1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến
vượt bậc trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để có những thành công đó,
một phần rất quan trọng nhờ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung
và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng.
Tuy nhiên, hiện nay với xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức phát
triển như vũ bão trên quy mô toàn cầu. Nền kinh tế tri thức đã ảnh hưởng tới
tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Không có một
quốc gia nào muốn vươn lên mà nằm ngoài xu thế đó, ngay cả đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam. Nền kinh tế tri thức dần xuất hiện và có
những ảnh hưởng tới mọi mặt trong mọi hoạt động kinh tế. Chính vì vậy,
nghiên cứu về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trở thành một vấn đề hết sức cấp thiết.
Vì nếu chúng ta có một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, phát triển huy được
những lợi thế, tiềm năng của đất nước, phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế tri thức thì chúng ta sẽ tạo ra được những bước phát triển nhảy vọt, góp
phần nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu, đuổi kịp các
nước phát triển trên thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình để làm rõ hơn quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện mới - sự phát triển của nền kinh tế
tri thức.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, có một số công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức cũng như
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên những
2
nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển
kinh tế tri thức và các khía cạnh của nó chưa được nghiên cứu nhiều.
Có một số tác phẩm như: “Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội thế
kỷ XXI” của GS. TS. Ngô Quý Tùng, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và
phát triển các trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” của Đỗ Hoài Nam, “Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” của Lê
Duy Phong và Nguyễn Thành Độ v v
Tuy đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan nhưng quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức vẫn là một vấn đề mới, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu thêm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế, kinh tế tri thức, tác động của kinh tế tri thức với chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế và khái quát một số kinh nghiệm của vài nước láng giềng về chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức.
- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức ở nước ta và các phương hướng, giải pháp nhằm
thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, đối tượng nghiên cứu của luận văn
là vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích một số vấn đề chung và
kinh nghiệm quốc tế về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích, diễn giải, suy luận và tổng
hợp để làm rõ hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện
3
phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay và đề xuất các phương hướng, giải
pháp để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
(i) Hệ thống hóa lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tác
động của kinh tế tri thức đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
(ii) Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và đề xuất
phương hướng, giải pháp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
7. Bố cục luận văn
Với lý do lựa chọn và mục đích nghiên cứu như trên, luận văn này có
bố cục gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức.
- Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều
kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong điều kiện phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
“Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố
có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian
và thời gian nhất định, trong những điều kiện xã hội cụ thể, hướng vào thực
hiện các mục tiêu nhất định.” [12, tr.11].
Hệ thống kinh tế hợp thành cơ cấu kinh tế, thường được nghiên cứu
theo ba phương diện, tạo thành ba loại hình cơ cấu khác nhau:
- Cơ cấu ngành kinh tế.
- Cơ cấu thành phần kinh tế.
- Cơ cấu vùng lãnh thổ.
Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng hơn cả, nó được
hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất.
Trong cơ cấu ngành kinh tế có ba ngành hay còn gọi là ba khu vực chính. Đó
là: khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ.
Cơ cấu ngành kinh tế có thể hiểu là tổ hợp các ngành hợp thành các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc
dân. Đó là thước đo phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động của mỗi quốc gia.
Cơ cấu thành phần kinh tế được phân chia dựa trên chế độ sở hữu. Cơ
cấu thành phần kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy lực lượng sản suất và phân công lao
động xã hội phát triển.
Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ được hình thành dựa trên việc bố trí kinh
tế theo vùng địa lý. Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, xã hội riêng biệt của từng
vùng để phát triển các ngành kinh tế phù hợp.
5
Các loại hình cơ cấu kinh tế nói trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được hình thành và phát triển
dựa trên phạm vi vùng lãnh thổ. Ngược lại việc xác định cơ cấu vùng, lãnh
thổ hợp lý sẽ thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế không bao giờ cố định, bất biến mà liên tục thay đổi để
phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng quốc gia, ở mỗi một
giai đoạn nhất định. Sự thay đổi đó còn gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nền kinh tế muốn phát triển thì phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù
hợp. Sự chuyển dịch đó diễn ra nhanh hay chậm và theo chiều hướng nào tùy
thuộc vào các nhân tố chủ yếu là: Quy mô của nền kinh tế, mức độ mở cửa để
hội nhập của nền kinh tế với bên ngoài, lượng dân số, tài nguyên thiên nhiên,
nguồn vốn nhân lực, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa … của từng nước.
Ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu
hướng toàn cầu hóa, thế giới bước sang kỷ nguyên của kinh tế tri thức. Khoa
học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đã làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đi theo xu hướng tỷ trọng các ngành công nghệ kỹ thuật mới tăng lên
nhanh chóng và dần chiếm ưu thế, tỷ trọng các ngành truyền thống giảm dần.
Các quốc gia đi đầu trong những lĩnh vực công nghệ mới, đặc biệt là công
nghệ tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường sẽ giành vị trí thống trị, áp
đảo trong nền kinh tế khu vực và thế giới.
Điều đó làm cho các quốc gia khác cũng phải có các chính sách điều
chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu thế phát triển kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một yêu cầu khách quan, xuất phát
từ sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội, cách mạng hóa sản
xuất và chịu sự tác động của cách mạng khoa học, công nghệ.
6
Cơ cấu ngành kinh tế luôn phải chuyển dịch để phù hợp với sự biến đổi
của môi trường khoa học kỹ thuật bên ngoài. Một số ngành cũ mất đi, một số
ngành mới ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần trong
thời đại mới. Không bao giờ có cùng tốc độ tăng trưởng, phát triển cho tất cả
các ngành. Ngành nào thực sự cần thiết cho quốc tế dân sinh thì sẽ phát triển
ngày càng nhanh, và ngược lại có những ngành quy mô và tốc độ phát triển
ngày càng thu hẹp lại. Sự phát triển không đồng đều dẫn đến sự thay đổi cơ
cấu ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự vận động, phát triển
của các ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ tương tác
giữa chúng theo thời gian, dưới tác động của những yếu tố kinh tế, xã hội nhất
định của đất nước và quốc tế.
Trên tầm kinh tế vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là kết quả
của sự vận động, phát triển của ba ngành chính: Công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ.
Ở Việt Nam, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được xem là một yếu tố
quyết định tăng trưởng kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực
nông nghiệp để phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn để có quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng. Nếu không xây dựng
được một cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu hướng chung của thế giới, thì
chắc chắn quá trình phát triển kinh tế đất nước sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại.
1.1.4. Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn là một trong nhưng quốc sách
hàng đầu đối với mọi quốc gia trên thế giới. Việc xây dựng một chiến lược
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với điều kiện riêng của từng nước
7
là rất cần thiết. Có một chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp
thì nền kinh tế mới có điều kiện phát triển nhanh và bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đóng vai trò rất quan trọng đối với
sự phát triển của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trước tiên để
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống người dân như lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng Việc xây dựng các ngành trọng điểm, mũi nhọn
cũng rất cần thiết để có thể tập trung sức lực và vật lực, khai thác tối đa các
ngành có lợi thế cạnh tranh và giá trị cao trên thị trường, phục vụ cho xuất
khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ mạnh phục vụ cho việc cải tiến kỹ thuật,
công nghệ trong nước.
Xu thế của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay là chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghệ kỹ thuật cao
và ngành dịch vu, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, ưu tiên những ngành
tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành công vì có sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế đúng hướng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Nông, lâm,
ngư nghiệp giảm từ 24,3% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005. Công
nghiệp và xây dựng tăng từ 36,6% năm 2000 lên 41% năm 2005. Thương mại
và dịch vụ giảm nhẹ từ 39,1% năm 2000 xuống còn 38,1% năm 2005 [35,
36]. Điều đó đã làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với mức
bình quân 5 năm (2000-2005) đạt 7,5%, đứng thứ hai trong khu vực Đông Á.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể cuộc sống của
người dân. Việt Nam từ một nước thiếu ăn, thường xuyên phải nhập khẩu
lương thực, đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Nhưng bên cạnh những thành công thì quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn, thách thức. Như là
chưa đầu tư đúng mức cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, vẫn còn
8
nặng về công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Quá trình hiện đại hóa vẫn chưa
được quan tâm đúng mức, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Ngành công nghiệp chủ
yếu phát triển theo chiều rộng, tập trung vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao
động, chất lượng chưa cao và vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế.
Chính vì vậy làm cho sức cạnh tranh của hàng công nghiệp thấp, tình trạng
“thua trên sân nhà” diễn ra phổ biến. Chất lượng hàng nội thấp tất yếu dẫn
đến tâm lý “thích hàng ngoại”.
Ngành nông nghiệp vẫn còn sự chưa đồng bộ về mở rộng diên tích và
đầu ra của sản phẩm. Dẫn đến tình trạng sản phẩm nông nghiệp không có nơi
tiêu thụ, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người nông dân, tầng lớp
chiếm 70% dân số cả nước, làm cho người nông dân không những mất mùa
mà được mùa cũng khổ.
Các ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám cao phát triển chậm, đóng
góp vào GDP còn nhỏ.
Tất cả những điều đó đòi hỏi sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam cần diễn ra nhanh hơn, làm cho nền kinh tế đất nước giữ vững nhịp
độ tăng trưởng nhanh và chất lượng tăng trường ngày càng cao.
1.2. KINH TẾ TRI THỨC
1.2.1. Khái niệm về nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức trong những năm gần đây được nói đến rất nhiều, như
một biểu trưng xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế hiện tại và tương lai.
Thuật ngữ kinh tế tri thức không còn dừng lại trên sách vở, tài liệu tham khảo
dưới dạng học thuật mà tất cả các quốc gia kể cả quốc gia đang phát triển
cũng đã, đang hoạch định các chiến lược, mục tiêu cụ thể để đi đến nền kinh
tế tri thức.
Khái niệm thuật ngữ “kinh tế tri thức” được xác định theo các quan
điểm khác nhau. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD định nghĩa:
9
“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản
xuất, phân bổ và sử dụng tri thức và thông tin (OECD 1996).
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) định
nghĩa: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất,
phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho
quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế (APEC
2000).
Ngân hàng Thế giới (WB, 2000) đánh giá: “Đối với các nền kinh tế tiền
phong trên thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang
nghiêng về tri thức. Tri thức đã thực sự trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết
định mức sống - hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả
yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay thực
sự đã dựa vào tri thức”.
Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Chưa có một định nghĩa chính xác được
chấp nhận chung về nền kinh tế tri thức nhưng có thể nói rằng đặc trưng nổi
bật nhất của nền kinh tế tri thức là tri thức đã vượt qua những nhân tố sản xuất
truyền thống là vốn và sức lao động để trở thành nhân tố quan trọng nhất
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của quốc gia. Nói cách
khác đang có sự chuyển biến toàn cầu từ các nền kinh tế dựa trên bắp thịt và
tiền vốn chuyển sang nền kinh tế dựa trên trí não.
10
1.2.2. Những đặc trƣng chủ yếu của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tri thức hóa.
Kinh tế tri thức ra đời dẫn đến sự chuyển biến to lớn, sâu sắc về cơ cấu
kinh tế, về cách thức và các quy tắc hoạt động của nền kinh tế. Các ngành
kinh tế dựa vào tri thức phát triển nhanh, các ý tưởng đổi mới và công nghệ là
chìa khóa tạo ra việc làm và năng cao chất lượng cuộc sống.
Nếu trong nền kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu, trong nền kinh tế công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò chủ
yếu thì trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế tri thức giữ vai trò thống
trị. Nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt hàng hóa
và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và giá trị công nghiệp công nghệ cao tăng
rất nhanh kéo theo sự gia tăng việc làm và thu nhập từ ngành này cao hơn hẳn
các ngành khác. Kinh tế tri thức cũng là nền kinh tế văn phòng (người trực
tiếp sản xuất ra các sản phẩm trong các nhà máy ít đi, người làm việc trong
các văn phòng nhiều lên). Họ là những chuyên gia trong rất nhiều lĩnh vực:
Tin học, tài chính , y tế, ngân hàng…
Trong khối các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD
hiện nay hơn 60% lực lượng lao động là công nhân tri thức và tạo ra hơn 50%
tổng GDP của các quốc gia.[37]
Thứ hai, công nghệ sản xuất luôn đổi mới, mang tính sáng tạo cao.
Sáng tạo chính là linh hồn của kinh tế tri thức, không có sự sáng tạo thì
không có kinh tế tri thức, chính vì điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn
đổi mới. Các doanh nghiệp đều phải sản xuất theo công nghệ ngày một cao
hơn, sản phẩm có nhiều tính năng, công dụng và giá thành cạnh trạnh hơn.
Chính vì vậy khoa học và sản xuất luôn đi đôi với nhau, khó có thể tách rời,
không còn ranh giới rõ ràng giữa phòng thí nghiệm và nơi sản xuất. Kinh tế
tri thức là nền kinh tế mà nhà nghiên cứu và người công nhân nhập làm một.
11
Do tri thức đem lại siêu lợi nhuận biến một người từ hai bàn tay trắng
như Bill Gate sau 10-15 năm đã trở thành một tỉ phú USD nên đầu tư vào sản
xuất công nghệ, trong đó đặc biệt là đầu tư mạo hiểm tăng lên nhanh chóng.
Đầu tư mạo hiểm nhằm nghiên cứu triển khai tạo ra công nghệ mới. Và cái
nôi của sản xuất công nghệ chính là các khu công nghệ (technology park) - đó
chính là vườn ươm cho sự ra đời công nghệ mới. Thung lũng Silicon là ví dụ
thành công tiêu biểu cho một cách tổ chức để đi vào nền kinh tế tri thức.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi.
Công nghệ thông tin phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh
vực khác trong đời sống xã hội loài người. Nó làm tăng tốc độ, hiệu quả và
thời gian trao đổi dữ liệu, làm con người trở nên gần nhau và thế giới trở
thành một ngôi làng nhỏ bé.
Công nghệ thông tin góp phần làm cho nền kinh tế phát triển năng động
với các ứng dụng hiệu quả của nó như thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ
chức ảo, xí nghiệp ảo, học tập và làm việc từ xa…làm xóa nhòa khoảng cách
và không gian địa lý. Chính vì vậy nhiều người gọi kinh tế tri thức là kinh tế
số hay kinh tế mạng.
Thƣ tƣ, các doanh nghiệp vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để phát triển.
Hợp tác và cạnh tranh chính là cánh thức linh hoạt để các doanh nghiệp
từng bước nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ của mình, để chinh phục
người tiêu dùng. Hợp tác để trở thành các tập đoàn khổng lồ, mặt khác từ các
tập đoàn khổng lồ lại cơ cấu lại thành nhiều công ty mẹ - con để tăng hiệu quả
hoạt động. Nên hợp tác và cạnh tranh vừa đối lập vừa thống nhất trong thời
đại nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, kinh tế tri thức thúc đẩy hình thành một xã hội học tập.
Con người phải thường xuyên trau dồi kiến thức và tri thức cho mình,
để không bị lạc hậu trước thời cuộc. Mỗi người phải có chế độ học tập suốt
12
đời, không ngừng nâng cao tay nghề của mình để có được thu nhập và địa vị
cao hơn trong xã hội.
Đầu tư cho con người trở thành nguồn đầu tư có hiệu quả cao nhất và
xu hướng đầu tư vô hình (cho con người, cho giáo dục, khoa học, văn hóa - xã
hội…) cao hơn đầu tư hữu hình (cho cơ sở vật chất kỹ thuật). Vì chỉ có con
người mới có sự sáng tạo, mới tạo ra tri thức chứ không phải máy móc.
Thứ sáu, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức.
Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng, việc chia sẻ cho
càng nhiều người cùng sử dụng tri thức làm cho giá trị của tri thức đó tăng lên
chứ không giảm đi. Điều đó có thể mô tả bằng hình tượng: “Anh châm ngọn
nến của anh nhờ ngọn nến của tôi làm cho anh sáng lên mà tôi không bị tối
đi”. Vì vậy nền kinh tế tri thức chính là nền kinh tế dư dật chứ không phải nền
kinh tế khan hiếm.
Tri thức là vốn quý nhất nên phải có luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Có được điều đó thì mới kích thích sự sáng tạo và làm cho nguồn tri thức
ngày càng giàu có. Quốc gia nào có luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thực
thi luật càng cao thì quốc gia đó chính là nơi sản sinh tri thức một cách tốt
nhất.
Thứ bảy, sự đổi mới thƣờng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc
đẩy sự phát triển.
Trong nền kinh tế tri thức, vòng đời của sản phẩm rất ngắn chỉ tính
bằng tuần, bằng tháng nên sự đổi mới được coi trọng và trở nên cấp thiết hơn
bất kỳ nền kinh tế nào trước nó. Doanh nghiệp không đổi mới hay dậm chân
tại chỗ sẽ lâm vào tình trạng bị đào thải khỏi nền kinh tế.
1.2.3. Sự tác động của phát triển kinh tế tri thức đến chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế
Sự phát triển kinh tế tri thức có sự tác động rất lớn đến chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế. Nếu trong nền kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế được
13
hình thành chủ yếu từ nguồn lực tự nhiên (đất đai) và sức lao động của con
người. Còn trong nền kinh tế công nghiệp, lợi thế công nghệ và vốn lại được
đánh giá cao cùng với việc phát triển các ngành chế biến với giá trị ngày càng
lớn hơn, thì với sự phát triển của kinh tế tri thức lợi thế lớn nhất là kinh tế tri
thức từ tri thức sẽ tạo ra công nghệ với trình độ cao và tạo lợi thế cạnh tranh
trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Về cơ cấu kinh tế, trong kinh tế tri thức, nông nghiệp và công nghiệp
vẫn tồn tại và phát triển nhưng chiếm tỷ lệ ngày càng nhỏ, các ngành kinh tế
dựa vào tri thức và những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ phát
triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Sự phát triển khoa học
và công nghệ trong kinh tế tri thức tác động đến biến đổi các bộ phận truyền
thống trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia theo các hướng sau:
- Hiện đại hóa các ngành truyền thống: Nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ.
Các ngành truyền thống sản xuất ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu
thiết yếu của con người. Ngành nông nghiệp cung cấp cho con người lương
thực, thực phẩm, vải vóc…vẫn được duy trì để phục vụ cuộc sống con người
nhưng sẽ được áp dụng các phương pháp tiên tiến của thời đại kinh tế tri thức
như kỹ thuật gen, kỹ thuật vi sinh…góp phần tạo ra những sản phẩm có chất
lượng cao và năng suất vượt trội so với các phương pháp truyền thống truyền
lại từ ngàn năm nay.
Điều đó cũng tạo ra sự biến đổi xã hội sâu sắc khi càng ngày càng cần
ít người hơn để tạo ra một khối lượng sản phẩm nhiều hơn gấp hàng nghìn lần
thậm chí hàng triệu lần so với phương pháp truyền thống.
- Hình thành những ngành mới, những ngành đại diện cho nền
kinh tế tri thức.
Đó là những ngành, những doanh nghiệp chế tạo ra những sản phẩm
công nghệ mới với trình độ cao. Vì tính khác biệt, mới mẻ của nó, người ta
14
còn gọi là ngành sản xuất thứ tư. (Tuy nhiên, cách gọi này chưa thật sự phù
hợp vì mọi ngành đều có thể áp dụng công nghệ cao để gia nhập nền kinh tế
tri thức ở giai đoạn thích hợp).
Những ngành này có thể kể đến như:
+ Ngành công nghệ thông tin
+ Ngành công nghệ sinh học
+ Ngành công nghệ năng lượng mới và nguồn năng lượng tái
sinh
+ Ngành công nghệ kỹ thuật cao có lợi cho môi trường
+ Ngành công nghệ vật liệu mới
+ Ngành khoa học kỹ thuật không gian
+ Ngành khoa học kỹ thuật hải dương
+ Ngành khoa học kỹ thuật mềm. [20, tr. 109-115]
Các ngành khoa học kỹ thuật cao nêu trên về cơ bản khác với các
ngành khoa học số học, vật lý, hóa học, thiên văn địa lý và sinh vật trước đây
vì nó không lấy việc tìm kiếm tri thức hệ thống làm tiêu chuẩn mà theo đuổi
tiêu chuẩn hiệu quả.
Ví dụ, một mục tiêu của công nghệ thông tin là phải mở rộng, tăng
nhanh việc tích lũy, xử lý và vận chuyển thông tin với số lượng ngày càng
lớn, chất lượng ngày càng cao. Quang điện tử, mạch IC quy mô lớn và máy
tính đều phục vụ cho mục đích này. Công nghệ vật liệu mới nhằm tạo ra được
những nguyên liệu mới như kỹ thuật nguyên liệu mô sinh vật đã vượt ra khỏi
khái niệm vật lý và hóa học của các nguyên liệu truyền thống. Khoa học hải
dương chính là khoa học tổng hợp lấy toàn bộ biển làm đối tượng nghiên cứu,
bao gồm một loạt khoa học kỹ thuật cao như phát điện thủy triều, sinh vật
biển và thăm dò khoáng sản dưới đáy biển. Chính điều đó tạo điều kiện cho
sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự tiến bộ về xã hội.
15
Tuy nhiên, thế giới vẫn là một bức tranh không đồng nhất về sự phát
triển kinh tế tri thức. Các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và những nước phát triển đã
có được sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng đó. Điển hình là
Mỹ, năm 1998, tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm đến 71% GDP, nông nghiệp chỉ
chiếm 2% và bản thân trong ngành nông nghiệp cũng ứng dụng công nghệ rất
cao.
Còn các nước đang phát triển hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế này mới ở bước đầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu diễn ra
theo chiều rộng chứ chưa phải theo chiều sâu. Phần lớn công nghệ ở các nước
đang phát triển vẫn còn rất lạc hậu, chủ yếu là mua lại những máy móc thiết
bị thế hệ hai hoặc ba của các nước phát triển.
Cùng với thời gian sư chênh lệch này diễn ra theo khoảng cách ngày
càng xa, nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi mỗi nước đang phát
triển phải tìm con đường đi cho riêng mình nhằm bước đầu tạo ra các nhân tố
của kinh tế tri thức, tạo bệ phóng thoát ra khỏi tình trạng tụt hậu và kém phát
triển.
1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH
KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ BÀI
HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.3.1. Trung Quốc
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển
kinh tế tri thức của Trung Quốc còn nhiều khó khăn, vì cơ sở hạ tầng và kỹ
thuật then chốt của Trung Quốc còn kém xa các nước phát triển và hầu hết
các nước trong khu vực.
Tuy vậy, Chính phủ Trung Quốc chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế theo chiến lược “thúc đẩy nền kinh tế dựa trên khoa học và giáo dục”.
Để đặt nền móng cho kinh tế tri thức, Trung Quốc phấn đấu hai mục
tiêu vừa nâng cao trình độ phát triển công nghiệp, vừa quan tâm xây dựng và
16
hoàn thiện nền móng thực thi kinh tế tri thức, tăng cường đầu tư vào các lĩnh
vực nghiên cứu và phát triển, truyền thông thông tin và giáo dục đào tạo.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức ở Trung Quốc cụ thể bằng triển khai áp dụng công nghệ cao trong mười
ngành công nghiệp chủ chốt. Đây chính là những ngành hạt nhân, mũi nhọn
để phát triển công nghệ cao và kỹ thuật tiên tiến.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã xây dựng được một hệ thống các cơ quan
nghiên cứu về khoa học cơ bản và công nghệ gồm 53 Viện công nghệ cao cấp
Quốc gia và đã đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học và công nghệ có khả
năng đáp ứng nhu cầu của đất nước hiện tại và trong tương lai.
Mặc dù hiện tại các ngành dựa trên tri thức mới chỉ chiếm 10% GDP
của quốc gia nhưng bằng nhiều nỗ lực, Trung Quốc cũng đã xây dựng thành
công một số yếu tố cấu thành cơ bản nền kinh tế tri thức.
Ngành tiêu biểu tiến vào nền kinh tế tri thức là bưu chính viễn thông.
Từ khi cải cách mở cửa đến nay, ngành này đã có những bước phát triển nhảy
vọt liên tục trong nhiều năm, quy mô mạng thông tin và số hộ sử dụng các
dịch vụ loại này ở Trung Quốc đã vượt lên vào hàng các nước đứng đầu thế
giới, trình độ kỹ thuật cũng như trình độ dịch vụ được nâng lên rõ rệt.
Năm 2000, có trên 200 triệu người Trung Quốc thuê bao điện thoại cố
định, đạt 17,8% tổng số dân toàn quốc, còn ở các thành phố lớn là 38%, tỷ lệ
sử dụng điện thoại di động đạt 5,8%. Hiện nay cùng với sự phát triển nhanh
chóng mạng Internet, các lĩnh vực như thương mại điện tử, thông tin qua
mạng Internet , giáo dục từ xa, dịch vụ y tế từ xa ở Trung Quốc cũng có
những bước phát triển khá nhanh.
Tỷ trọng sản phẩm thông tin mới trong tổng kim ngạnh xuất khẩu
Trung Quốc năm 2000 đã vượt lên 18% so với 10% năm 1994 và dự đoán
trong tương lai sẽ thay thế sản phẩm dệt để trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn
nhất của Trung Quốc [9, tr. 81].
17
Những thành quả trên có được một phần nhờ Trung Quốc đã có những
biện pháp khuyến khích vai trò của các doanh nghiệp trong quá trình sáng tạo
kỹ thuật, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất lớn trong việc
nghiên cứu và phát triển khoa học kỹ thuật, đưa thành tựu khoa học kỹ thuật
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của mình. Đó cũng chính là chiến
lược phát triển thị trường của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh toàn
cầu về sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao và đa dạng. Từ đó, các doanh
nghiệp coi thị trường là cơ sở để chọn lựa và áp dụng cơ chế kích thích hoạt
động nghiên cứu và phát triển.
Ngoài ra, Trung Quốc không ngừng tăng cường công tác nghiên cứu và
phát triển hợp tác khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Điều này không có nghĩa là mô phỏng hay bắt chước mà là để rút ra kinh
nghiệm thực hiện sáng tạo kỹ thuật của chính mình, từ đó làm giàu thêm cho
tài sản khoa học của thế giới.
Với cơ chế khuyến khích đổi mới cách thức quản lý và điều hành doanh
nghiệp, với thị trường nội địa rộng lớn nhất thế giới hơn một tỷ dân và với
việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Trung Quốc đang phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt tới trình độ phát
triển của các quốc gia tiên tiến trung bình trên thế giới.
Nếu các biện pháp trên được thực hiện một cách có hiệu quả thì đến
năm 2010 chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức, tiêu biểu là ngành công nghệ thông tin, kim ngạnh xuất khẩu sản
phẩm thông tin của Trung Quốc có thể đạt tới 400 tỷ USD [9, tr. 83], cao hơn
khoảng 30% so với Nhật Bản, vượt tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
Malaixia, Singapore, Đài Loan cộng lại, trở thành sản phẩm thông tin lớn nhất
thế giới. Đó là dự báo của công ty Solomon (Hongkong). Và cũng theo công
ty này, Trung Quốc với các ưu thế như giá thành rẻ và thị trường rộng lớn sẽ
18
dần trở thành nước sản xuất chủ yếu các sản phẩm thông tin của khu vực châu
Á - Thái Bình Dương.
Dự báo đến năm 2010, Trung Quốc sẽ đứng thứ hai thế giới về doanh
số sản phẩm công nghệ thông tin và đến năm 2015, Trung Quốc sẽ đứng
ngang với Mỹ về chỉ tiêu này [9, tr. 83].
Tuy nhiên, bên cạnh những việc đã làm được thì Trung Quốc còn gặp
những khó khăn như việc phát triển các ngành công nghệ có hàm lượng tri
thức cao vẫn còn nhỏ yếu và vẫn chưa tương xứng với tiềm lực và khả năng
của Trung Quốc. Với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Trung Quốc, tin
tưởng rằng Trung Quốc sẽ sớm có sụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng phát triển kinh tế tri thức.
Trung Quốc là một nước láng giềng có mối quan hệ hàng ngàn năm gắn
bó với Việt Nam nên mỗi bước đi của Trung Quốc cũng là một tấm gương để
Việt Nam rút ra bài học cho mình.
1.3.2. Xinhgapo
Mặc dù là một quốc đảo nhỏ bé xong Xinhgapo đã đạt được những
thành tựu vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa đất nước và quá trình
tiến tới một nền kinh tế dựa trên tri thức.
Ngay từ những năm đầu thập niên 1980, Xinhgapo đã có sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm hướng tới phát triển nền kinh tế dựa vào tri
thức và nhấn mạnh vào việc sản xuất các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.
Xinhgapo bắt đầu thực hiện từng bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng nhấn mạnh đến những ngành có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là các
ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao.
Xinhgapo xác định các trụ cột của nền kinh tế là: Công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…
Ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Chính phủ Xinhgapo đã bắt
đầu khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế. Các
19
nhà hoạch định coi công nghệ thông tin như nhân tố chiến lược quyết định
nhằm hướng đến việc hình thành một cơ cấu công nghiệp và dịch vụ hiện đại
có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu.
Năm 1981, Chính phủ Xinhgapo đã thành lập Hội đồng tin học quốc
gia (NCB) để thực hiện Kế hoạch tin học hóa quốc gia (NCP) được ban hành
một năm trước đó. Và từ đó cho đến khi bị thay thế bởi Cơ quan Phát triển
thông tin, viễn thông (IDA) năm 1999, NCB là cơ quan đóng vai trò chủ chốt
trong việc đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển công nghệ thông tin của
Xinhgapo.
Thời kỳ này, dưới tác động của CSCP, các dịch vụ trực tuyến như:
Mạng thương mại (Tradenet), mạng trường học (Schoolink), mạng pháp luật
(Lawnet) đã được thiết lập. Hiện các công ty đóng tại Xinhgapo có khả năng
đàm thoại trực tiếp đến hơn 160 thành phố trên thế giới.
Năm 1989, Xinhgapo đã trở thành nước đầu tiên trên thế giới cung cấp
trên toàn quốc dịch vụ thương mại ISDN nhờ sự hình thành mạng cáp quang.
Như vậy là ngay từ những năm 1980, tại Xinhgapo những nền tảng cơ bản
quan trọng nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã được thiết lập, đây là
những viên gạch đầu tiên cho giai đoạn tiếp theo.
Năm 1992, NCB đã ban hành Kế hoạch tổng thể IT 2000. Kế hoạch
này có tham vọng biến Xinhgapo trở thành một hòn đảo thông minh, một
trung tâm công nghệ thông tin của khu vực có khả năng cạnh tranh cao trong
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và hướng tới cải thiện chất lượng cuộc
sống.
Năm 1996, Singapore One, mạng duy nhất cho mọi người (One
Network for Everyone) đã được thiết lập tạo nên mạng lưới truyền thông đa
chiều biên độ rộng đầu tiên trên thế giới và được áp dụng trên toàn quốc.
Đến tháng 10/2000, Singapore One đã tiếp cận hơn 99% các gia đình,
tất cả các trường học và hầu hết các cơ sở công cộng. Thậm chí người không
20
có máy tính cũng có thể dễ dàng truy cập tại các quầy công cộng đặt ở góc
phố hay các siêu thị lớn.
Như vậy có thể nói, việc triển khai IT 2000 và Singapore One đã giúp
Xinhgapo thiết lập được nền móng IT vững chắc, làm tiên đề để “con rồng”
này bước sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn với Kế hoạch tổng thể
công nghệ thông tin - viễn thông 21 (ICT 21). Với kế hoạch này, Xinhgapo hy
vọng tới năm 2010 sẽ trở thành đầu mối công nghệ thông tin - viễn thông của
nền kinh tế mới trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Bên cạnh công nghệ thông tin, Chính phủ Xinhgapo đã đầu tư hàng tỷ
USD vào việc nghiên cứu, thử nghiệm và thu hút các công ty xuyên quốc gia
hàng đầu thế giới giúp xây dựng ngành công nghệ sinh học để phấn đấu tới
năm 2010 Xinhgapo sẽ trở thành các trung tâm phát triển các liệu pháp y tế và
dược ở khu vực.
Những thành tựu đạt được do Xinhgapo khi chuyển dịch sang nền kinh
tế tri thức đã bắt đầu cải cách bộ máy hành chính để xây dựng một chính phủ
có tính chất đổi mới, dám nghĩ, dám làm. Chính phủ cải tạo các công thức
mới để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thay đổi trong các ngành, trong bộ máy.
Thế mạnh của Chính phủ Xinhgapo là một số thành viên vốn là các nhà doanh
nghiệp, nhà kinh doanh lớn, dồi dào kinh nghiệm trong thương trường, biết
kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa chủ trương chính sách của nhà nước
với chiến lược, kế hoạch, chương trình hoạt động của doanh nghiệp trong nền
kinh tế. Ngược lại, chính thực tiễn của thị trường, các hoạt động của doanh
nghiệp sẽ tạo kinh nghiệm cho Chính phủ trong quản lý hành chính và kinh tế,
cả trong nước và nước ngoài.
Xinhgapo đã thành lập các Ủy ban cấp Nhà nước để tư vấn cho hoạt
động của Chính phủ về các lĩnh vực phát triển thương mại và kinh tế tri thức
như: Ủy ban Tư vấn quốc tế về khoa học đời sống, Ủy ban Phát triển kinh tế
để tiến tới tổ chức một trung tâm kinh tế toàn cầu, trong đó điều hành các
21
ngành công nghiệp chủ yếu cho thế kỷ 21 mà dự kiến có tới 10 ngành công
nghiệp đặc trưng dựa trên tri thức và khoa học để đạt được 40 % GDP và tạo
ra 23000 việc làm mỗi năm, trong đó dầu khí và hóa dầu được coi là mũi
nhọn để làm tăng sản lượng lên ba lần.
Bên cạnh đó, Xinhgapo rất chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực.
Chính phủ thành lập Quỹ phát triển kỹ năng để nâng cao năng lực cho lực
lượng lao động. Nền giáo dục đang hướng vào phổ cập các khóa học về khoa
học, cơ khí, công nghệ thông tin cho người dân ở mọi trình độ. Đây là các
môn học mang tính bắt buộc cho nền công nghệ thông tin. Ủy ban Phát triển
kinh tế xây dựng Xinhgapo như một trung tâm giáo dục có hạng trên thế giới
với vốn tri thức và sáng tạo lớn. Trung tâm thu hút một số trường đại học
hàng đầu của nước ngoài, trong đó có 6 trường và viện công nghệ của Mỹ để
đào tạo sau đại học, nhằm đảm bảo cả khu vực công và khu vực tư được trang
bị tri thức tốt nhất cho nền kinh tế tri thức.
Ngoài ra một chính sách kinh tế, thương mại quan trọng nữa của
Xinhgapo là mở cửa cho nước ngoài đầu tư nhằm thu hút công nghệ tiên tiến
và giải quyết việc làm. Biến Xinhgapo trở thành một vị trí thuận lợi cho các
công ty đa quốc gia đặt trụ sở chính vừa hỗ trợ hoạt động trong nước, vừa
hoạt động toàn cầu với 50 công ty nội địa dựa trên cơ sở tri thức có tầm cỡ thế
giới để có sản phẩm, dịch vụ đủ sức cạnh tranh với toàn cầu, đồng thời mở
rộng hoạt động ra ngoài biên giới.
1.3.3. Malaixia
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức đã trở thành một mục tiêu then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Malaixia.
Malaixia bước vào nền kinh tế tri thức với một ý thức rõ ràng rằng
mong muốn đó phải cùng tồn tại với một nền kinh tế sản xuất hiện vẫn đang
chiếm ưu thế. Chính vì vậy Kế hoạch triển vọng lần thứ nhất và lần thứ hai
22
(OPP1 và OPP2) cùng Chính sách phát triển mới (NDP) của Malaixia có
nhiệm vụ tiếp tục đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm
điều chỉnh những mất cân đối về mặt kinh tế, xã hội.
Trong bản công bố Tầm nhìn mới 2001-2010, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Malaixia cần phải dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ và quy trình sản
xuất tiên tiến nhằm cải thiện năng suất, duy trì sức mạnh và khả năng phục
hồi kinh tế. Điều này đã được chính Thủ tướng M. Mohamad nhấn mạnh:
“Việc phát triển đất nước thành một nền kinh tế dựa trên tri thức sẽ phải thấm
vào mọi ngành và có sự tham gia của mọi người dân”. Kinh tế tri thức phải là
chỗ dựa để cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Malaixia.
Từ năm 1996, Malaixia đã bắt đầu xây dựng các kế hoạch nhằm nhanh
chóng chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Thứ nhất, tăng cƣờng phát triển công nghệ tin học, xây dựng cơ sở
hạ tầng cho nền kinh tế.
Cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế tri thức là sự phát triển đi trước của công
nghệ thông tin. Bởi vậy, vào năm 1996, Malaixia đã công bố Chương trình
Công nghệ thông tin Quốc gia nhằm phát triển khoa học máy tính, tin học cơ
bản và tin học ứng dụng biến các nhân tố này trở thành động lực mới để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Malaixia tham vọng sẽ hoàn thành việc phổ cập kiến
thức cơ bản về tin học đến mọi người dân Malaixia vào năm 2020, theo đó mức
độ đầu tư cho tin học sẽ tăng đều đặn 20% mỗi năm so với thời kỳ 1996 - 2000.
Chính phủ Malaixia cũng quyết định mở rộng ngành bưu điện, nâng
cấp toàn bộ hệ thống cáp quang hiện có. Theo thống kê, tỷ lệ người dùng điện
thoại của Malaixia tăng từ 16,6 máy/100 người (năm 1995) lên 24,7 máy/100
người vào năm 2000. Riêng điện thoại di động từ 3,5 máy/100 người (1995)
đến 2000 là 16,5 máy/100 người [19].
Bên cạnh đó, nhằm năng cấp cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực ICP, Chính
phủ nước này đã quyết định xây dựng “mạng Malaixia” (Malaixia network).
23
Theo dự kiến, khoảng 5 - 10 năm tới, Malaixia sẽ có “mười hai thành
phố tri thức” với các hành lang đa hệ siêu cấp được nối mạng trực tiếp với xa
lộ thông tin toàn cầu.
Hiện nay, “một Chính phủ điện tử” trong “Siêu hành lang truyền thông
đa phương tiện (MSC)” đã được xây xong ở Malaixia. Nó trở thành một đầu
mối dịch vụ của hệ thống hành chính công. Toàn bộ công việc quản lý hành
chính thường được vi tính hóa. “Chính phủ điện tử” này được kết nối toàn bộ
500 đơn vị hành chính trong nước với Chính phủ trung ương thành một hệ
thống duy nhất, nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập của mỗi đơn vị này.
Thứ hai, từng bƣớc tin học hoá, mạng hóa và mô hình hóa ngành
dịch vụ.
Điện tử hóa tiền tệ: Năm 1997, Malaixia thành lập công ty điện tử hóa hệ
thống tiền tệ, tiếp đến tháng 3/1999 đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống hỗ
trợ an toàn giao dịch ngân hàng, tạo thành một hệ thống liên mạng với thế giới.
Ngày 31-08-2000, Chính phủ Malaixia đã phát hành loại thẻ “trí khôn”
(smart card) tinh thể mầu ghi số liệu, chỉ cần hệ thống an toàn của ngân hàng
là cho phép người chủ này có thể tiếp cận với nguồn vốn của mình.
Phát triển thương mại điện tử: Malaixia đã thành lập Ủy ban Dịch vụ
thương mại toàn quốc nhằm động viên và có chế độ ưu đãi đối với các xí
nghiệp vừa và nhỏ khi sử dụng dịch vụ này.
Mạng hóa các dịch vụ ngân hàng: Năm 1997, Malaixia khánh thành
Phòng bảo đảm an ninh ngân hàng đầu tiên và 1998 lại cho ra đời thêm một
phòng nữa. Các phòng này sử dụng mạng máy tính để thay thế cho hoạt động
tác nghiệp trực tiếp của con người. Nó giúp các nhà đầu tư chỉ việc ngồi một
chỗ để điều khiển các giao dịch ngân hàng và hoạt động đầu tư của mình.
Thứ ba, phát triển siêu hành lang truyền thông đa phƣơng tiện, quy
hoạch các khu công viên kỹ thuật cao.
24
Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện và Khu công viên kỹ thuật
cao được kỳ vọng là “đầu tàu” chính đưa quốc gia này gia nhập kinh tế tri thức.
Siêu hàng lang truyền thông đa phương tiện và Khu công viên kỹ thuật
cao sẽ là nơi tập hợp các xí nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu thành một
thể thống nhất, là khâu quan trọng biến kỹ thuật cao thành một ngành kinh tế
thực thụ.
Với hạt nhân là “Thành phố tin học”, toàn bộ thành phố là một khu
công viên khoa học, kỹ thuật tổng hợp. Theo kế hoạch đã được định hướng
của chính phủ Malaixia, đến trước năm 2020 sẽ biến thành Khu công viên
khoa học, kỹ thuật này trở thành “trung tâm sản xuất phần mềm” thế giới với
dân số là 24 vạn người, cùng sự hiện diện của 500 công ty phần mềm máy tính.
Thứ tƣ, là chú trọng phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ và bồi
dƣỡng nhân tài.
Chính phủ Malaixia chủ trương điều chỉnh lại phương châm giáo dục,
đẩy mạnh giáo dục công nghệ thông tin.
Nhằm phát huy năng lực sáng tạo của học sinh, từ truyền thụ tri thức
sang tiếp nhận tri thức nhằm nâng cao khả năng sáng tạo cho học sinh. Từ
năm 2000, ngành giáo dục Malaixia bắt đầu phổ cập tin học trong các cấp học
và máy tính được trang bị ngay từ bậc tiểu học. Ngay cả các sinh viên đại học
chưa biết sử dụng vi tính cũng được tham gia các lớp huấn luyện cấp tốc do
nhà nước tài trợ để đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D). Malaixia
thành lập Quỹ nghiên cứu trong những lĩnh vực trọng điểm nhằm hỗ trợ các xí
nghiệp và nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới. Năm 2000, đầu tư cho R&D của Malaixia là 1%
GDP.
25
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện cho người dân có cơ hội tiếp cận với bậc
đại học, Chính phủ Malaixia quyết định rút ngắn thời gian đào tạo cử nhân từ
4 năm trước đây xuống còn 3 năm.
Bằng những chiến lược trên, Malaixia bước đầu đã tạo được nền móng
cho ngôi nhà mơ ước. Những ngành có hàm lượng tri tuệ cao đều có được vai
trò, vị trí quan trọng trong kế hoạch phát triển tổng thể của Malaixia. Bên
cạnh đó, Malaixia còn gặp phải những khó khăn thách thức như: Mặc dù đã
khá thành công trong chiến lược đi tắt, đuổi kịp một số lĩnh vực trong công
nghệ thông tin, nhưng cái nền khoa học cơ bản của Malaixia lại tương đối yếu
và thiếu, khả năng sáng tạo chưa đủ mạnh, thiếu đội ngũ làm khoa học, công
nghệ thực tài. Sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn kéo theo khoảng
cách giàu nghèo khá xa. Đó là những thách thức Malaixia cần phải vượt qua
và không phải một sáng, một chiều có thể giải quyết được.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức, Việt Nam cần ưu tiên phát triển các ngành công nghệ
cao, đặc biệt là công nghệ thông tin và coi chúng là động lực chủ yếu của tăng
trưởng kinh tế. Đó là hướng đi mà hầu hết các nước đều tuân thủ.
Tuy nhiên, mức độ đầu tư khác nhau do sự khác biệt về điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội của từng nước. Tại các nước công nghiệp phát triển, do có
trình độ khoa học công nghệ ở mức cao, các nước này có điều kiện tập trung
đầu tư nhiều cho các ngành công nghệ sinh học, công nghệ hàng không vũ
trụ, công nghệ vật liệu mới… Còn ở các nước đang phát triển do nguồn lực hạn
chế nên chỉ có điều kiện tập trung vào công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học.
Bên cạnh đó, do nhận thức khác nhau nên cơ cấu đầu tư vào khoa học
công nghệ của các nước cũng khác nhau. Ví dụ: Mỹ đầu tư rất nhiều vào công