Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.2 KB, 24 trang )

A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã giành được những thắng
lợi và thành tựu to lớn. Đó là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế quốc,
thực dân giành và bảo vệ độc lập dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơng ngừng cải thiện
đời sống của nhân dân, nâng cao vị thế của đất nước, làm sáng tỏ nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những thắng lợi và
thành tựu của cách mạng dân tộc ln gắn liền với q trình vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong hồn cảnh cụ thể của thời đại,
trên cơ sở thực tiễn Việt Nam.
Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo, những
quy luật của học thuyết Mác - Lênin vào quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Sự
vận dụng quy luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển
nền kinh tế đất nước nói chung và phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta nói riêng,
đã đạt được những kết quả to lớn. Đây là sự địi hỏi phải có những quan tâm của
Đảng, Nhà nước, của toàn dân tộc nhất là khi trên thế giới một nền kinh tế mới đang
hình thành và phát triển mạnh mẽ, đó là kinh tế tri thức, nền kinh tế ấy trước hết thể
hiện trình độ mới lực lượng sản xuất. Một trình độ có đặc trưng cơ bản là tri thức
đóng vai trị quyết định số một. Vì vậy sự vận dụng quy luật này vào nước ta hiện
nay là rất cần thiết và cấp bách.
Cùng với những thành tựu về công nghệ đã và đang tác động mạnh mẽ, sâu
sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người, đưa con
người đi vào thời đại kinh tế tri thức. Rất nhiều nước trên thế giới nhất là các nước
Tư bản Chủ nghĩa (TBCN) trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế tri thức. Việt
1



Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và
trên thế giới. Mặt khác chúng ta đang trên con đường tiến hành cơng cuộc Cơng
nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế, Việt Nam phải đặt mình việc phát
triển nền kinh tế tri thức để đưa nền kinh tế nước ta bắt kịp và phát triển cùng thế
giới.
Góp phần vào chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra mỗi cá nhân học
sinh, sinh viên nói riêng và thế hệ trẻ của Việt Nam nói chung cần phải đóng góp vốn
tri thức và phải nghiên cứu tri thức, để tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri
thức phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đất nước trong sự phát triển vận động
không ngừng của nền kinh tế tri thức .
Vì vậy, trong khn khổ bài tiểu luận này em xin trình bày vấn đề: “Vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay”.

2


B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Phương thức sản xuất
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất
biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định của sự sản xuất xã hội,
trong đời sống xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết cấu và những đặc điểm tương
ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội
cụ thể, sự thay đổi phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách
mạng. Trong sự thay đổi đó, các q trình kinh tế, xã hội... được chuyển sang một chất
mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác

nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng
của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã
hội nào. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động
nào" (1)
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành sản xuất trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Cách thức này một mặt biểu hiện trong việc sử dụng công
cụ lao động nhất định (sản xuất bằng cái gì). Mặt khác biểu hiện trong việc tổ chức hoạt
động sản xuất với những quan hệ sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất do hai mặt
kết hợp thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là
nội dung cịn quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản xuất.
1.1.1. Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là “quan hệ
song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của người với tự nhiên và quan hệ
của con người với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Nghĩa là
trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng
3


tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử
khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực
thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất
bao gồm người lao động với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình sản xuất, lao động của con người
và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng
sản xuất. Trong đó, “lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân,
là người lao động” (2).
Do đặc trưng sinh học - xã hội riêng có của mình, con người trong nền sản xuất

có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ bắp. Trong lao động sức mạnh và kỹ
năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng
trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ con người khơng phải là cái gì
siêu tự nhiên, mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch
sử lâu dài của xã hội lồi người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho
lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc
biệt là trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành
một nguồn kực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm: đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu
lao động có cơng cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận
chuyển bảo quản sản phẩm....
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm
biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động khơng phải là tồn bộ giới tự
nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người khơng
chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà cịn sáng tạo ra bản
thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan đến việc đưa những đối
tượng ngày càng mới hơn vào q trình sản xuất. Điều đó hồn tồn có tính quy luật bởi
chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động
chính là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các ngành công
nghiệp khai thác.

4


+ Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên
liệu. Loại này thường là đối tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của nhiều
đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có chất lượng
mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất đai, tự nhiên: “lao

động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất” (3).
Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự
tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động theo
mục đích của mình. Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật
chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất (nhà xưởng, kho tàng, bến bãi,
ống dẫn, băng chuyền, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc...).
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì cơng cụ lao động có ý nghĩa
quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo
Ph. Ăngghen là “ khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh của tri thức đã được vật
thể hóa” có tác dụng “ nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Cịn
Mác gọi là hệ thống xương cốt và cơ bắp của nền sản xuất. Công cụ lao động là vật thể
hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động.
Trong q trình sản xuất, cơng cụ lao động luôn luôn được cải tiến, tinh xảo hơn
để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó là yếu tố động nhất và cách
mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến đổi vá phát triển của cơng cụ lao
động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người
cũng tiến bộ, phong phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân cơng lao
động phát triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây
ra những biến đổi sâu sắc trong tồn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là
nguyên nhân sâu xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở xác định trình dộ phát
triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối
với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất
phát của sự phát triển tương lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.

5


Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi

chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình
đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa đến đâu, nhưng nếu tách
khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực
lượng sản xuất của xã hội.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã nêu một tư tưởng quan
trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội. C.Mác
viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của
mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi người thay
đổi tất cả quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh
chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội nhà tư bản công nghiệp” (4).
1.1.2. Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực lượng
sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã
hội - quan hệ của con người với tự nhiên; cịn khía niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt
thứ hai của quan hệ đó - quan hệ của con người với con người trong sản xuất. Sở dĩ quá
trình sản xuất xã hội có thể diễn ra bình thường, chính là vì trong sự sản xuất đó, mối
quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con
người với giới tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể
hiện thành những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó
được xây dựng trong và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức
là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác viết:
“Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để
trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và
quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất” (5).
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn
của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã
hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của
đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong q trình sản xuất xã hội ln gắn bó

6


với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không
ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là
một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều
hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trị và ý nghĩa riêng
biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới tồn bộ tiến trình
lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu - là đặc trưng cơ bản của phương
thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế - xã hội xác
định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ln ln có vai trị quyết định đối với tất cả
các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ
trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu - quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn
trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ
thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy
định cách thức mà các tập đoàn tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Cuối cùng, chính
quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn
người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. “Định nghĩa quyền sở hữu tư
sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư
sản” (6)
Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất, quan hệ
về quản lý và phân công lao động và quan hệ về phân phối sản phẩm. Ba mặt của quan
hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản
xuất giữa vai trò quyết định đối với những mặt khác. Trong hệ thống sản xuất xã hội,
người được sở hữu tư liệu sản xuất thì có quyền quyết định q trình tổ chức phân cơng
lao động và phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình. Cịn người khơng được sở
hữu tư liệu sản xuất thì phục tùng sự phân cơng nói trên.

Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu tư nhân là hình thức mà
trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đại bộ phận những tư liệu sản xuất cơ
bản của xã hội, hình thức sở hữu này bị lợi ích cá nhân tri phối quá trình sản xuất. Sở
hữu xã hội là hình thức sở hữu của cá nhân liên kết thành các tập thể sở hữu. Hoặc tư
7


liệu xã hội cộng sản nguyên thủy các công xã thời cổ, sở hữu XHCN. Trong sở hữu xã
hội, lợi ích tập thể của xã hội chi phối nền sản xuất xã hội.
1.2. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà
tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài
người - Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan hệ sản
xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất. Bản chất của quy luật này là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất.
1.2.1. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng
tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Do vậy, lực lượng sản xuất là
yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất: Trình độ
của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử lồi người thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình độ của
lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thơng qua việc sử dụng cơng cụ lao
động thực hiện q trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát
triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở:
+ Trình độ tổ chức lao động xã hội.
+ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.

+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
+ Trình độ phân cơng lao động - Trình độ của phân cơng lao động thể hiện rõ
ràng nhất trình độ của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, cịn có khái niệm tính chất
của lực lượng sản xuất. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích lực
lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính chất của lực lượng sản
xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính
chất của tư liệu sản xuất và lao động. Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện
8


tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng cơng cụ thủ cơng và tính chất của lao động là
lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một
người sử dụng để sản xuất vật dùng, không cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất
có tính chất cá nhân.
Khi máy móc ra đời địi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra
một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của nhiều người. Mỗi người làm một bộ phận
cơng việc mới hồn thành được sản phẩm ấy cho nên lực lượng sản xuất mang tính chất
xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “ không thể biến những tư liệu
sản xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến
chúng từ chỗ là tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu sản xuất xã
hội, chỉ có thể được sử dụng chúng bởi một số đông người” (7). Trên thực tế, tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
1.2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước, sau đó
hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với nội dung , hình thức khơng
phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với việc phát triển của nội dung.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động, cách mạng trong phương thức sản xuất vì

trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
ln ln tìm cách cải tiến, hồn thiện cơng cụ lao động và chế tạo ra những công vụ
lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì
kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con
người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng
nhất. Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng bảo thủ, ổn định. Do đó, những
thay đổi của phát triển sản xuất đều bắt nguồn sâu xa trước hết là sự tự biến đổi của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự phân cơng lao động xã hội do đó quyết định
quan hệ giữa các tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất thơng qua quyết định
q trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm.

9


Khi lực lượng sản xuất phát triển mâu thuẫn với quan hệ cũ đang kìm hãm nó, thì
nó địi hỏi phải được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để cho sản xuất phát
triển. Như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng quan hệ sản xuất khác do lực
lượng quy định chứ không phải do quan hệ sản xuất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành,
biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là
động lực cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng, lực lượng sản xuất ln
phát triển cịn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất
phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp với nó nữa, trở
thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai
mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ
quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
mới của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có
nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra đời của một

phương thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc đấu tranh giai
cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. C.Mác đã nhận
định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” (8), đó là nội dung quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất.
1.2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản
xuất đối với quan hệ sản xuất. Song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể
hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
mà lực lượng sản xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
10


Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực lượng sản xuất đúng
vị trí, chức năng làm cho chúng phát huy được tính năng, tác dụng của mình. Nhưng khi
quan hệ sản xuất khơng phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành “xiềng xích trói
buộc” đối với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Song tác
dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay
thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ chức sản
xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đồn sản xuất nào, tổ chức sản xuất vì lợi ích nào
và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là mọi mặt của quan hệ sản xuất

đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực lượng sản xuất trực tiếp.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản
xuất (thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống
tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối phần của
cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó, ảnh hưởng đến thái độ của
quảng đại quần chúng lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những
điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những
thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân cơng lao động....
Tóm lai, Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật chung cơ bản của q trình lịch sử lồi người nó tác động
trong những giai đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân căn bản của sự hình
thành và phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử.
Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai đoạn lịch
sử này sang giai đoạn khác. Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang phát triển sản xuất
chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi sang phương thức tư bản và
cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Sự tác động của quan hệ này
trong lịch sử đã xác định vai trò quy định của phát triển sản xuất trong sự hình thành và
phát triển của những cấu trúc xã hội nhất định.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau
11


từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng
phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất mà loài người đã biết
đến. Thực tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể,
một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương
thức sản xuất mới cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện
cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi phối sự vận động phát triển của tất cả các
nước; còn hình thức, bước đi cụ thể lại tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.


12


Chương 2:

VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nền kinh tế tri thức
2.1.1. Nền kinh tế tri thức là gì ?
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn cịn nơng nghiệp, cơng nghiệp nhưng hai ngành
này chiếm tỷ trọng thấp. Cũng như trong nền kinh tế cơng nghiệp vẫn cịn nơng nghiệp
nhưng nơng nghiệp nhỏ bé. Trong nền kinh tế tri thức chiếm đa số là các ngành kinh tế
dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học cơng nghệ. Đó có thể lẫn
ngành mới như cơng nghiệp không tên (công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần
mềm) các ngành công nghiệp, dịch vụ mới dựa vào công nghệ cao, và cũng có thể là
ngành truyền thống (nơng nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học
công nghệ cao.
Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế
quốc dân. Nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong đó nền kinh tế tri thức dựa trên những phát minh sáng chế ứng dụng linh hoạt của
tri thức. Người ta ước tính vào khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành các
nền kinh tế tri thức
2.1.2. Một số đặc điểm của nền kinh tế tri thức dựa trên chất xám là chủ yếu
Dưới mọi hình thức trong mọi góc độ tri thức vẫn có vai trị quan trọng trong sự
phát triển nền kinh tế tri thức của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đó là

nền kinh tế dựa trên chất xám là chủ yếu và nó có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn
lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực bị mất đi khi sử dụng,
tri thức thơng tin có thể được chia xẻ, và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh
tế tri thức do đó là một nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm. Sản phẩm và dịch

13


vụ có hàm lượng tri thức càng cao thì càng quí giá. Giá cả và giá trị của sản phẩm tri
thức thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào người sử dụng ở các thời điểm khác nhau.
Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả vốn, tài nguyên,
đất đai. Ai chiếm hữu được nhiều tài sản trí tuệ hơn, người ấy thắng. Pháp luật về sở
hữu trí tuệ trở thành một nội dung chủ yếu trong quan hệ dân sự cũng như trong thương
mại quốc tế. Rất nhiều vấn đề sở hữu trí tuệ được đặt ra sở hữu, vật chất không quan
trọng bằng. Nhiều ông chủ của các công ty công nghệ thông tin hiện nay thoạt đầu
khơng có vốn liếng gì, làm ra được tài sản khổng lồ là nhờ tri thức. Nếu khơng được bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ thì họ khơng thể có được tài sản hàng trăm tỷ USD như thế.
Luật pháp, thuế và các rào cản khó áp dụng đơn độc trong khuôn khổ quốc gia. Tri thức
và thơng tin ln ln đi tới những nơi có nhu cầu cao nhất và rào cản ít nhất.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn 100
năm C.Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học và lực lượng
sản xuất. Người viết: “Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu xe lửa điện báo... tất cả
các thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra là sức mạnh
tri thức đã được vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức xã
hội chung đã biến thành lượng sản xuất với mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói
lên mức độ phụ thuộc và biến đổi của chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ
chung” (9).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa học tự
nhiên - kỹ thuật lẫn khoa học - xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con người tạo ra

thơng qua con người - nhân tố trung tâm - nhân tố chủ thể - đến lực lượng sản xuất. Nó
địi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ sự
tiến bộ nào của kỹ thuật (công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên những thành tựu của
khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.
Thứ hai, sự sáng tạo đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự
phát triển. Cơng nghệ đổi mới rất nhanh, vịng đời cơng nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc
ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một cơng nghệ chỉ mấy
năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải ln
đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây người

14


ta hay chọn những cơng nghệ đã chín muồi, cịn bây giờ thì phải tìm chọn các cơng
nghệ mới nảy sinh; cái chín muồi là cái sắp sửa tiêu vong.
Trong nền kinh tế tri thức có nhiều điều tưởng như nghịch lý; trước hết của cải
làm ra là dựa chủ yếu và cái chưa biết; cái đã biết khơng cịn giá trị nữa, tìm ra cái chưa
biết đó là tạo ra giá trị. Thứ hai, mơi trường để tìm ra cái chưa biết là mạng thông tin.
Mạng thông tin, thực tế ảo… gợi ra ý tưởng mới, những giải pháp mới đáp ứng các nhu
cầu mới. Thứ ba, là khi phát hiện ra cái chưa biết thì cũng tức là loại cái đã biết. Cái cũ
mất đi thay thế bằng cái mới; nền kinh tế, xã hội luôn đổi mới, cái mới càng ngày càng
nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát triển, sự tiến hóa của xã hội sắp tới, phát triển từ cái
mới chứ không phải từ số lượng lớn dần lên. Thứ tư, là sản phẩm giá trị sử dụng càng
cao thì giá bán càng rẻ, thậm chí nhiều phần mềm cơ bản được cho khơng, (để rồi sau
đó nâng cao hơn một ít thì bán rất đắt); sản phẩm càng nhiều người dùng thì giá trị sử
dụng càng cao. Hiện nay vàng bạc hiếm thì q, song ở thời đại thông tin cái được dùng
nhiều nhất là cái có giá trị cao. Ví dụ máy Fax, nếu tính một cái thì khơng có tác dụng
nhưng khi có đến hàng nghìn máy để liên lạc với nhau thì lúc đó mới có giá trị. Mạng
cũng vậy, có nhiều người vào cùng sử dụng thì lúc ấy nó mới có giá trị.
Thứ ba, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tồn cầu hóa. Thị trường và sản phẩm

mang tính tồn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng
có mặt khắp nơi trên thế giới; rất ít sản phẩm do một nước làm ra, mà cũng là quá trình
chuyển sang nền kinh tế tri thức, tồn cầu hóa và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn
quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện
đại. Tồn cầu hóa một mặt tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh kinh tế tri thức khoảng
cách giàu nghèo đang tăng nhanh, do chênh lệch nhiều về tri thức, nếu rút ngắn được
khoảng cách về tri thức thì sẽ thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo.
Thứ tư, là sự thách thức đối với văn hóa. Trong nền kinh tế tri thức xã hội thơng
tin, văn hóa có điều kiện phát triển nhanh và văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội. Do thơng tin, tri thức bùng nổ, trình độ nền văn hóa nâng cao, nội dung
và hình thức các hoạt động văn hóa phong phú đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hóa
của người dân lên cao. Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời, nhất là Internet, một
sáng tác ra đời sẽ đồng thời lan truyền đến mọi nơi trên thế giới. Giao lưu văn hóa hết

15


sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hóa có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân
loại để phát triển nền văn hóa của mình.
Nhưng mặt khác các nền văn hóa đứng trước những rủi ro rất lớn; bị pha tạp, dễ
mất bản sắc dễ bị các sản phẩm văn hóa độc hại tấn cơng phá hoại, mà rất khó khăn
chặn được. Nền văn hóa bị pha tạp lai căng khơng cịn là chính mình nữa thì sẽ suy
thối, tiêu tan. Nhiệm vụ giữ gìn, phát huy bản sát văn hóa mỗi dân tộc trở nên rất nặng
nề. Cái chính là phải giáo dục truyền thống, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đủ sức mạnh nội sinh.
2.2. Vận dụng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển
của lực lượng xuất trong phát triển nền kinh tế trí thức ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Nền kinh tế tri thức nhìn từ góc độ lực lượng sản xuất
Lao động cơ bắp đang từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ, những lao
động cơ bắc khơng mất đi. Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra

những giá trị sử dụng đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Bởi vậy, ngay khi con
người hoạt động sản xuất của họ đã có hai phần: lao động cơ bắp và lao động trí tuệ.
Cùng với sự phát triển của xã hội đặc biệt là sự phát triển của cách mạng công nghiệp,
cách mạng khoa học kỹ thuật rồi của cách mạng khoa học cơng nghệ, cũng như để sử
dụng có hiệu quả những thành tựu do các cuộc cách mạng mang lại, năng lực trí tuệ của
người lao động khơng ngừng được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ tạo ra q
trình sản xuất và được kết tinh ở những sản phẩm ngày càng tăng.
Như vậy hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm khơng cịn là công việc của riêng
người lao động mà là của cả một bộ phận ngày càng tăng lên giữa những người trực tiếp
quản lý quá trình sản xuất, những kỹ sư, những nhà công nghệ. Mặc dù tri thức đã trở
thành nhân tố quan trọng hàng đầu của sản xuất và quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng nguyên
lý xét đến cùng, sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở của quan hệ sản xuất
cần giữ vai trò.
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư
liệu sản xuất có sự thay đổi. Trong các nền kinh tế trước đối tượng lao động chủ yếu là
những bộ phận của tự nhiên. Trong nền kinh tế tri thức, đối tượng lao động ngày càng là
sản phẩm của lao động, của khoa học công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong
đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một nền kinh tế kiêm tài nguyên, không phụ thuộc
16


một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên tự nhiên mà phụ thuộc vào tài nguyên con
người với năng lực trí tuệ cao.
Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra theo quy luật phủ định của phủ
định. Trước kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, sự tách rời giữa người sản xuất và người quản lý ngày một gia tăng
sự khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắt. Giờ đây chính sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất, ở trình độ trí tuệ hóa cao q trình sản xuất, đã và đang diễn ra sự xích
lại gần giữa người lao động và người quản lý. Trong nền kinh tế tri thức, khơng ít
trường hợp người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó, mặt quản

lý ngày càng có ưu thế hơn mặt lao động trong việc tạo ra sản phẩm. Những thay đổi đó
làm cho những yếu tố tạo ra giá trị mới được kết tinh trong sản phẩm thặng dư mà biểu
hiện dưới hình thức giá trị là giá trị thặng dư cũng khơng hồn tồn như cũ.
Trí tuệ tự nó mang tính xã hội rất cao và thậm chí cịn mang tính nhân loại. Do
vậy, khi nói về những bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức,
chúng ta thấy nổi lên một đặc điểm hết sức quan trọng là tính xã hội hóa quốc tế hóa rất
cao. Những đặc điểm và tính chất mới đó của lực lượng sản xuất quyết định và đòi hỏi
nội dung mới có tính chất mới quan hệ sản xuất và cơ cấu của nền kinh tế tương ứng.
2.2.2. Nền kinh tế tri thức xét từ góc độ quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế
Tri thức hiện nay đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu, các nhân tố truyền
thống là đất đai, lao động và tư bản khơng biến mất, nhưng tầm quan trọng của nó
khơng còn như trước nữa. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức đã tạo ra cơ chế
thuận lợi tăng dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống lại tuân theo quy luật lợi
nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng thực tế, bởi chính cơng nghệ thông tin một bộ
phận quan trọng một nền kinh tế tri thức đã trở thành phương tiện giải pháp các tiềm
năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi con người, thành công cụ khuyếch đại và
mạnh của não giống như công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp khuếch đại sức
mạnh của cơ bắp.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng
đầu trong lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nên doanh
nghiệp nào nắm vững quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng cơng nghệ mới, sáng tạo ra sản
phẩm mới sẽ thu được tỉ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình.
17


Điều có phần quan trọng hơn là trong xã hội tri thức, người lao động làm thuê tức
là người công nhân tri thức, lại là người sở hữu công cụ sản xuất trí tuệ của bản thân họ.
Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phẩm có tính lũy tuyến và rất khó
kiểm sốt, tri thức là một sản phẩm không bị cạn kiệt khi xây dựng có thể vơ số người
sử dụng một tri thức mà khơng ai mất phần, tri thức có thể thuộc quyền sở hữu nhiều

người, hơn nữa càng nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, dịng tri thức chuyển hóa nhanh khắp thế giới, lợi
ích thu được từ tri thức khơng nhất thiết sẽ thuộc về nơi đã phát minh ra chúng mà tùy
thuộc vào tri thức và kỹ năng tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết đựơc
tồn bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ phận chủ yếu của lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế tri thức quy định tính tất yếu phải có hình thức sở hữu tương
ứng. Tác động kinh tế tri thức đối với tổ chức và quản lý rất rộng, trong đó nổi bật nhất
là chủ thể và đối tượng quản lý, ở đây là đại bộ phận là cơng nhân có học vấn. Việc áp
dụng các thành tựu khoa học cơng nghệ vào quản lý địi hỏi chủ thế quản lý nâng cao
trình độ về nhiều mặt.
2.3. Phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam ta
2.3.1. Chiến lược phát triển của Việt Nam là chiến lược dựa vào kinh tế tri thức
và vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức
Việt Nam ta hiện nay đang phấn đấu để nâng cao nhanh chóng trình độ, tri thức,
tăng cường nội lực về khoa học và công nghệ, nắm bắt vận dụng hiệu quả các thành tựu
khoa học và công nghệ nắm bắt vận dụng hiệu quả các thành tựu khoa học mới nhất để
hoàn thành thắng lợi cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Chúng ta có thế mạnh về tiềm năng con người, “chỉ số phát triển con người HDI
nước ta đứng thứ 100/177 nước và thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới. Việt
Nam đã hồn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ”

(10)

. Thực tế đã chứng minh

người Việt Nam nắm bắt và làm chủ nhanh các tri thức mới và các công nghệ hiện đại,
nhiều ngành mới xây dựng nhờ sử dụng các công nghệ mới tạo đã theo kịp trình độ
nước trong khu vực cho nên chúng ta cần thực hiện một số chính sách phát triển bằng

dựa vào con người, khoa học và cơng nghệ đó là chiến lược phát triển dựa vào tri thức.
18


Tập trung phát triển ngành công nghệ thông tin ngành đang là động lực chủ yếu
thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, và người Việt Nam ta có
nhiều khả năng những học sinh Việt Nam thi tin học quốc tế đạt giải rất cao lực lượng
người Việt Nam ở nước ngoài làm tin học khá đơng và giữ vị trí quan trọng. Việt Nam
cần tập trung phát triển công nghệ thông tin để thúc đẩy phát triển và hiện đại các
ngành, các lĩnh vực sản xuất dịch vụ nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý để phát triển
ngành công nghiệp thông tin là những ngành có giá trị thơng tin cao nhất, những ngành
trụ cột trong xã hội tương lai. Công nghệ thông tin trở thành ưu tiên hàng đầu trong
chiến lược phát triển của nước ta.
Trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế chúng ta cịn sử dụng các cơng nghệ truyền
thống nhưng đượ cải tiến bằng cac tri thức mới để tạo nhiều việc làm, tận dụng lao
động, đất đai tài ngun, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện cácđại hóa và nơng thơn xóa
đói giảm nghèo. Trong từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế cũng cần chọn những khâu
những đơn vị đi trước đi thẳng vào công nghệ mới nhất để thúc đẩy sự đổi mới toàn
ngành, toàn lĩnh vực, đã đầu tư mà là phải sử dụng công nghệ mới.
Ta đã chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chủ trương phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng, như vậy phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh về khoa học công nghệ của
Việt Nam, bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện đại đi nhanh vào kinh tế tri thức. Khơng
có đủ tri thức, khơng có khả năng vận dụng những công nghệ bãi thải công nghệ của các
nước khác. Ta phải tận dụng cơ sở vật chất hiện có, tận dụng cơ sở vật chất hiện có cũng
phải với tri thức mới, đến lúc rõ ràng là khơng có hiệu quả nữa thì phải chuyển sang làm
việc khác hoặc bỏ đi. Nước ta cơ sở vật chất cịn nhỏ bé nên cần phải áp dụng cơng
nghệ mới, và dầu tư nhiều cho khoa học công nghệ mới.
2.3.2. Giải pháp chủ yếu cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri thức
Thứ nhất, phải đổi mới cơ chế quản lý, phát huy mọi khả năng sáng tạo của

người dân, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy hết khả
năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất. Nhà nước quản lý bằng luật pháp, bằng
cơ chế chính sách, tạo mơi trường thuận lợi cho sự cạnh tranh lành mạnh; chăm lo phúc

19


lợi xã hội; giáo dục, khoa học… mà không nên can thiệp vào sản xuất kinh doanh; để
cho mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân phát huy hết quyền chủ động sáng tạo của mình.
Phải thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi thành phần kinh tế
như các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hiện nay cịn nhiều vướng mắc lúng túng trong
chính sách, mà chủ yếu là do nhận thức về mối quan hệ giữa cơ chế thị trường và sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được sáng tỏ. Nhiệm vụ
trung tâm hiện nay là phát triển lực lượng sản xuất, phải xây dựng và phát triển quan hệ
sản xuất sao cho thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Mọi người ai có khả năng góp
phần vào sự phát triển sản xuất thì phải được khuyến khích, phải thực sự khuyến khích
mọi người làm giàu; Nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập chăm lo phúc lợi xã hội,
tạo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi những người yếu thế.
Thứ hai, là chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và tiến hành một
cuộc cải cách giáo dục mới. Đây là yếu tố quyết định nhất thúc đẩy nước ta đi nhanh
vào kinh tế tri thức. Phải xây dựng những thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, có lý
tưởng, có khả năng sáng tạo, làm chủ được tri thức hiện đại, quyết tâm đưa nước ta lên
trình độ phát triển sánh kịp các nước. Khoảng cách với các nước phát triển chủ yếu là
khoảng cách về tri thức. Ta có thể rút ngắn được bằng xây dựng và phát triển mạnh nền
giáo dục tiên tiến phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mở rộng quan hệ hợp tác
giáo dục đào tạo và khoa học cơng nghệ với nước ngồi; tuyển chọn đưa đi đào tạo ở
các nước tiên tiến số lượng lớn cán bộ khoa học kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên
chiến lược.
Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học, công nghệ; phát triển kinh

tế tri thức, thực hiện tốt các chính sách, chủ trương đã nêu trong Báo cáo chính trị của
Đại hội XI (01/2011) về khoa học, công nghệ mà nhất là:
- Phát triển mạnh về khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ
yếu: nâng cao năng lực khoa học, công nhệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên
cứu ứng dụng.
- Phát triển năng lực khoa học công nghệ có trọng tâm, tập trung cho những
ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ sở vật chất, nguồn nhân
20


lực. Nhà nước tăng cường đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các nhiệm vụ, các sản phẩm
khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, phát huy mọi
nguồn lực, đặc biệt là của doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ.
- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, cộng nghệ, xem
đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học công nghệ.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khao học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật và cơng nghệ. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới
cơng nghệ quốc gia; có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đổi mới công nghệ. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu và phát triển trong
nước và tiếp nhận công nghệ ở nước ngoài.
- Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ
thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng
gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng và triển khai lộ trình phát
triển kinh tế tri thức đến năm 2020.
Thứ tư, là cải cách hành chính và tạo lập một khn khổ pháp lý mới có khả năng
thúc đẩy mọi khả năng sáng tạo, cho sản xuất "bung ra", đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp tri thức phù hợp với xu thế tồn cầu hóa mà
nước ta đang trong quá trình hội nhập. Điều này được thực hiện trên cơ sở xác định

đúng đắn vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế nhưng vai trò của Nhà nước trong việc
định hướng.

KẾT LUẬN

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến trong tồn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ Chiếm
21


hữu nô lệ, Chế độ phong kiến, chế độ Tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản là do
sự tác dộng của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất của
lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng phát triển hàm lượng
chất xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trị của người lao động có tri
thức lại càng quan trọng trong lực lượng sản xuất. V.I.Lênin đã chỉ ra: Lực lượng sản
xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động.
Con người khi làm chủ được những tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách
chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu
quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động
vốn, động viên khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ
nguyên liệu vật tư, do vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn.
Ngày nay, vai trò quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan
trọng. Do đó, các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ tri thức. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước
của các quốc gia, dân tộc. Đặc biệt ở nước ta, vấn đề này lại càng được coi trọng hơn
bao giờ hết. Con người Việt Nam đã từng làm được những điều kỳ diệu trong lịch sử

và con người Việt Nam chắc chắn cũng sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế
trong tương lai.

CHÚ THÍCH
(1) C. Mác và Ph. Angghen: Tồn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T.23, Tr. 269.
(2) V.I. Lê nin: Toàn tập, Nhà xuất bản. Tiến bộ, Mát cơ va, 1977, T.38, Tr.430
(3) U. Pet- Ty: Kinh tế chính trị, T.2
(4) C.Mác và Ph.Angghen: Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, Tr. 187.
(5) C. Mác và Ph. Angghen: Tồn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T. 6, Tr. 552.
22


(6) C. Mác và Ph. Angghen: Tồn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T. 4, Tr. 234.
(7) C. Mác và Ph. Angghen: Tồn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, T. 20, Tr. 373.
(8) C. Mác và Ph. Angghen: Tồn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T. 13, Tr. 15.
(9) C. Mác: “ Bản thảo kinh tế” C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập -Tiếng Nga, Tr. 125.
(10) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI của Đảng, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr. 88-89.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X,
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,

NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
5. www.tapchicongsan.org.vn

24



×