Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát triển nguồn nhân lực hướng tới kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.14 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN



LÊ THỊ SỰ


PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC HƯỚNG
TỚI KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Lan




HÀ NỘI – 9/2009


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


KTTT: Kinh tế tri thức
NLCN: Nguồn lực con người


CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GD - ĐT: Giáo dục – đào tạo
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
THPT: Trung học phổ thông
THCS: Trung học cơ sở


Môc lôc
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG ………………………………………………………………… 8
CHƯƠNG 1. KINH TẾ TRI THỨC VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM 9
1.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế tri thức 9
1.1.1. Khái niệm kinh tế tri thức 9
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức 14
1.2. Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay 22
1.2.1. Kinh tế tri thức – xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới 22
1.2.2. Kinh tế tri thức – sự lựa chọn của Việt Nam 23
1.3. Yêu cầu của kinh tế tri thức đối với nguồn lực con người Việt Nam 28
1.3.1. Khái niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con
người 28
1.3.2. Vai trò của nguồn lực con người trong kinh tế tri thức 36
1.3.3. Một số yêu cầu của kinh tế tri thức đối với nguồn lực con người
Việt Nam hiện nay 40
CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU CỦA KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 49
2.1. Thực trạng nguồn lực con người Việt Nam trước yêu cầu của kinh
tế tri thức 49

2.1.1. Khái quát việc phát triển nguồn lực con người Việt Nam thời
gian qua 49
2.1.2. Đánh giá về nguồn lực con người Việt Nam trước yêu cầu của kinh
tế tri thức 56
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức 72
2.2.1. Nhóm giải pháp giáo dục- đào tạo 72
2.2.2. Nhóm giải pháp kinh tế 80
2.2.3. Nhóm giải pháp chính trị 82
2.2.4. Nhóm giải pháp văn hoá - xã hội 88
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế tri thức - là một khái niệm dù mới nhưng đang dần trở nên quen
thuuộc trong thế giới hiện đại. Nó được hiểu như một giai đoạn phát triển
mới, cao hơn của nền kinh tế nhân loại. Trên thế giới, nền kinh tế tri thức còn
được gọi với những tên khác như nền kinh tế mạng, kinh tế số, kinh tế thông
tin…Mặc dù tên gọi khác nhau, song có thể thấy nền kinh tế này là một xu thế
tất yếu, dựa trên công nghệ cao, trong đó vốn con người là yếu tố quyết định.
Cho đến nay, khi nhận định về nền kinh tế tri thức vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau: có người ủng hộ nhiệt tình cho xu thế này, nhưng cũng không ít
những người tỏ ra hoài nghi trước viễn cảnh của nó. Song nhìn chung, các ý
kiến lại tương đối thống nhất khi cho rằng: nền kinh tế tri thức chỉ thực sự
được phát triển khi dựa trên một lực lượng sản xuất tiến bộ mà nòng cốt là
công nghệ thông tin và các công nghệ cao, lấy tri thức làm thước đo giá trị sản
phẩm; và đều phải thừa nhận rằng kinh tế tri thức đang làm cho diện mạo và

cơ cấu kinh tế thế giới thay đổi một cách căn bản và sâu sắc trong thế kỷ này.
Nhận thức được tính tất yếu của kinh tế tri thức, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương đưa đất nước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, tận dụng cơ hội
tiếp thu những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ thế giới để đưa
nền kinh tế thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu, “đi tắt, đón đầu”, đuổi kịp trình
độ phát triển chung của khu vực và thế giới. Chủ trương chiến lược đúng đắn
đó được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng, mà gần đây nhất, tại Đại
hội X đã chỉ rõ: “Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản
phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.” [11; 28 – 29].
Tuy nhiên, trong điều kiện đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
GDP bình quân đầu người chỉ bằng 1/2 mức bình quân chung của toàn thế
giới và được xếp vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới hiện nay, chúng ta

2
còn nhiều khó khăn trước mắt trên con đường xây dựng kinh tế tri thức. Xét
toàn cục, đến nay nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát
triển, trình độ chung con thấp kém, khoảng cách giữa nước ta với các nước
trong khu vực không những chậm được thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng.
Trong tình hình ấy, nếu ta không rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa, kết hợp một cách hợp lý giữa những bước tuần tự và những bước nhảy
vọt, mạnh dạn, táo bạo đi ngay vào trình độ hiện đại, từng bước phát triển
kinh tế tri thức ngay trong quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp thì bản thân chúng ta sẽ ngày càng tụt hậu.
Để làm được những việc đó, chúng ta phải phát huy tất cả những nguồn
lực cả bên trong và bên ngoài, trong đó, nguồn nội lực đóng vai trò quyết
định. Nguồn lực quan trọng nhất trong hệ thống nội lực để phát triển nền kinh
tế tri thức chính là nguồn lực con người. Vì vậy quan tâm đầu tư và phát triển
nguồn lực con người chính là giải pháp quan trọng nhất để đưa Việt Nam tiến
vào kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức và nguồn lực con người luôn có mối quan

hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, là cơ sở, là ngọn nguồn của nhau. Có thể nói,
con người là hạt nhân, là mục đích của hoạt động tri thức, hoạt động kinh tế.
Như vậy, con người là nguồn vốn quý giá nhất, tài nguyên lớn nhất trong tất
cả các nguồn lực để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Phát triển nguồn
lực con người sẽ phát huy được lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, từng bước phát triển kinh tế tri thức , phát
huy vai trò của mình. Vấn đề là làm thế nào phát triển nguồn lực con người
Việt Nam bằng sức mạnh con người Việt Nam, đưa Việt Nam bước đi vào
kinh tế tri thức? Đó là một vấn đề cần được giải đáp thấu đáo cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
Chính vì những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Phát triển nguồn lực con
người hướng tới kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình. Tác giả mong muốn đề tài sẽ góp một phần nhỏ cho việc

3
nghiên cứu cũng như thực hiện vấn đề phát triển con người Việt Nam để xây
dựng đất nước trong thời đại mới - thời đại kinh tế tri thức.
2. Tình hình nghiên cứu
Kinh tế tri thức xuất hiện đang trở thành một xu hướng ngày càng rõ rệt
trong xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài
quỹ đạo đó, chúng ta lựa chọn việc phát triển kinh tế tri thức như là một chiến
lược phát triển hữu hiệu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước. Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tri
thức, đồng thời cũng đã xác định yếu tố nguồn lực con người là yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước nói chung và phát triển kinh
tế tri thức nói riêng; sự xuất hiện của nền kinh tế mới này là đề tài thu hút các
nhà khoa học và các tổ chức trên khắp thế giới cũng như trong nước nghiên
cứu, đặc biệt trong thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ
XXI này. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có hàng loạt các công
trình nghiên cứu, các hội thảo khoa học được xây dựng xoay quanh vấn đề

này. Trong đó có thể kể đến:
- Hội thảo “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”
do Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ
chức tháng 6 – 2000.
- Hội thảo “Sử dụng tri thức để phục vụ phát triển đối với Việt Nam” do
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và Ngân hàng Thế giới phối hợp tổ
chức tháng 11 – 2000.
Hai cuộc hội thảo lớn này đã đề cập một cách tổng thể về khái niệm
và vai trò của kinh tế tri thức, đồng thời đặt ra các vấn đề đối với sự phát
triển của Việt Nam trên góc độ tổng quát, đặc biệt là yêu cầu đổi mới nền
giáo dục Việt Nam.
Hàng loạt các công trình nghiên cứu cả trong nước và ngoài nước về
kinh tế tri thức đã được xuất bản. Nội dung của các công trình rất phong phú,
song đều tập trung xoay quanh vào ba mảng nội dung lớn:

4
- Những công trình đi sâu luận giải về kinh tế tri thức có thể kể đến như:
Ngô Quý Tùng với Kinh tế tri thức – xu thế mới của thế kỷ XXI (sách dịch,
2000), Tần Ngôn Trước với Thời đại kinh tế tri thức (sách dịch 2001), Đặng
Mộng Lân với kinh tế tri thức những kinh nghiệm và những vấn đề cơ bản
(2001), Vương Liêm với kinh tế tri thức với công cuộc phát triển ở Việt Nam
(2001, Vũ Trọng Lâm với kinh tế tri thức ở Việt Nam – quan điểm và giải
pháp phát triển (2003), Đặng Hữu với Kinh tế tri thức – thời cơ và thách
thức đối với xã hội Việt Nam (2004), Trần Cao Sơn với Môi trường xã hội nền
kinh tế tri thức – những nguyên lý cơ bản (2004), Vũ Đình Cự - Trần Xuân
Sầm với Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức (2006), cùng hàng loạt các
bài báo đăng trên các tạp chí Triết học, Khoa học Xã hội, Nghiên cứu Kinh tế,
Đảng Cộng sản, Lý luận chính trị… của đông đảo các nhà khoa học trên cả
nước. Các công trình này đã phân tích một cách sâu sắc về nguồn gốc, bản
chất, đặc trưng và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức , trong đó, các

công trình bằng tiếng Việt của các tác giả trong nước còn đặt ra những vấn
đề lớn đối với sự phát triển của Việt Nam.
- Một hướng nghiên cứu khác đó là nghiên cứu về vấn đề con người,
vấn đề nguồn nhân lực đối với sự phát triển của Việt Nam. Các công trình tiêu
biểu có thể kể đến là Phạm Minh Hạc với Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước (1996), Phát triển văn hóa và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa (2003), Con người Việt
Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển (2004), Phát triển văn hóa con
người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa (2007);
Phạm Văn Đức với Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ), Hồ Sĩ Quý với Con
người và phát triển con người (2006); cùng rất nhiều các bài báo đăng trên
các tạp chí Triết học, Tạp chí Khoa học Xã hội, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận
chính trị, Tạp chí Lao động & Xã hội,… nghiên cứu về vấn đề nguồn nhân

5
lực Việt Nam hiện nay. Hầu hết các công trình này đã đi sâu nghiên cứu vấn
đề con người nói chung và vấn đề nguồn nhân lực Việt Nam nói riêng, trong
đó, xu hướng nghiên cứu về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam và các giải
pháp phát triển là xu hướng chiếm nhiều nhất.
- Hướng nghiên cứu thứ ba đi vào nghiên cứu vấn đề con người và
nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu phát triển mới. Có thể kể đến các
công trình của: Trần Văn Tùng với Kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo
dục Việt Nam (2001), Bùi Thị Ngọc Lan với Nguồn lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam (2002), Phạm Thị Hồng Điệp với bài tạp chí
Nguồn lực con người và phát triển bền vững kinh tế tri thức (Tạp chí Khoa
học Xã hội, số 1 - 2008), Nguyễn Đình Hòa với Mối quan hệ giữa phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa (Tạp chí Triết
học, số 1 - 2004), Đặng Hữu với Phát triển bền vững dựa trên tri thức (Tạp
chí Lý luận chính trị, số 11 – 2004); Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay (Tạp chí Cộng
sản, số 4 – 2005)… Bên cạnh đó, có rất nhiều các luận văn, khóa luận tốt
nghiệp cũng đã đi vào hướng nghiên cứu này, có thể kể đến như luận văn của
Lê Thị Lan Kinh tế tri thức và việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam
hiện nay (2005), Lê Thị Hạnh với Đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam hướng
tới kinh tế tri thức (2006)… và rất nhiều các công trình khác nữa được đăng
tải trên các tạp chí và mạng internet. Những công trình này đã đề cập đến thực
trạng nguồn nhân lực Việt Nam, các giải pháp để phát triển trong đó nhấn
mạnh đến giải pháp về giáo dục đào tạo.
Có thể thấy vấn đề về vai trò của nguồn lực con người đối với sự xu thế
phát triển mới của đất nước đã được các tác giả trong nước đề cập khá toàn
diện. Song do cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau mà các tác giả đã
khai thác vào các khía cạnh khác nhau. Ở nhóm đề tài thứ nhất, hầu hết các
tác giả đã chủ yếu đi sâu luận giải về kinh tế tri thức mà chưa chú ý việc đề ra
những giải pháp cụ thể để phát triển nguồn lực con người như là nguồn lực

6
quan trọng nhất của sự phát triển. Ở nhóm đề tài thứ hai, hầu hết các tác giả
lại tập trung khai thác vấn đề con người, nguồn lực con người trước yêu cầu
của công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên ở đây, hầu hết vấn đề
nguồn lực con người chưa được các tác giả xem như là một khái niệm triết
học – một thành tố quan trọng trong lực lượng sản xuất xã hội loài người mà
thường được đồng nhất với khái niệm của kinh tế học hoặc xã hội học là khái
niệm nguồn nhân lực, và vì thế các công trình tập trung vào việc phát triển
nguồn nhân lực trước yêu cầu phát triển mới với các giải pháp khác nhau. Mặt
khác, họ lại nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực chủ yếu trước yêu
cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa, ít nghiên cứu sâu về yêu cầu của kinh
tế tri thức. Hơn thế nữa, các giải pháp mà các tác giả đưa ra hầu hết chỉ đề cập
một cách chung chung, khái quát hoặc chỉ đi sâu phân tích vào một giải pháp
nào đó mà chưa đưa ra được hệ thống những giải pháp tổng thể phù hợp. Ở

nhóm đề tài thứ ba – nhóm đề tài về mối quan hệ giữa nguồn lực con người
với kinh tế tri thức thì các tác giả lại chưa phân tích một cách tổng quan cả
các vấn đề về kinh tế tri thức, về khái niệm nguồn lực con người lẫn hệ thống
các giải pháp, vì thế chưa thấy được một cách hệ thống về mối quan hệ giữa
các vấn đề này để từ đó có giải pháp phát triển phù hợp để phát triển nguồn
lực con người Việt Nam đáp ứng được yêu cầu mà kinh tế tri thức đặt ra trong
thế kỷ XXI.
Nền kinh tế tri thức đang hình thành, phát triển và tác động ngày càng
mạnh mẽ làm cho nền kinh tế đang thay đổi nhanh chóng từng ngày đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu, bổ sung không ngừng về mặt lý luận. Trong khuôn khổ
của luận văn này, chúng tôi cố gắng khái quát lại những đặc trưng tiêu biểu
của nền kinh tế tri thức, đồng thời bổ sung thêm những nghiên cứu mới về
nguồn lực con người về mặt khái niệm, hiện trạng, và những giải pháp để phát
triển nguồn lực con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức.



7
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích các vấn đề của kinh tế tri thức, yêu cầu của phát triển
kinh tế tri thức đối với việc phát triển nguồn lực con người, luận văn đề ra
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người Việt Nam
hướng tới kinh tế tri thức.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ lý luận cơ bản về kinh tế tri thức, về vai trò nguồn lực con
người trong phát triển kinh tế tri thức.
- Sự cần thiết của việc từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
và những yêu cầu đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người Việt
Nam.

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu phát triển nguồn lực con ngườiViệt Nam
để tiến tới phát triển kinh tế tri thức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn bàn về nguồn lực con người hướng
tới kinh tế tri thức.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn bàn về phát triển nguồn lực con người
đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận:
Luận văn sử dụng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đặc biệt là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, nguyên lý phát triển, lý luận về hình thái kinh tế xã hội vấn đề con
người, bản chất con người và sự phát triển con người. Luận văn còn sử dụng
các quan điểm đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đồng thời luận văn
kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả liên quan đến phạm vi nghiên cứu
đề tài.


8
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng đồng thời các phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, thống kê xã
hội, phương pháp lịch sử và logic.
6. Đóng góp của luận văn: Luận văn đã phân tích rút ra một số đặc điểm
của mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế tri thức với phát triển
nguồn lực con người, làm sáng rõ thêm lý luận về kinh tế tri thức và vai trò
của nó.
7. Ý nghĩa của luận văn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc học tập nghiên cứu những vấn đề triết học, kinh tế học, quản lý
xã hội… liên quan đến các vấn đề về kinh tế tri thức, nguồn lực con người.

8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 5 tiết.
















9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KINH TẾ TRI THỨC VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế tri thức
1.1.1. Khái niệm kinh tế tri thức
* Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại là tiền đề cho sự hình
thành và phát triển nền KTTT. Với ba phát minh vĩ đại của trí tuệ nhân loại
nửa đầu thế kỷ XX: Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết lượng tử của

Blăngcơ và phát hiện ra mật mã di truyền của Oatxơn và Gricơ đã mở đầu cho
một thời kỳ mới của khoa học và công nghệ hiện đại. Từ đây, đã tạo ra một hệ
thống công nghệ mới, đó là các công nghệ vi điện tử, máy tính, quang điện,
laze, vật liệu mới, hạt nhân, gen, tế bào…
Đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công
nghệ chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn bùng nổ công nghệ. Từ đó tạo ra
một cuộc chạy đua ráo riết để chiếm lĩnh công nghệ cao trước thiên niên kỷ
mới. Cuộc cách mạng công nghệ này đã tạo nên bộ mặt mới của nền kinh tế,
tạo tiền đề hình thành KTTT và xã hội thông tin.
Trong nền kinh tế mới này, tri thức và thông tin trở thành yếu tố sản
xuất quan trọng nhất, hơn cả vốn, nguyên, nhiên liệu và năng lượng. Ngày
nay, sự xuất hiện của các ngành công nghệ cao như công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và công nghệ thông tin đã phát triển
rất mạnh mẽ, trở thành trụ cột của các nền kinh tế, tạo ra những biến đổi to
lớn trong lực lượng sản xuất và toàn bộ xã hội loài người.
Với công nghệ tế bào, công nghệ gen, công nghệ enzim, công nghệ vi
sinh… của công nghệ sinh học đã cho phép con người tạo ra được các loại
thuốc có khả năng chữa các loại bệnh hiểm nghèo, tạo ra các giống cây trồng
vật nuôi có giá trị kinh tế cao, hình thành nên cuộc cách mạng xanh mới;

10
Công nghệ vật liệu composit, công nghệ vật liệu siêu dẫn, công nghệ nanô…
của công nghệ vật liệu mới có thể tạo ra các loại vật liệu mới có sức chịu
nhiệt, chịu lực, chịu lão hóa, có khả năng tải điện, dẫn nhiệt tốt mà không phải
tốn nhiều nguyên vật liệu; Công nghệ năng lượng tái sinh như năng lượng mặt
trời, gió biển, pin chạy bằng hyđrô… của công nghệ năng lượng cho phép con
người có thể tạo ra các nguồn năng lượng vô hạn thay thế cho năng lượng tự
nhiên vốn đang trong tình trạng cạn kiệt; Đặc biệt, sự ra đời và phát triển như
vũ bão của công nghệ thông tin đã giúp con người trong tổ chức, quản lý, điều
khiển, kiểm soát các quá trình sản xuất và trong mọi hoạt động của đời sống

nói chung, giúp nhân lên sức mạnh trí óc của con người. Ngày nay, nhịp độ
tăng trưởng GDP, tốc độ tăng việc làm do công nghệ thông tin tạo ra nhanh
hơn từ 14 đến 16 lần so với toàn bộ các ngành kinh tế còn lại.
Sự ra đời của cuộc cách mạng lần thứ tư này đã làm cho cơ cấu giá trị
trong một sản phẩm thay đổi. 70% - 80%, thậm chí có những sản phẩm chiếm
đến 90% giá trị của sản phẩm là do các yếu tố về công nghệ, trí tuệ tạo ra;
hàm lượng của các yếu tố vật chất như nguyên liệu, nhiên liệu, thiết bị, và
năng lượng trong một sản phẩm đã bị giảm đi nhiều, chỉ chiếm từ 20 – 30%
giá trị sản phẩm. Như vậy, nền kinh tế mới của các quốc gia ngày nay chủ yếu
là dựa vào yếu tố trí tuệ, chất xám, công nghệ cao mà không còn là dựa vào
các yếu tố truyến thống của sản xuất như trước đây nữa.
Hơn nữa, khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề
mới, việc làm mới, nhất là trong công nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ nông nghiệp
trong GDP ngày càng giảm mặc dù giá trị sản lượng nông nghiệp không
ngừng tăng. Hiện nay, dịch vụ - khu vực sản xuất phi vật chất, đang ngày
càng trở thành ngành sản xuất chủ yếu, bởi khu vực này tạo ra giá trị gia tăng
nhiều nhất, nó chủ yếu dựa vào xử lý thông tin và tạo ra thông tin, tri thức.
Dịch vụ hiện nay chiếm đến 61% trong tổng sản phẩm xã hội của toàn thế

11
giới. Trong nền kinh tế mới, giá trị gia tăng được tạo ra bởi những yếu tố vô
hình như sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, dịch vụ tài chính,
quản trị kinh doanh…
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đem lại sự biến đổi trong
cơ cấu xã hội. Trước đây ở các nước, nông dân chiếm đa số. Nhưng ngày nay,
công nhân mới là lực lượng chủ yếu, trong đó công nhân tri thức là lực lượng
chủ yếu tạo ra của cải xã hội, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới. Mặt khác,
giữa công nhân và nhà khoa học cũng không còn khoảng cách, một người
công nhân đồng thời là một nhà khoa học và ngược lại. Chính vì thế, việc đào

tạo nghề cũng có sự thay đổi. Đào tạo và sản xuất đi liền nhau. Ở các khu
công nghiệp có trường học, trường đào tạo nghề và viện nghiên cứu. Chính do
đó, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa và cơ cấu lao động xã hội
cũng có sự thay đổi căn bản.
Mặt khác, khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy sự gia tăng nhanh
quá trình toàn cầu hóa. Những thành tựu đột phá của khoa học công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội
loài người, thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, phát
triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư và tích tụ tập trung tư bản trên
phạm vi toàn cầu dẫn tới hình thành nền kinh tế thế giới toàn cầu nối mạng
hiện nay. Quá trình toàn cầu hóa đó một mặt buộc các nước phải liên kết hợp
tác với nhau cùng tồn tại, mặt khác tạo ra tính cạnh tranh gay gắt mà những
nước chậm phát triển nếu không tự tìm ra cho mình một cách thức phát triển
phù hợp sẽ tụt hậu. Do vậy, việc nắm bắt các thông tin, tri thức và xử lý
chúng một cách có hiệu quả là công việc thiết yếu của quốc gia đang phát
triển trong thời buổi hội nhập hiện nay. Quá trình đó càng thúc đẩy nhanh sự
hình thành nền KTTT ở các quốc gia đang phát triển và sự phát triển của nó ở
các quốc gia phát triển.

12
Các chuyên gia Liên hợp quốc cho rằng, vào khoảng những năm 2030,
ở các quốc gia phát triển nền KTTT về cơ bản sẽ hình thành, và đến cuối thế
kỷ XXI, nhân loại sẽ bước vào thời đại KTTT.
* Khái niệm kinh tế tri thức
Những năm gần đây, trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội nghị,
hội thảo quốc tế và trong nhiều văn bản chiến lược phát triển của các quốc
gia, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới
của nền kinh tế như: “Kinh tế thông tin”, “kinh tế mạng”, “kinh tế số” (nói lên
vai trò quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế); “Kinh tế
học hỏi” (nói lên động lực chủ yếu của nền kinh tế là sự học tập suốt đời của

mọi người); “Kinh tế dựa vào tri thức”, “kinh tế dẫn dắt bởi tri thức”, “kinh tế
tri thức” (nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát
triển kinh tế).
Trong số các tên gọi trên, “kinh tế tri thức” là tên gọi thường được
dùng nhất. Tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) chính
thức dùng từ năm 1996. Cách gọi này nói lên được nội dung của nền kinh
tế mới xuất hiện này.
Và định nghĩa mà tổ chức này đưa ra năm 1996, có sự điều chỉnh lại
năm 2000 cũng là định nghĩa được nhiều người chấp nhận nhất. KTTT được
định nghĩa là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri
thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm
trong tất cả các ngành kinh tế [28; 98].
Một định nghĩa khác cũng được nhiều người sử dụng là định nghĩa của
Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh Quốc năm 1998, cho rằng “nền kinh tế
được dẫn dắt bởi tri thức là nền kinh tế mà việc sản sinh, khai thác tri thức có
một vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải” [45; 12].
Ngoài ra còn có nhiều cách hiểu khác nhau về nền kinh tế mới này.
Tuy nhiên, tất cả cách tiếp cận đó đều xoay quanh định nghĩa khái quát của tổ
chức OECD đưa ra trong báo cáo “kinh tế dựa trên tri thức” năm 1996: KTTT
là những nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri

13
thức, thông tin. Tức là việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định trong phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất, nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Như vậy, trong nền KTTT, vấn đề không chỉ là tạo ra tri thức mà còn
bao gồm cả thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Hơn thế nữa, KTTT
không chỉ bao hàm duy nhất các lĩnh vực hoạt động công nghệ cao, sử dụng
lao động trí thức và lao động có kỹ năng cao là chính mà còn là quá trình tri
thức xâm nhập và chi phối tất cả mọi hoạt động kinh tế. Nói cách khác, tất cả

các ngành kinh tế trong đó dù ở lĩnh vực nào thì cũng đều hoạt động dưới sự
chi phối của tri thức, đều trở thành ngành kinh tế dựa vào tri thức.
KTTT là một giai đoạn phát triển mới của xã hội loài người về mặt
kinh tế, một giai đoạn phát triển vượt bậc thể hiện rõ ràng trong lịch sử nhân
loại với những nét riêng có của nó. Với khẳng định đó, người ta dễ dàng đặt
ra một vấn đề - liệu đó có phải là một hình thái kinh tế xã hội mới của xã hội
loài người hay không? Đây là một vấn đề khó, đòi hỏi sự nghiên cứu nghiêm
túc về lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác lẫn bản chất của nền kinh
tế đang hình thành này.
Những tác động của KTTT lên bộ mặt của xã hội loài người thể hiện
ngày càng rõ ràng; đồng thời sự xuất hiện của nó với tư cách là một lực lượng
sản xuất mới có tác động mạnh và làm biến đổi bản thân các yếu tố thuộc kết
cấu hình thái kinh tế - xã hội: đến kiến trúc thượng tầng xã hội, đến quan hệ
sản xuất, quan hệ xã hội và sẽ dẫn đến những biến động to lớn của xã hội loài
người. Trên quan điểm duy vật lịch sử, chúng ta có thể coi KTTT là trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội. Đại hội IX của Đảng cũng đã
nhận định: “KTTT có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”. Như vậy, nói về KTTT không có nghĩa là nói về một hình
thái kinh tế - xã hội mới nào mà chỉ nói về phương diện lực lượng sản xuất,
nói về một xu thế mới đang diễn ra: sự phát triển của kinh tế dựa nhiều hơn
vào tri thức và thông tin. Xu thế phát triển đó mang tính tất yếu và khách quan

14
mà các nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa xã hội khoa học đã
tiên đoán.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa coi KTTT chỉ thuần túy là lực lượng
sản xuất, thậm chí chỉ là khoa học công nghệ (trong chính sách phát triển của
Nhà nước) mà trước sự hình thành và phát triển của KTTT hiện nay, phải có
thái độ với nó với tư cách là một phương thức sản xuất, bao gồm lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và và thể chế quản lý phù hợp với nó. Bởi vì quan

hệ sản xuất và thể chế quản lý là những mặt không thể tách rời lực lượng sản
xuất trong vận động, khi lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ kéo theo sự phát
triển của quan hệ sản xuất đồng thời thể chế quản lý. Có như vậy, KTTT tồn
tại dưới dạng một cơ cấu kinh tế có khả năng vận động tái sản xuất được,
những chính sách phát triển đưa ra mới đảm bảo được tính toàn diện đối với
sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức
Lịch sử văn minh nhân loại đến nay, nhìn từ góc độ tiến bộ kỹ thuật và
lực lượng sản xuất phát triển có thể chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn kinh tế
sức lao động, giai đoạn kinh tế tài nguyên và giai đoạn KTTT. Mỗi một giai
đoạn đều có những đặc trưng riêng phản ánh bản chất phát triển của chúng.
Hiện nay, khi nhận định về đặc trưng của KTTT, các ý kiến phần lớn là giống
nhau, chỉ khác nhau ở số lượng các đặc trưng. Dưới đây, chúng tôi xin trình
bày một số đặc trưng chủ yếu của nền KTTT như sau:
1. Đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế tri thức đó là nền kinh tế dựa chủ
yếu vào tri thức hay tri thức trở thành nguồn lực có ý nghĩa quyết định nhất
đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khác với các nền kinh tế đã có trong lịch sử
(nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp), tri thức là nguồn lực có vị
trí quyết định nhất của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển
kinh tế trong nền KTTT.
Trong nền KTTT, tri thức tham gia vào quá trình quản lý, điều khiển
sản xuất, đồng thời trực tiếp là một thành tố trong các sản phẩm cũng như

15
nguyên liệu sản xuất. Ngày nay, đúng như dự báo của C.Mác: Tri thức trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Xu hướng này ngày càng được thấy rõ, có
hơn 50% GDP hàng năm của các nước OECD có nguồn gốc từ tri thức, có tới
60% công nhân Mỹ là công nhân tri thức, trong cơ cấu giá trị các sản phẩm,
giá trị của nó được cấu thành từ tri thức chiếm 70% – 80%, thậm chí có
những sản phẩm còn cao hơn.

Thông qua công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin, tri thức
được thể hiện ra không chỉ như là điều kiện để KTTT phát triển, mà bản thân
nó đã trở thành một thành phần của nền KTTT, có giá trị tăng nhanh và được
ứng dụng rộng rãi trong hoạt động kinh tế - xã hội.
Xu thế phát triển sẽ là: tất cả các ngành đều trở thành ngành KTTT.
Trong nông nghiệp sẽ phát triển nhanh các trang trại tự động hóa, sử dụng
công nghệ thông tin, công nghệ cao; trong công nghiệp hầu hết các nhà máy
sẽ tự động hóa hoàn toàn; còn dịch vụ thì rõ ràng là ngành dựa vào thông tin
và tri thức nhiều nhất. Do vậy, nếu chỉ xem xét cơ cấu kinh tế theo ba ngành
là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thì xu thế phát triển KTTT được thể
hiện qua sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế có
giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức (như các ngành công nghiệp thông
tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài
chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ…) và
giảm nông nghiệp. Ở các nước phát triển ngày nay, trong cơ cấu GDP, tỷ lệ
đóng góp của nông nghiệp chỉ còn dưới 2%, trong khi dịch vụ chiếm gần
70%, còn lại là của công nghiệp.
Không giống như các nền kinh tế trước đây, trong nền KTTT, việc đầu
tư vốn vô hình cho nền kinh tế là chính và ngày càng được tăng cường. Tất
nhiên trong KTTT, vẫn cần thiết phải đầu tư vốn hữu hình, nhưng không phải
là chủ yếu và ngày càng giảm tỷ lệ đóng góp cho nền kinh tế mới này. Người
ta nhận thấy ở rất nhiều xí nghiệp kỹ thuật cao của Mỹ, vốn vô hình đã vượt
quá 60% tổng số vốn. Khi tăng vốn vô hình, tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi

16
quan điểm về giá trị xã hội: Ở đâu mà công việc của con người có nhiều tri
thức, có thu nhập càng cao, thì sẽ tập trung nhiều trí thức, và tất nhiên trí thức
(những người có tri thức cao) sẽ được tôn trọng. Trong nền KTTT, quyền sở
hữu trí tuệ trở nên rất quan trọng (có khi hơn cả vốn, tài nguyên thiên nhiên).
Trong nền kinh tế mới này, việc sản xuất, sáng tạo ra tri thức mới là thước đo

giá trị xã hội. Ai hay quốc gia dân tộc nào “chiếm hữu” hoặc sáng tạo được
nhiều tri thức thì sẽ có nhiều ưu thế trong cuộc cạnh tranh gay gắt này. Vì
vậy, việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản tri thức là yêu cầu cấp thiết, là động lực
đảm bảo cho sự sáng tạo và khai thác tài nguyên trí tuệ. Thế nhưng, nếu bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ đến mức hạn chế sự phổ biến tri thức thì lại kiềm chế
sự phát triển.
2. Nền kinh tế tri thức là mang tính chất toàn cầu. Quá trình phát triển
khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển
KTTT, cùng với quá trình phát triển thương mại, thị trường và quá trình toàn
cầu hóa, nhất thể hóa các nền kinh tế là những quá trình đi liền nhau, gắn
quyện với nhau, tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. Ngày nay, sự sản
sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức không còn nằm trong phạm vi biên giới
một quốc gia. Nền KTTT ra đời trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu
hóa; bất cứ ngành sản xuất nào, dịch vụ nào cũng đều dựa vào nguồn cung
ứng từ nhiều nước và được tiêu thụ trên toàn thế giới. Người ta thường gọi
nền KTTT là nền kinh tế toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu
dựa vào tri thức.
Thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mà trực tiếp
nhất là công nghệ thông tin là một trong những nguyên nhân dẫn đến xu thế
toàn cầu hóa. Đây là xu thế khách quan của lịch sử phát triển xã hội. Không
gian điện tử - các hoạt động mạng (chủ yếu là internet) là bộ phận quan trọng
của hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu đã giúp rút ngắn thời
gian, giảm khoảng cách không gian, biên giới địa lý ngày càng mất dần ý

17
nghĩa, đảm bảo những điều kiện thuận lợi nhất và cần thiết nhất để mọi người
cùng tham gia vừa để hợp tác, vừa để cạnh tranh, cùng tồn tại và phát triển.
Nền KTTT dựa vào đầu tư vốn trí tuệ, thực hiện sự phát triển bền vững
trong nền kinh tế toàn cầu. Người ta nhận thấy rằng, trong nền KTTT, nguồn
tài nguyên tiêu hao không nhiều nhưng sự tăng trưởng kinh tế của một số

nước lại tăng khá cao. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của thị trường thế giới.
Ngày nay, công nghệ, nhất là công nghệ cao được lan truyền rộng và phát
triển, không chỉ bó hẹp trong các ngành nghề mới, như: kỹ thuật máy tính, kỹ
thuật vi điện tử, kỹ thuật quang điện tử, kỹ thuật con chíp, kỹ thuật IC quy mô
lớn, mà còn thâm nhập hầu như vào tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trong
nền kinh tế mới này, bất kỳ quốc gia nào cũng đều có thể lợi dụng tài nguyên
trí tuệ cao đặc thù của mình để chiếm giữ một bộ phận của thị trường quốc tế,
và đó là bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế toàn cầu.
Con đường để trở nên giàu có, phồn thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc,
mỗi tổ chức, công ty, xí nghiệp… không thể tách rời sự phát triển phồn thịnh
của cả hệ thống. Hệ thống ở đây trước hết là hệ thống mạng, là môi trường để
mỗi chủ thể sản xuất, kinh doanh cùng tham gia, liên kết. Trong sự tham gia
liên kết này có cả thời cơ và thách thức, vừa hợp tác vừa cạnh tranh là lẽ tồn
tại của mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh trong thời đại nền kinh tế thị trường.
Trong nền KTTT, cái mới liên tục thay thế cái cũ, do đó, sáng tạo là
một trong những nhân tố đảm bảo duy trì sự tồn tại và phát triển của các chủ
thể sản xuất kinh doanh. Bởi vậy càng nổi lên vai trò của hệ thống đổi mới và
sáng tạo quốc gia.
3. Phương thức phát triển cơ bản của nền kinh tế tri thức là xã hội học
tập, học tập suốt đời cho mọi người. Để có được tri thức, mọi người cần học
tập thường xuyên hơn nữa, có tổ chức và dưới nhiều hình thức, mới có thể
tiếp thu và biến tri thức chung thành cái của mình. Hơn nữa, muốn sử dụng tri
thức chung như một loại hàng hóa thông thường, mỗi người lại phải biết
chuyển hóa những tri thức đó thành kỹ năng. Với nền KTTT, việc có được

18
nhiều hay ít tri thức là do quá trình học tập, tiếp thu tri thức và năng lực
chuyển hóa tri thức của mỗi người.
Do sự bùng nổ thông tin và sự liên tục đổi mới công nghệ, tri thức, mà
mô hình giáo dục truyền thống trở nên không còn phù hợp, cần phải được đổi

mới. Cụ thể là đào tạo cơ bản để tạo thêm việc làm và tiếp tục đào tạo, đồng
thời vừa đào tạo vừa làm việc. Như thế được gọi là học tập suốt đời. Xã hội
học tập phải tạo điều kiện thuận lợi nhất, đảm bảo cho mọi thành viên trong
xã hội có cơ hội học tập tốt nhất, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.
UNESCO (tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp
quốc) đã nêu lên bốn trụ cột của giáo dục, coi đó như một chìa khóa để
bước vào thế kỷ XXI là: Học để biết, học để lao động, học cách chung sống
và học cách tồn tại.
Việc học tập suốt đời trong nền KTTT chẳng những giúp ta vượt qua
thách thức của một thế giới đầy biến động, đang thay đổi nhanh chóng, mà
còn mở ra nhiều cơ hội thích nghi, tiếp cận trong không gian và thời gian hiện
đại. Đồng thời, việc học tập suốt đời còn bao hàm cả việc hình thành nên nhân
cách, năng lực, khả năng đánh giá và hành động của mỗi cá nhân.
4. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững, rất nhạy cảm
và thân thiện với môi trường. Trong nền sản xuất trước đây, với tiêu chí là lợi
nhuận, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế luôn muốn vận dụng một cách
tối đa các máy móc hiện đại hiện thời để khai thác mọt cách triệt để tài
nguyên thiên nhiên; và để chi phí sản xuất trở nên tối giản nhất họ bỏ qua các
khâu về xử lý chất thải. Vì thế tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường
bị ô nhiễm nghiêm trọng. Còn trong nền KTTT, sự phát triển của nó là dựa
trên cơ sở kinh tế công nghệ cao, sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả các
nguồn tài nguyên và không gây ô nhiễm môi trường sống của con người, đồng
thời khai phá nguồn tài nguyên thiên nhiên còn chưa được tận dụng hết để
thay thế nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm đang gần cạn kiệt. Ví dụ, hiện

19
nay nguồn năng lượng hóa thạch đang gây ô nhiễm nặng nề, với mối đe dọa
về sự cạn kiệt dầu khí (giá dầu hiện nay có lúc đã lên đến hơn 100USD/thùng)
đang là nguy cơ đối với tính bền vững, thì nhờ hệ thống công nghệ cao, nền
KTTT có thể chuyển sang hệ năng lượng mới rẻ tiền và phân phối đồng đều

như năng lượng mặt trời, năng lượng nhiệt hạch…, và nhân loại sẽ bước vào
thời kỳ phát triển bền vững. Sở dĩ hiện nay chúng ta chưa thể chuyển sang
được hệ năng lượng rẻ và phân phối đồng đều là vì có vô số các ông chủ đang
muốn kiếm lợi lớn trong giai đoạn dầu đang cạn kiệt dần này. Đối với việc
giảm thải chất thải ra môi trường cũng đang chứng tỏ tính ưu việt của nền
KTTT so với nền kinh tế truyền thống. Ví dụ như hao phí tài nguyên của kỹ
thuật phần mềm máy tính và kỹ thuật gen của công nghệ sinh học là rất ít. Các
khu công nghệ cao đã được hình thành, đó là các khu công nghiệp sạch, khác
xa khu vực sản xuất truyền thống trước đây.
5. Nền kinh tế tri thức làm biến đổi cơ bản thị trường truyền thống.
KTTT sinh ra trong điều kiện của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
hàng hóa tri thức ngày càng trở nên áp đảo trong thị thị trường đó. Tình hình
này dẫn đến những thay đổi cơ bản trong thị trường truyền thống.
Trước hết là vấn đề tài sản vô hình ngày càng trở thành vốn đầu tư
chính. KTTT tất nhiên cũng cần các loại vốn thông thường (tiền, tài sản),
nhưng thông tin, tri thức, tài sản trí tuệ, vốn người ngày càng trở nên quan
trọng áp đảo (so với vốn tiền). Trong nền kinh tế Mỹ hiện nay, ở các doanh
nghiệp công nghệ cao (Công nghệ phần mềm, viễn thông…), số vốn vô hình
chiếm tới trên 60% tổng số vốn hữu hình (tiền, tài sản). Đây là một bài toán
mới về KTTT trong hạch toán, kinh doanh.
6. KTTT làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội. Trong nền
KTTT, thành phần lao động dịch vụ tăng mạnh (có thể lên tới 80% - 85%),
thành phần công nghiệp giảm xuống dưới 10% - 15% và lao động nông
nghiệp chỉ còn khoảng dưới 5%. Những người lao động tri thức có thể chiếm

20
tỷ lệ rất cao (≈70%), trong số đó, những công nhân tri thức tuy ít nhưng có
trình độ và vai trò quyết định trong sản xuất. Nhưng tình hình này ắt sẽ dẫn
đến mâu thuẫn giữa các ông chủ và người lao động, có thể gây ra thất nghiệp
và khủng hoảng.

Trong xã hội xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu mới. Đó là các tổ
hợp vừa sản xuất, vừa nghiên cứu, học tập, các làng khoa học, các công viên
khoa học, các vườn ươm khoa học, …được xây dựng. Ở đây, người ta tạo ra
các nhân tài, các chuyên gia, kỹ thuật viên bậc cao chuyên sản xuất ra tri thức
có tính năng hoàn toàn mới. Đó cũng chính là thế mạnh của một dân tộc, một
quốc gia hay một nhóm quốc gia trong cuộc cạnh tranh.
Kèm theo sự thay đổi đó là sự thay đổi về thang giá trị. Trước đây trong
nền kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa, số vốn hữu hình (bằng tiền) quyết
định bậc thang giá trị. Nền kinh tế ngày nay đang dần chuyển sang bậc thang
giá trị mới được quyết định bởi vốn vô hình (nhân tài sản sinh ra tri thức có
giá trị cao, công nghệ có hiệu quả lớn…).
Sự thay đổi của thang giá trị còn thể hiện ở chỗ quan điểm thích “làm
quan” chuyển sang thích làm doanh nhân cạnh tranh thắng bại trong thị
trường. Trong nền KTTT, chỉ có các quyết sách dựa trên tri thức tiên tiến thì
mới có thể chỉ ra hướng đi đúng. Việc ra quyết định trong điều chỉnh vĩ mô
trong nền KTTT càng phải được tri thức hóa cùng với sự hỗ trợ của các công
cụ tối tân của công nghiệp công nghệ thông tin và công nghệ tri thức, tức là
vận dụng công nghệ quản lý.
Có thể khái quát những điểm khác biệt giữa các nền kinh tế như sau:

21
Bảng so sánh đặc điểm ba nền kinh tế:

Yếu tố
Nền kinh tế
nông nghiệp
Nền kinh tế công
nghiệp
Nền KTTT
Đầu vào của sản

xuất
Lao động, đất
đai
Lao động, vốn
Tri thức, thông tin, lao
động, vốn
Các quá trình chủ
yếu
Trồng trọt,
chăn nuôi
Khai khoáng, chế
tạo, gia công
Dự báo, điều khiển, sáng
tạo
Đầu ra của sản xuất
Lương thực
Lương thực, hàng
hóa tiêu dùng, các xí
nghiệp, nền công
nghiệp
Lương thực, hàng hóa tiêu
dùng chất lượng cao, công
nghiệp tri thức,vốn tri
thức, công nghệ mới
Công nghệ chủ yếu
thúc đẩy phát triển
Sử dụng súc
vật, công cụ
thủ công đơn
giản

Cơ giới hóa, hóa học
hóa, điện khí hóa,
chuyên môn hóa
Công nghệ cao, điều
khiển, sáng tạo
Cơ cấu xã hội
Nông dân là
chủ yếu
Công nhân là chủ
yếu
Công nhân tri thức là chủ
yếu
Đầu tư cho R&D
<0.3% GDP
1% - 2% GDP
>3% GDP
Tỷ lệ đóng góp của
khoa học – công
nghệ cho tăng
trưởng

30%
70%
Đầu tư cho giáo dục
<1% GDP
2% - 4% GDP
6% GDP
Tầm quan trọng của
giáo dục
Thấp

Vừa phải
Rất cao
Trình độ văn hóa
trung bình
Tỷ lệ mù chữ
cao
Trung học
Cao đẳng, đại học
Vai trò của công
nghệ thông tin và
truyền thông
-
Vừa phải
Chủ yếu


22
1.2. Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Kinh tế tri thức – xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới
Bản chất, đặc điểm cũng như biểu hiện của KTTT đã chứng tỏ rằng nền
KTTT không phải là sự kỳ vọng hay mơ ước viển vông, mà đó là một xu thế
vận động, phát triển được hiện thực hóa khá nhanh. Lực lượng sản xuất vốn là
yếu tố động, cách mạng, vì thế nó không ngừng phát triển theo hướng tích
cực, làm cho nền kinh tế chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp đến kinh tế công
nghiệp và ngày nay đang chuyển dần lên KTTT. KTTT là giai đoạn phát triển
cao của lực lượng sản xuất, cũng như các nền kinh tế trước nó, KTTT là sự
phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất chủ yếu dựa
vào lao động thủ công và đất đai thì ra đời nền kinh tế nông nghiệp, khi sản
xuất dựa chủ yếu vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên thì ra đời kinh tế
công nghiệp, đến khi sự sản xuất ra của cải vật chất dựa chủ yếu vào tri thức

thì ra đời KTTT.
Đã gọi là xu thế khách quan thì không thể quay lưng lại hay từ chối nó
mà có thể phát triển được. Nhờ sớm biết sử dụng tri thức để phát triển mà nền
kinh tế của các nước phát triển đã vượt xa các nước đang phát triển cả về trình
độ và tốc độ phát triển. Do tính linh hoạt, hiệu quả cao, các sáng kiến, phát
minh khoa học xuất hiện ngày càng nhiều và điều quan trọng hơn là chúng
được phổ biến cực nhanh trên diện rộng thông qua mạng internet siêu cao tốc
đã tạo ra sự bứt phá nhanh trong tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của giới
chuyên môn, chỉ tính riêng quá trình chuyển giao công nghệ được rút ngắn, có
thể đẩy mức tăng trưởng kinh tế thế giới lên đến 1% hằng năm, tương đương
với 300 tỷ USD và còn cao gấp bội theo mức gia tăng của tổng sản phẩm thế
giới trong thế kỷ 21. Thành quả của KTTT là rất to lớn; bởi vậy, việc nắm bắt
được xu thế phát triển của nền KTTT, đưa ra được những đối sách thích hợp
trong chiến lược phát triển kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với triển
vọng phát triển của mỗi quốc gia hiện nay.

×