn); phân bón gấp trên 3,0 lần (tăng 1,5 triệu tấn); thép gấp 1,7 lần (tăng 1,0 triệu
tấn); mía đường gấp hơn 5 lần (tăng hơn 60.000 tấn mía/ngày).
15
Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm 1995,
sản lượng dầu thô gấp 2,1 lần; điện gấp 1,8 lần; than sạch vượt ngưỡng 10 triệu tấn,
trong đó xuất khẩu trên 3,0 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; xi măng gấp hơn 2 lần; vải
các loại gấp 1,5 lần; giấy các loại gấp 1,7 lần,
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu, thủ công nghiệp) tăng nhanh, năm
2000 đạt 10,0 tỷ USD, gấp hơn 3,4 lần năm 1995, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước.
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản
phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công
nghệ hiện đại. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác dầu thô, khí tự nhiên và dịch vụ
khai thác dầu khí chiếm khoảng 11,2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, công nghiệp
sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm khoảng 20,0%, công nghiệp sản xuất và phân
phối điện, khí đốt, hơi nước chiếm khoảng 5,4%.
Ngành xây dựng đã tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, trang bị thêm nhiều thiết
bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công
nghiệp, có thể đảm đương việc thi công những công trình quy mô lớn, hiện đại về công
nghệ; năng lực đấu thầu các công trình xây dựng cả trong và ngoài nước được tăng
cường.
Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng, tấm lợp; cơ bản đáp ứng được nhu cầu về thép xây
dựng thông thường. Một số loại vật liệu xây dựng chất lượng cao (gạch lát nền, gạch ốp
lát) sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn châu Âu và khu vực.
c)
Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp phần
tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống.
− Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm.
− Thương mại phát triển khá, bảo đảm lưu chuyển, cung ứng vật tư, hàng hóa
trong cả nước và trên từng vùng. Thương mại quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng
nắm bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu; mạng lưới
trao đổi hàng hóa với nông thôn, miền núi bước đầu được tổ chức lại. Tổng mức hàng
hóa bán lẻ tăng bình quân 6,2%/năm (đã loại trừ yếu tố biến động giá).
− Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được nâng lên.
Tổng doanh thu du lịch tăng 9,7%/năm.
− Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hóa và đi lại
của nhân dân. Khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 12%/năm và luân chuyển hành
khách tăng 5,5%/năm.
16
− Dịch vụ bưu chính - viễn thông có bước phát triển và hiện đại hóa nhanh.
− Giá trị doanh thu bưu điện tăng bình quân hàng năm 11,3%.
− Các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, được mở rộng. Thị
trường dịch vụ bảo hiểm đã được hình thành với sự tham gia của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước; dịch vụ tài chính, ngân hàng đã có những đổi mới quan trọng, tăng
bình quân hàng năm 7,0%.
− Các loại dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ, bắt đầu
phát triển.
2.1.2/
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi
mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu
quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế, xã hội;
năm 2000 đã đóng góp vào khoảng 39% GDP.
Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, nhiều hợp tác xã hoạt
động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp với các cơ sở
chế biến đã ra đời, thu hút đáng kể lực lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn; đóng
góp khoảng 8,5% GDP năm 2000.
Đến năm 2000, tỷ trọng khu vực kinh tế Nhà nước trong GDP vào khoảng 39%;
khu vực kinh tế tập thể 8,5%; khu vực kinh tế tư nhân 3,3%; khu vực kinh tế cá thể
32%; khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9% và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
13,3%.
Kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất
giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước đang phát triển trong một số lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh; đóng góp khoảng 3,9% GDP năm 2000.
Kinh tế cá thể trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào các thành
tựu kinh tế - xã hội; năm 2000 đóng góp khoảng 32% GDP.
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng
phạm vi hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội; đóng góp khoảng 3,3% GDP
năm 2000.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có bước phát triển khá, tạo thêm
một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm. Đến năm
2000, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 13,3% GDP.
17
Các vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa
phương, các đô thị, các địa bàn, lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm ở ba
miền đang được xây dựng và hình thành từng bước.
Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng trên 9% GDP của
cả nước; vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 19%; Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền
Trung khoảng gần 15%; vùng Tây Nguyên gần 3%; vùng Đông Nam Bộ khoảng 35%
và đồng bằng sông Cửu Long khoảng 19%.
Các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước; 75-
80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị gia tăng khu vực dịch vụ. Nhịp độ
tăng trưởng của các vùng trọng điểm đều đạt trên mức trung bình cả nước, đóng vai trò
tích cực lôi cuốn và kích thích các vùng khác cùng phát triển.
2.2/ Tình hình đầu tư và huy động vốn đầu tư ở nước ta
Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 440 nghìn tỷ
đồng, tương đương gần 40 tỷ USD (theo mặt bằng giá 1995), tốc độ tăng bình quân
8,6%/năm; trong đó: vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22,7%; vốn tín dụng
đầu tư chiếm 14,2%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,8%; vốn đầu tư
của tư nhân và dân cư chiếm 21,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24%.
Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 60% tổng vốn đầu
tư, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp
và nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa
học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội được tập trung cho nông nghiệp khoảng 11,4% so
tổng nguồn; các ngành công nghiệp khoảng 43,7%, trong đó đầu tư cho các ngành công
nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chiếm khoảng 30,0% tổng vốn
đầu tư ngành công nghiệp; giao thông vận tải và bưu chính - viễn thông khoảng 15,7%;
lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa khoảng 6,7%; các
ngành khác (công cộng, cấp thoát nước, quản lý nhà nước, thương mại, du lịch, xây
dựng ) khoảng 22,5%.Do điều chỉnh chính sách và cơ cấu đầu tư, nên quy mô đầu tư ở
các vùng đều tăng. So với 5 năm trước, vốn đầu tư cho vùng miền núi phía Bắc gấp trên
1,8 lần, vùng đồng bằng sông Hồng gấp 1,3 lần; vùng Bắc Trung Bộ gấp 1,5 lần; vùng
Duyên hải miền Trung gấp 1,7 lần, vùng Tây Nguyên gấp 1,9 lần, vùng Đông Nam Bộ
gấp 1,7 lần và vùng đồng bằng sông Cửu Long gấp gần 2 lần.Riêng nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách Nhà nước, ước thực hiện trong 5 năm (1996-2000) khoảng 100 nghìn tỷ đồng
(theo giá 1995), đã tập trung hơn cho lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội;
18
trong đó đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp khoảng 22,5%; cho công nghiệp 9,5%; cho
giao thông vận tải và bưu chính - viễn thông 29,8%; cho khoa học và công nghệ, giáo
dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao 18,7%, cho các ngành khác 19,5%.
Nhờ tăng đầu tư, số công trình được đưa vào sử dụng và năng lực của hầu hết
các ngành tăng nhiều, kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt
và tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau năm 2000
Trong 5 năm 1996-2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (không kể phần
góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá 1995), gấp 1,5 lần so với 5 năm
trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng
so với thời kỳ trước 34%.
Cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta; tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật
chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% vào năm 2000.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU),
ASEAN có chiều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án từ EU
bình quân chiếm 23,2% thời kỳ 1991 - 1995, tăng lên 25,8% thời kỳ 1996 - 2000; tỷ lệ
vốn đăng ký các dự án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ 17,3% lên 29,8%).
Riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp
trên 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên
35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành
xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bước mở rộng đầu tư ra nước
ngoài. Đến nay, đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ, chủ yếu trong các
ngành xây dựng, chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ Tuy quy mô còn nhỏ, nhưng qua
hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện nâng cao hiệu quả,
đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và lao động ra nước ngoài.
Hàng năm, nguồn vốn ODA cam kết tăng đáng kể; việc giải ngân ngày càng
được cải thiện. Tính chung trong 5 năm, nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện khoảng 6,1
tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như điện, giao thông, thủy lợi,
cấp thoát nước; phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo; phát triển y
tế, giáo dục và đào tạo; tăng cường năng lực và thể chế trong các lĩnh vực cải cách hành
19
chính, luật pháp, quản lý kinh tế; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất như chế biến thủy sản,
nông sản,
Nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã được đưa vào sử dụng, góp phần tăng
trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Bảng 2: Tình hình cụ thể về cơ cấu các nguồn vốn:
Đơn vị: %
Năm 1991-1995 1996-2000 1991-2000
Tổng số 100 100 100
- Vốn ngân sách nhà nước 23,59 21,87 22,5
- Vốn tín dụng đầu tư 6,14 15,57 12,1
- Vốn của các DNNN 10,89 16,15 14,22
- Vốn của dân cư và tư nhân 34,94 22,49 27,07
- Vốn đầu tư trực tiếp NN 24,44 23,92 24,11
Trong tổng nguồn vốn đầu phát triển kinh tế xã hội, nhà nước chỉ điều hành trực
tiếp và chủ động nguồn vốn ngân sách nhà nước để bố trí cơ cấu đầu tư theo kế hoạch,
nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 22% so với tổng nguồn đầu tư xã hội và khoảng 5- 6%
GDP mà khoảng 40% nguồn vốn này là khoản vay ODA đưa vào ngân sách để đầu tư. Đối
với nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước
tự đầu tư thông qua việc huy động khấu hao tài sản cố định, đất đai, nhà xưởng chưa sử
dụng, thì Nhà nước điều hành có mức độ; hai nguồn vốn này chiếm khoảng 17% thời kỳ
1991-1995 và 31,72% thời kỳ 1996-2000. Như vậy chung cho cả 3 nguồn vốn mà Nhà
nước có thể điều hành với những mức độ khác nhau chiếm khoảng 49% so với tổng nguồn,
còn tất cả các nguồn vốn khác điều hành gián tiếp thông qua cơ chế, chính sách.
Tỷ lệ huy động vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng nhanh hơn so với thập kỷ
80, nhưng chưa ổn định: năm 1990 là 16,1%, năm 1991 là 17,6%, năm 1992 là 22,4%,
năm 1993 là 30,9%, năm 1994 là 31,9%, năm 1995 là 29,7%, năm 1996 là 29,2%, năm
1997 là 30,9%, năm 1998 là 26,7%, năm 1999 là 26,6%, dự kiến năm 2000 là 27,9%.
2.3/ Tác động của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế Việt Nam
2.3.1/ Đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những khiếm khuyết
lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp là cố gắng hình
thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo
theo tình trạng đầu tư lãng phí, không đem lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào công cuộc
đổi mới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết
20
quả rất tích cực. Nhờ vậy, chỉ sau 3 năm của thời kỳ phôi thai về kinh tế thị trường (từ
1987 - 1989) nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá trong những năm
1990 - 1997. Mọi dự kiến của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 đều được thực hiện vượt
mức khá cao. Trong thời kỳ khủng khoảng tài chính tiền tệ ở các nước châu Á, tuy tốc
độ tăng trưởng của nước ta có sự giảm sút, nhưng về cơ bản chúng ta vẫn tránh được
"cơn bão" của cuộc khủng khoảng, để sau đó tiếp tục tăng quy mô GDP của đất nước,
tăng xuất khẩu, phát triển công nghiệp, trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao
trong khu vực và trên thế giới
Trong đầu tư, yếu tố vốn giữ một vai trò quan trọng, tác động lớn đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bảng 3: Vốn đầu tư toàn xã hội trong 10 năm từ 1995 đến 2005 (theo giá thực tế).
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng vốn đầu tư 72447 8739 108270 117134 131171 151182 170496 199105 231616 275000 335000
0
5 0 0 0 0
1 0 0 0 0 0
1 5 0 0 0 0
2 0 0 0 0 0
2 5 0 0 0 0
3 0 0 0 0 0
3 5 0 0 0 0
1
9
9
5
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2
2
0
0
3
2
0
0
4
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
1 9 9 5
1 9 9 6
1 9 9 7
1 9 9 8
1 9 9 9
2 0 0 0
2 0 0 1
2 0 0 2
2 0 0 3
2 0 0 4
2 0 0 5
2 0 0 6
2 0 0 7
Nguồn: TCCK
Từ bảng 3 ta thấy rằng, vốn đầu tư toàn xã hội trong 10 năm qua tăng đáng kể.
Nhìn chung vốn đầu tư tăng đều qua các năm. Sau 10 năm 72447 tỷ đồng năm 1995 đến
năm 2005 đã là 335000 tỷ đồng ( tăng gấp 4 lần). Năm 2005 so với 2001 là 1,96 lần,
tăng gấp đôi.
Bảng 4: Vốn đầu tư cho các ngành kinh tế trong tổng đầu tư xã hội, 2001 – 2005
(theo giá thực tế).
Vốn đầu tư theo giá thực tế phân chia theo ngành kinh tế (Tỷ đồng)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
21
Tổng số 151183 170496 199105 231616 275000 335000
Nông nghiệp và lâm nghiệp 17218 13629 14529 16533 19700 24000
Thuỷ sản 3716 2513 2919 3043 3600 4400
Công nghiệp khai thác mỏ 9588 8141 7923 10981 13100 16000
Công nghiệp chế biến 29173 38141 45102 49431 59300 72200
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt
và nước
16984 16922 20835 24091 28300 34500
Xây dựng 3563 9046 10435 11141 13100 16000
Thương nghiệp; sửa chữa xe có
động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng
cá nhân và gia đình
3036 7953 11900 14290 17000 20700
Khách sạn và nhà hàng 4453 3975 3827 4095 4800 5900
Vận tải; kho bãi và thông tin liên
lạc
19913 26999 32230 37008 44300 54000
Tài chính, tín dụng 1303 2018 1114 1920 2200 2700
Hoạt động khoa học và công nghệ 1883 1936 692 1117 1300 1600
Các hoạt động liên quan đến kinh
doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
4031 1735 2598 3490 4000 4900
QLNN và ANQP; đảm bảo xã hội
bắt buộc
3914 3854 3476 4819 5600 6800
Giáo dục và đào tạo 6084 6225 5851 4891 8200 10000
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 2323 2770 3190 4231 5000 6100
Hoạt động văn hóa thể thao 2812 2228 3014 4152 4900 6000
Các hoạt động Đảng, đoàn thể và
hiệp hội
793 342 394 355 400 500
Hoạt động phục vụ cá nhân, cộng
đồng và các hoạt động khác
20400 23071 29078 34030 40200
Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo ngành :
Đơn vị: %
1991-1995 1996-2000 1991-2000
Tổng số 100 100 100
22
Trong đó:
- Nông nghiệp, Thuỷ lợi, Lâm nghiệp, Thuỷ sản 8,5 11,41
- Công nghiệp 38,42 43,76 41,85
- Giao thông, Bưu điện, 14,03 15,76 15,14
- Khoa học Công nghệ 0,24 0,39 0,34
- Giáo dục đào tạo 1,71 2,10 1,96
- Y tế xã hội 0,87 1,52 1,29
- Văn hoá thể thao 1,09 1,22 1,17
−Đầu tư cho công nghiệp tỷ trọng căn bản và có xu hướng tăng.
−Đầu tư cho nông nghiệp có gia tăng về số lượng nhưng tỷ trọng có phần giảm xuống.
−Đầu tư cho dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn.
−Tuy nhiên, việc đầu tư vào nguồn vốn nước ngoài là chủ yếu.
−Các dịch vụ đang được đánh giá cao như tài chính, tín dụng chưa được đầu tư
thoả đáng (xấp xỉ 5.1% trong tổng vốn đầu tư)
−Các chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư hợp lý đã góp phần tác động tích
cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bảng 6: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001 – 2005 (%)
Năm 1990 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2005
GDP 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nông - lâm - thủy sản 38,74 27,18 25,77 24,53 23,24 23,03 22,54 21,8 20,9
Công nghiệp và xây
dựng
22,67 28,76 32,08 36,73 38,13 38,49 39,47 40,2 41,0
Dịch vụ 38,59 44,06 42,15 38,73 38,63 38,48 37,99 38,0 38,1
Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã từ 38.74% năm 1990 giảm xuống
20.9% năm 2005; trong đó, nông nghiệp đã từ 22,4% GDP giảm xuống còn 19,9%
GDP, sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các loại sản
phẩm cây trồng và vật nuôi có năng suất và hiệu quả kinh tế cao; lâm nghiệp giữ ở mức
1,3% GDP năm 2000, thủy sản chiếm khoảng 3% GDP.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP đã từ 22.67% năm 1990 tăng lên
41% năm 2005; trong đó các ngành công nghiệp khai thác từ 4,8% tăng lên 9,5% GDP;
công nghiệp chế tác từ 15,0% tăng lên 18,7% GDP; công nghiệp điện, hơi đốt, nước,
23
khoảng 2,9% GDP
Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP đã từ 38.59% năm 1995 giảm xuống còn
38.1% năm 2005; trong đó thương nghiệp chiếm khoảng 14,5% GDP; khách sạn nhà
hàng chiếm 3,2% GDP; vận tải, thông tin chiếm 4% GDP; kinh doanh tài sản, dịch vụ tư
vấn chiếm 4,3% GDP; tài chính, tín dụng chiếm 1,9% GDP; quản lý Nhà nước 2,7%
Bảng 7: Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP
Năm 1990 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Nông - lâm - thủy sản
0.387
4
0.2718 0.2577 0.2453 0.2324
0.230
3
0.2254 0.2180 0.2090
Công nghiệp 0.2267 0.2876 0.3208
0.367
3
0.381
3
0.384
9
0.394
7
0.4020 0.4100
Dịch vụ 0.3859
0.440
6
0.4215
0.387
3
0.386
3
0.384
8
0.379
9
0.380
0
0.3810
Phi nông nghiệp
0.612
6
0.7282 0.7423 0.7546
0.767
6
0.769
7
0.774
6
0.7820 0.7910
Sản xuất vật chất
0.614
1
0.5594 0.5785
0.612
6
0.613
7
0.6152
0.620
1
0.6200 0.6190
Cosθ
0
A
1 0.9787
0.973
7
0.9490
0.963
8
0.9629
0.960
9
0.9577 0.9537
Cosθ
0
B
1 0.9944
0.997
6
1
Cosθ
0
A
Hệ số chuyển dịch của hai ngành nông nghiệpvà phi nông nghiệp
Cosθ
0
B
Hệ số chuyển dịch của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất
Sử dụng số liệu kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc có thể tính được hệ số cosφ
tương ứng của nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 1985-2003 và 1970-
1988. Hệ số cosφ nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2003 là 0,924 và góc φ là
22
o
29’. Tương tự, hệ số cos của Hàn Quốc trong giai đoạn 1970-1988 là 0,9397403 và
góc φ là 20
o
. Với kết quả này có thể thấy mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1985-2003 cao hơn Hàn Quốc giai đoạn 1970-1988. Điều đó có thể do chính
sách Việt Nam giai đoạn 1985-2003 có tác động lớn hơn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
so với Hàn Quốc giai đoạn 1970-1988.
Với mục tiêu về cơ cấu kinh tế được đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam 2001-2010 là đến năm 2010 nông nghiệp chiếm tỷ trọng 16%, công
nghiệp 41%, còn dịch vụ là 43% thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam sẽ là
24
52
o
2’/năm. Còn với mục tiêu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại với cơ cấu kinh tế giả định tỷ trọng nông nghiệp là 5%, công
nghiệp 15% và dịch vụ là 80% thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam phải đạt
mức trung bình ít nhất là 44
o
5’/năm. Đây là tốc độ của việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo
chiều sâu khác với việc thay đổi cơ cấu theo chiều rộng trong giai đoạn đầu công nghiệp
hoá mà tốc độ chuyển dịch có thể đạt tới khoảng 6
o
/năm như đã đề cập. Tốc độ này đòi
hỏi có quy hoạch phát triển ngành hiện đại và đầu tư vào những ngành công nghệ cao
hơn là những ngành mang nặng tính truyền thống.
Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều
bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp
phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất
nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm (xem
bảng). Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng
từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004) và 23,4% (năm 2005); còn tỷ trọng
trong trồng trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng
tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và 74,5% (năm 2005). Điều đó thể hiện, nông nghiệp
của nước ta đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích
trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như
cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương , cây công nghiệp lâu năm: chè, cao
su, hạt tiêu, cây ăn quả ), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và tăng
xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông
nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn.
Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà
nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng
suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân.
Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến
nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới
36,73% (năm 2000) và 41,0% (năm 2005). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh của
tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính
theo giá thực tế) và sự giảm tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn
12,8%), tăng tỷ trọng của công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6%
25