Lời mở đầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngời trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp
nhau từ thấp lên cao, ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế xã hội phù
hợp với nó. Sự phát triển của các hình thức kinh tế xã hội nối tiếp nhau là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình này đợc C. Mác phân tích nghiên cứu và
khẳng định rằng sự ra đời và phát triển của một hình thái kinh tế xã hội nhất
định bắt nguồn đầu tiên từ sự vận động, phát triển của lực lợng sản xuất - nhân
tố vận động nhất của phơng thức sản xuất.
Trong quá trình tìm kiếm con đờng đa nền kinh tế phát triển đi lên, Đảng
và Nhà nớc ta đã lựa chọn đờng lối đổi mới, công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm
1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng XHCN. Đồng thời những giá trị cơ bản mới cũng đã
đợc Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (1986) lựa chọn và xác nhận.
Điều đó đã tạo ra những động lực lành mạnh, làm nhộn nhịp các hoạt động
kinh tế, làm tơi tỉnh bộ mặt xã hội, là nguyên nhân trực tiếp làm cho đất nớc
có những bớc ổn định và phát triển trong những năm gần đây.
Công cuộc đổi mới đã làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội,
đặc biệt là sự thay đổi hệ thống giá trị xã hội đồng thời tạo ra những chuẩn
mực xã hội mới. Từ đó nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó việc làm những vị trí
của nhân cách và sự ảnh hởng của cơ chế thị trờng trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách con ngời là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận, thực
tiễn quản lý đất nớc cũng nh công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia.
Về bản chất, con ngời muốn tồn tại với t cách là thành viên của xã hội
nên bao giờ cũng tuân theo một cơ chế xã hội mà anh ta đang sống. Nói cách
khác, chính con ngời tạo ra cơ chế hoạt động xã hội nhng không phải tùy tiện
theo ý muốn chủ quan mà bị quy định bởi những quy luật phát triển khách
quan của xã hội. Và sự biểu hiện về thái độ, hành vi, phong thái, cách xử sự
đối với những vấn đề của xã hội chính là nhân cách của con ngời.
Nhân cách con ngời trong cơ chế thị trờng là một yếu tố quan trọng cần
đợc quan tâm. Chính vì vậy nên em chọn đề tài này để phân tích đánh giá.
1
Trong bài viết của mình có thể có những thiếu sót cần bổ sung. Em mong thầy
chỉ ra những thiếu sót để sửa chữa bài viết của mình cho hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn.
2
Phần A : Giới thiệu đề tài
Trong các tác phẩm kinh điển của mình C. Mác và Anghen cho rằng con
ngời phải đợc đặc biệt chú trọng vì con ngời là sản phẩm cao nhất của quá
trình phát triển lâu dài của tự nhiên và xã hội. Con ngời vừa là điểm xuất phát
vừa là khâu trung gian, là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội nên con ngời
luôn đóng vai trò chủ thể của sự vận động và phát triển của lịch sử. Chính vì
vậy Đảng và Nhà nớc ta luôn xác định con ngời Việt Nam vừa là mục tiêu vừa
là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc. Đặc biệt khi Việt
Nam nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc thì yếu tố con ngời có vai trò quan trọng.
Trong cơ chế thị trờng con ngời trở nên năng động, sáng tạo và tài giỏi. Đa
nền kinh tế đất nớc dần thoát ra khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Có thể
nói cơ chế thị trờng là điều kiện để con ngời phát huy hết khả năng sáng tạo
của mình, nhng cơ chế thị trờng còn là môi trờng dể phát sinh nhiều tiêu cực
và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng cơ chế thị
trờng cha đợc bao lâu, mà bên cạnh những thành tựu nh làm ăn thuần túy chạy
theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, trò hối lộ trốn thuế, nợ nần khó
trả, thơng mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập vào các lĩnh vực dễ tổn thơng
nh y tế, giáo dục, văn hoá làm giá trị đạo đức tinh thần bị băng hoại và
xuống cấp, đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa ngời với ngời, tự phân hoá giày
nghèo và bất công xã hội có chiều hớng tăng lên lối sống ích kỷ, thực dụng có
nguy cơ ngày càng tăng. Sự đổi mới của cơ chế kinh tế đã làm cho hệ thống
giá trị xã hội có ít nhiều thay đổi cùng với những giá trị chuẩn mực mới đã
phần nào chi phối đến đời sống của từng cá nhân trong xã hội. Từ đó hình
thành nên những con ngời mới. Vì vậy việc hình thành nhân cách con ngời
trong nền kinh tế thị trờng đang là một vấn đề đợc sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế xã hội.
3
Phần B : Nội dung nghiên cứu
I. Lý luận chung về nhân cách con ngời trong cơ chế thị trờng
1. Cơ sở lý luận
a) Nhân cách là gì ?
Nhân cách không nảy sinh từ cái phi vật chất, cứng không nảy sinh từ
mọi cấu trúc vật chất và cũng không phải là những yếu tố có sẵn trong cá thể,
cá nhân rồi lớn dần lên về số lợng trong thời gian và không gian. Nhân cách đ-
ợc hình thành và phát triển phụ thuộc vào những yếu tố dới đây :
Thứ nhất : Nhân cách phải dựa trên tiền tệ sinh học một t chất di truyền
học một cá thể sống, có cấu trúc phức tạp và phát triển cao, có các giác
quan, hệ thần kinh trung ơng, não bộ đoá hoá rực rõ nhất của vật chất.
Thứ hai : Môi trờng xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát
triển nhân cách. Đó là môi trờng gia đình, trờng học và xã hội tác động vào cá
nhân bằng vô vàn những sợi dây liên hệ trực tiếp và gián tiếp. Sự tác động của
xã hội vào cá nhân không diễn ra một chiều mà đó là sự tác động biện chứng.
Thứ ba : Hạt nhân của nhân cách đó là thế giới quan cá nhân bao gồm
toàn bộ những quan điểm, lý tởng, niềm tin, định hớng giá trị chung của cá
nhân. Đóng vai trò quyết định hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất
của thời đại : lợi ích, vai trò, địa vị của cá nhân trong xã hội, mức độ từng trải,
khả năng thẩm định các giá trị đạo đức nhân văn, tầm hoạt động cá nhân
trong xã hội.
Trên cơ sở nền tảng thế giới quan đó, nhân cách còn bao gồm các thuộc
tính bên trong về năng lực, về phẩm chất xã hội của nhân cách nh năng lực, trí
tuệ, thể chất chuyên môn và những phẩm chất chính trị đạo đức, pháp luật
thẩm mỹ.
Nh vậy, sự hình thành và phát triển của nhân cách là sự thống nhất của ba
chiều sinh học (sinh lý), tâm lý và xã hội trong quá tình xác lập cái tôi.
b) Cơ chế thị trờng là gì ?
4
Cơ chế thị trờng là cơ cấu chế độ, hình thức xã hội của các tổ chức và
hoạt động kinh tế, trong đó các mối quan hệ giữa con ngời với con ngời đợc
biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi. Trong lịch sử phát triển sản xuất
vật chất, thị t rờng ( theo đúng nghĩa của nó) thực sự phát triển cùng với sự
phát triển của CNTB.
Việc chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có ý nghĩa to lớn trong việc
giải phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nó tạo ra những
điều kiện tiền đề kinh tế cho sự phát triển, khai thác các nguồn lực cho quá
trình phát triển, đồng thời thúc đẩy và mở rộng hợp tác và phân công lao động
quốc tế trong nớc và thế giới áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn
a) Kinh tế thị trờng là một yếu tố khách quan trong quá trình vận động và
phát triển kinh tế ở Việt Nam thời kỳ trớc năm 1986, với cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế Việt Nam không phát triển đợc thậm
chí có chiều hớng đình trệ nguy hiểm, nền sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của xã hội.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta đã thừa nhận những sai lầm
khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm và định hớng cho nền kinh
tế nớc ta phát triển theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của nhà nớc. Đảng ta đã đề ra chủ trơng quá trình từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nớc ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn
nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá .Việc sử dụng đầy
đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá, tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị tr-
ờng. Đờng lối đúng đắn đó một lần nữa đợc chỉ rõ trong Đại hội toàn quốc
lần thứ VIII : Để phát huy tiềm năng , của nền kinh tế nhiều thành phần phải
tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công
cụ khác nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn cần thiết để
giải phóng và phát huy đợc các tiềm năng sản xuất trong xã hội.
5
Đến đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò
của kinh tế thị trờng cơ chế thị trờng đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến
sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một
nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nớc theo con
đờng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trờng không đồng nhất với kinh tế TBCN,
không phải là thành quả riêng của CNTB. Kinh tế thị trờng đã từng xuất hiện
khá sớm trớc CNTB và là thành quả chung của văn minh loài ngời. Việc
chuyển đất nớc sang vận hành theo cơ chế thị trờng không đơn thuần chỉ là
quá trình thay đổi lại cấu trúc nền sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở
hữu t liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động mà còn đổi mới nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế xã hội nh cơ chế quản lý kinh tế và
quản lý xã hội, hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ, các thiết chế và chính
sách xã hội
b) Việc hình thành nhân cách con ngời trong cơ chế thị trờng
Sự chuyển biến nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trờng sẽ dẫn đến những tác động lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội trong đó có lĩnh vực đạo đức, nhân cách con ngời. Kinh tế thị tr-
ờng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát
hết sức bớng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trờng còn là môi trờng thuận lợi
để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy,
tuy mới áp dụng cơ chế thị trờng cha đợc bao lâu, mà bên cạnh những thành
tựu, nh làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo,
hối lộ, trốn thuế thơng mại hoá một cách tràn lan làm giá trị đạo đức tinh
thần bị băng hoại và xuống cấp đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa ngời với
ngời. Sự đổi mới cơ chế kinh tế đã làm cho hệ thống giá trị xã hội có ít nhiều
thay đổi cùng với những giá trị chuẩn mực mới đã phần nào chi phối đến đời
sống của từng cá nhân trong xã hội từ đó hình thành nên những con ngời mới.
Ngời ra thừa nhận có sự thay đổi các giá trị từ anh hùng, dũng cảm hy sinh
trong chiến đấu sang năng động sáng tạo và nhạy bén trong sản xuất kinh
doanh. Tiêu biểu là những con ngời biết làm giàu cho mình và cho đất nớc.
Trong đời sống xã hội, các giá trị đạo đức đang đợc sắp xếp lại, từ chỗ chuyển
6
đi các giá trị tinh thần là trọng, sang đề cao các giá tị tinh thần và các giá trị
vật chất. Trong đó các giá trị đợc kết hợp hài hoà với nhau vừa tôn trọng giá
trị cộng đồng vừa tôn trọng giá trị cá nhân.
Nh vậy vấn đề đạo đức và xã hội đang diễn ra phức tạp có sự đấu tranh
giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái thiện và cái ác, giữa hai lối sống, sống
có lý tởng lành mạnh, trung thực thuỷ chung với lối sống thực dụng, dối trá,
ích kỷ, ăn bám chạy theo đồng tiền. Những khía cạnh tiêu cực có cái đang
phát huy tác dụng, có cái đang ở dạng khả năng. Đạo đức mới phải đấu tranh
với các hệ thống đạo đức khác vừa phải tự đổi mới, tự khẳng định mình trong
điều kiện mới. Đó là tình huống đặt ra đối với nhân cách và đạo đức hiện nay.
c. Vai trò của chủ thể xã hội, cá nhân trong việc định hớng nhân cách
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xã hội là mối quan hệ biện chứng đ-
ợc thực hiện trên nền tảng lợi ích. Trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội, xã
hội giữ vai trò quyết định. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp
các quan hệ lợi ích sao cho khai thác đợc cao nhất khả năng của mỗi thành
viên vào các quá trình kinh tế xã hội và thúc đẩy các quá trình đó phát triển
cao hơn. Xã hội là môi trờng, là phơng tiện để lợi ích cá nhân đợc thực hiện :
xã hội càng phát triển thì cá nhân nhận đợc ngày càng nhiều những giá trị vật
chất và tinh thần.
Vai trò của cá nhân ảnh hởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ phát triển
của nhân cách. Những cá nhân có tài năng, phẩm chất, kinh nghiệm cao, có
trách nhiệm cao đối với xã hội, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với xã hội sẽ góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những cá nhân bị thoái hoá biến chất về nhân
cách sẽ gây ảnh hởng xấu tới xã hội, cản trở sự phát triển của xã hội Ng ợc
lại, sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng còn tuỳ thuộc vào trình độ văn
minh khác nhau của chế độ xã hội.
CNXH tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân Anghen viết
việc chuyển t liệu sản xuất thành sở hữu xã hội và nhờ sự sản xuất có tính
chất xã hội khả năng đảm bảo cho mọi thành viên của xã hội một đời sống
không những là hoàn toàn đầy đủ về phơng diện vật chất và ngày càng dồi dào
thêm lên, mà còn đảm bảo cho họ đợc phát triển tự do, đầy đủ và vận dụng đ-
7
ợc tự do, đầy đủ các năng khiếu về thể lực và trí tuệ của họ. Đồng thời
CNXH lại có những yêu cầu nhất định đối với cá nhân, giao trách nhiệm cho
mỗi cá nhân. Cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ của mình thì CNXH càng đợc
củng cố, phát triển và bảo vệ vững chắc. Ngợc lại CNXH càng đợc củng cố và
phát triển quyền tự do, các năng khiếu về thể lực và trí lực của cá nhân mới đ-
ợc đảm bảo.
Quá trình kết hợp lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo, tổ chức và quản lý một cách khoa học của Đảng và Nhà nớc XHCN. Mọi
trờng hợp viện cớ có vẻ chính đáng về sự quan tâm đến lợi ích tập thể của xã
hội, gạt bỏ lợi ích cá nhân, không quan tâm đến lợi ích cá nhân, làm mai một
hoặc thui chột tài năng cá nhân, hoặc ngợc lại đề cao quá đáng lợi ích xã hội
bị che lấp hoặc bị coi nhẹ đều gây những hậu quả xã hội tiêu cực trở ngại cho
sự phát triển xã hội.
II. Thực trạng vấn đề
1. Những tác động của cơ chế thị trờng đến nhân cách con ngời
a) Theo hớng tích cực
Do ảnh hởng nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém
phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Nền kinh tế n ớc ta đã tụt
hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị tr-
ờng là điều kiện rất quan trọng đa nền kinh tế nớc ta ra khỏi khủng hoảng
phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trởng, bắt kịp bớc tiến thời đại.
Trong những năm vừa qua, kinh tế thị trờng pử nớc ta đã đợc nhân dân h-
ởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy tiềm
năng sáng tạo các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kích thíc tăng năng suất lao
động không ngừng. Sự tìm tòi sáng tạo của cá nhân trong sản xuất luôn đợc
khuyến khích. Đây là nhân tố tích cực mà trong cơ chế quan liêu bao cấp còn
bị kìm hãm. Nói một cách khác cơ chế thị trờng là cơ sở để phát triển tính
năng động của cá nhân, lợi ích cá nhân đợc kích thích, đợc đảm bảo. Do vậy
trong cơ chế thị trờng con ngời tự vơn lên tìm tòi sáng tạo trong lao động sản
xuất để sản phẩm ngày càng đợc nâng cao cả về chất lợng lẫn số lợng.
8
Kinh tế thị trờng đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm về mặt
vật chất của ngời cán bộ quản lý.
Nói đến trách nhiệm của ngời cán bộ quản lý trớc hết là nói đến trách
nhiệm cá nhân của họ. Điều đó biểu hiện ở trách nhiệm đối với công việc
đợc giao phó. Tinh thần trách nhiệm của ngời cán bộ quản lý phải đợc biểu
hiện ở hiệu quả của công tác quản lý, của các hành động quản lý, của các
quyết định quản lý. Nói đến tiêu chuẩn của ngời cán bộ quản lý trong cơ chế
thị trờng là nói đến đức và tài, trong đó đức là gốc. Nhng có đức mà
không có tài,không có đủ năng lực điều hành công việc hoặc không phấn
đấu nâng cao năng lực để đáp ứng nhu cầu của công việc thì sớm muộn cũng
bị kinh tế thị trờng đào thải. Kinh tế thị trờng làm cho động cơ và hiệu quả
quản lý gắn liền với nhau, thống nhất với nhau.
Kinh tế thị trờng là kinh tế mở tính đa dạng và đa phơng hoá cao của
nó đã có tác dụng đẩy lùi sự níu kéo, tính trì trệ với bản chất bảo thủ của cơ
chế tập trung quan liêu. Đây là những tác động làm cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo và quản lý kinh tế sống động, kéo theo sự năng động t duy của các chủ thể
lao động.
Cơ chế thị trờng tạo điều kiện cần thiết cho con ngời vơn lên, đòi hỏi mỗi
ngời phải học tập, rèn luyện bản thana, rèn luyện tay nghề để có thể đứng
vững trong nền kinh tế thị trờng. Ngợc lại, nền kinh tế thị trờng cũng rất
nghiêm khắc đào thải những sự trì trệ, bảo thủ, sự lạc hậu, lỗi thời của những
con ngời có những sản phẩm kinh tế kém mang tính chất cổ hủ cả về nội dung
lẫn hình thức.
Kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay không chỉ tạo ra các điều kiện vật chất
để xây dựng phát huy nguồn lực con ngời, mà còn tạo ra môi trờng xã hội
thích hợp cho con ngời phát triển hài hoà, toàn diện cả về mặt vật chất lẫn tinh
thần. Kinh tế thị trờng tạo ra sự cạnh ranh, chạy đua quyết liệt điều đó buộc
con ngời phải năng động, sáng tạo, linh hoạt có tác phong nhanh nhạy, có đâù
óc quan sát để thích nghi và hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực
hoạt động thực tiễn của con ngời góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ
vốn có của ngời lao động trong nền kinh tế lạc hậu của con ngời Việt Nam.
9
Kinh tế thị trờng tạo ra những điều kiện thích hợp để con ngời mở rộng
các mối quan hệ giao lu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá,
đạo đức theo tiêu chí thị trờng nh chữ tín trong chất lợng, chữ tín trong giao
dịch Đây cũng là một h ớng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá trị
của con ngời Việt Nam.
b) Mặt tiêu cực
Tuy cha áp dụng cơ chế thị trờng đợc lâu nhng những mặt trái của cơ chế
thị trờng đang làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Khi đất nớc chuyển từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trờng có sự quản lý, điều tiết
của nhà nớc theo định hớng XHCN, đã kéo theo những biến đổi tơng ứng của
ý thức xã hội, trong đó có ý thức đạo đức. Trong thời gian ngắn của sự chuyển
đổi kinh tế xã hội đó đạo đức XHCN có thể nói, có lúc đã giữ đợc vị trí chủ
đạo trong xã hội.
Khi nói đến mặt trái của nền kinh tế thị trờng Các Mác đã chỉ ra rằng :
Đó là một thứ tự do mậu dịch không có lơng tâm nó làm cho quan hệ giữa
con ngời Chìm ngập trong băng giá của sự tính toán lợi ích. Bởi vì ngoài
quan hệ lợi hại trần truồng, ngoài sự giao dịch tiền mặt lạnh lùng vô tình sẽ
chẳng còn mối liên hệ nào khác.
Có những lúc những nơi, kinh tế thị trờng không những không làm cho
con ngời ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngợc lại, còn làm tha hoá bản chất
con ngời, biến con ngời thành gã nô lệ, sùng bái đồng tiền hoặc thành kẻ đạo
đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên
nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luân lý Bên cạnh những tác động tích cực,
kinh tế thị trờng cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế, gây ra những tác động
xấu. Việc quá đề cao lợi ích cá nhân, bất chấp lợi ích tập thể, lợi ích xã hội là
một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất. Nhng mặt khác, lợi nhuận
cũng tự phát đẩy con ngời tới những hành vi phá hoại môi trờng sống và làm
tha hoá đạo đức nhân phẩm. Điều này rất đúng với nhận xét của TJ Duning và
C. Mác đã dẫn lại trong T bản với một lợi nhuận thích đáng thì t bản trở nên
can đảm. Đợc đảm bảo 10% lợi nhuận thì ngời ta có thể dùng t bản vào đâu
cũng đợc. Đợc 20% thì nó hoạt bát hẳn lên. Đợc 50% thì nó thật sự táo bạo.
10
Nhận xét trên đây không chỉ đúng với động cơ hành động của nhà t bản mà
còn đúng với cả động cơ hành động của con ngời nói chung.
Kinh tế thị trờng đề cao quá mức tự do cá nhân làm nảy sinh chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa lợi ích cực đoan, chủ nghĩa cá nhân với triết lý sống chết
mặc bay mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể, là kẻ thù của chủ nghĩa tập thể.
Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi ích cực đoan đẩy ngời cán bộ quản lý rơi vào
tình trạng tha hoá bản chất là môi trờng thuận lợi làm nảy sinh và phát triển
những hiện tợng lợi dụng chức quyền ngày càng trầm trọng. Thật không sai
khi hình dung kinh tế thị trờng là con dao hai lỡi, nêú dùng không cẩn thận rất
dễ bị đứt tay.
Nền kinh tế hàng hoá đòi hỏi phải mở rộng quan hệ với các nớc và thông
qua mở rộng quan hệ với các chúng ta đã tăng nhanh xuất khẩu và có những
bớc tiến mới trong kinh tế đối ngoại. Trong quá trình mở rộng hợp tác kinh tế
và giao lu với các nớc, một mặt, chúng ta tiếp thu đợc nhiều thành tựu văn
minh của nhân loại làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Mặt khác quá
trình xâm nhập của nền văn hoá ngoại lai đã làm cho văn hoá truyền thống
dần bị mai một. Do công tác quản lý văn hoá cha tốt nên trong hoạt động văn
hoá, văn nghệ nảy sinh khuynh hớng coi nhẹ văn hoá, văn nghệ dân tộc, chạy
theo thị hiếu không lành mạnh, để cho các văn hoá phẩm độc hại phổ biến
tràn lan. Những lối sống thực dụng đồi trụy có dịp lan rộng trong xã hội, gây
tác hại lớn đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Khi mà đạo đức và tinh thần có nhiều
vấn đề mới nảy sinh, đạo lý bị sa sút, thế giới nội tâm nghèo đi, một số vấn đề
định hớng giá trị, chuẩn mực xã hội truyền thống có thể bị đảo lộn. Một số tàn
d của xã hội cũ đã có thời kỳ lắng xuống, nay trong điều kiện kinh tế thị trờng
đang có nguy cơ phục hồi.
Nh vậy, kinh tế thị trờng cùng với những tác động tích cực còn có những
tác động tiêu cực với sự phát triển nhân cách, cá tính con ngời. Nó sẽ tạo ra sự
phát triển nhân cách, cá tính con ngời phiến diện vì hoạt động của con ngời bị
định hớng vào mục tiêu làm giàu bất chính. Tính thực dụng sẽ cản trở thậm
chí loại trừ những giá trị văn hoá, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Tất
11
cả những điều này sẽ dần dần làm cho nhiều giá trị văn hoá nói chung, giá trị
đạo đức của dân tộc nói riêng bị phai nhạt, bị phá huỷ.
2. Những nguyên nhân cơ bản của sự ảnh hởng tiêu cực của cơ chế
thị trờng trong việc hình thành nhân cách.
Một trong những nguyên nhân của các hiện tợng tiêu cực đó là trong quá
trình đổi mới, chúng ta cha lờng hết những phức tạp và những tác động tiêu
cực trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và trong quá trình
chuyển sang cơ chế thị trờng, chậm phát triển khắc phục những vấn đề mới
nảy sinh và những sơ hở trong các quyết định. Cùng với những khó khăn trong
kinh tế còn có những khó khăn trong các lĩnh vực khác : hệ thống pháp luật,
thể chế và bộ máy cha chuyển kịp với nền sản xuất hàng hoá và cơ chế thị tr-
ờng. Trật tự kỷ cơng cha đợc chấp hành nghiêm túc, vai trò điều tiết vĩ mô của
nhà nớc còn kém hiệu lực. Nhà nớc còn thiếu chính sách, biện pháp có hiệu
lực để ngăn chặn thu nhập phi pháp và điều tiết mức thu nhập. Việc buông
lỏng pháp chế xử lý các vụ việc vi phạm không nghiêm, thiếu sự chặt chẽ và
phối hợp không đồng bộ trong công tác quản lý điều hành đã ảnh hởng không
tốt đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách cong ngời Việt Nam.
Đô thị là nơi tập trung các cán bộ quản lý, viên chức nhà nớc, ngời lao
động chất xám, nhà buôn, kẻ giàu và cả những ngời tu hành trong hệ thống
các nhà thờ, chùa. Nếu các tầng lớp này không đề cao phẩm chất cuộc sống,
mà lại tha hoá biến chất, coi đồng tiền là trên hết thì đô thị chỉ có vật chất, chứ
không có văn minh tinh thần chân chính. Vì vậy xây dựng lối sống đô thị mới
chính là trở về với bản sắc dân tộc và đề cao bản lĩnh trong việc nâng cao bản
sắc dân tộc đợc hiện đại hoá, lối sống tiện nghi, coi đồng tiền trên hết thì đô
thị chỉ có vật chất, chứ không có văn minh tinh thần chân chính. Vì vậy, xây
dựng lối sống đô thị mới chính là trở về với bản sắc dân tộc và đề cao bản lĩnh
trong việc nâng cao bản sắc dân tộc đợc hiện hoá lối sống tiện nghi, coi đồng
tiền trên hết do chủ nghĩa cực đoan phơng tây mang lại đang càng ngày bị phê
phán.
12
Ngoài ra những t tởng trì trệ bảo thủ, bảo thủ của tầng lớp lãnh đạo và lối
sống tiểu nông, tầm nhìn thiển cận do nhịp điệu của phơng thức sản xuất cũ đẻ
ra là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế.
Mấy năm gần đây nhờ mở cửa thị trờng, giao lu kinh tế mà chúng ta ngày
càng phát triển cả về tinh thần lẫn vật chất. Đời sống con ngời đợc nâng cao
Nhng t tởng tiểu nông trong phong thái sinh hoạt, trong bề lối làm việc vẫn
còn đó. Tất cả các mặt này đều trực tiếp hay gián tiếp làm xói mòn đạo đức,
kỷ cơng xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải xoá bỏ những cản trở vớng mắt trên
con đờng phát triển kinh tế đa nớc ta tiến dần lên một xã hội văn minh xã hội
chủ nghĩa.
III. Những giải pháp khắc phục
Để khắc phục những mâu thuẫn của sự hình thành và phát triển nhân
cách trong cơ chế thị trờng chúng ta cần phải thống nhất giữa phát triển kinh
tế và phát triển xã hội. Chú trọng đầu t phát triển con ngời nhất là đầu t cho
giáo dục, nâng cao dân trí, phải làm tốt việc quản lý lĩnh vực t tởng. Cụ thể là
phải xây dựng cho đợc ở mỗi ngời một thế giới quan khoa học, một ý thức đạo
đức mới. Tuy vậy, để xây dựng nhân cách đạo đức, trớc hết cần phải tính đến
những nhân tố cơ bản quy định sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức
để từ đó có những biện pháp khả thi sau :
1. Giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội vấn đề công
bằng xã hội.
Vì con ngời luôn luôn theo đuổi lợi ích cá nhân nên khi họ vơn tới những
giá trị đạo đức cao cả thì buộc họ từ bỏ việc theo đuổi lợi ích cá nhân. Sự tách
rời giữa đạo đức và lợi ích khiến cho sự hoạt động đạo đức cá nhân bị hạn chế
con ngời hớng vào sự trung đạo đức nhiều hơn là hành vi đạo đức thực tế.
Ngày nay, cơ chế thị trờng làm biến đổi tính chất của việc giải quyết quan hệ
lợi ích giữa cá nhân và lợi ích xã hội. Thực hiện cơ chế thị trờng nghĩa là thừa
nhận tính hợp lý của việc theo đuổi lợi ích cá nhân. Một trong những đặc trng
tiêu biểu của cơ chế thị trờng là ở chỗ : mục tiêu của việc tham gia hoạt động
thị trờng là nhằm thoả mãn tối đa lợi ích cá nhân, tính hợp lý hợp pháp của lợi
ích cá nhân kích thích tính tích cực của hoạt động nhân cách. Việc tham gia
13
tích cực vào hoạt động kinh tế xã hội trong điều kiện kinh tế thị trờng sẽ làm
cho những nang lực nhân cách phát triển. Đến lợt mình, sự phát triển nhân
cách độc lập chính là điều kiện cho sự phát triển năng lực đạo đức của con ng-
ời.
Con ngời vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Với t cách là mục tiêu sự phát triển của con ngời phải là thớc đo của những
chính sách kinh tế và xã hội theo định hớng tất cả vì con ngời. Tuy nhuên,
cơ chế thị trờng với sự khuyến khích lợi ích cá nhân, tự nó đã bao chứa khả
năng và trên thực tế đã dẫn đến sự phát triển nhân cách rõ rệt nhất. Đó là sự
lệch pha, sự phát triển nhân cách thiên lệch giữa một bên là trí tuệ sự khôn
ngoan những năng lực thực tiễn với bên kia là sự xuống cấp của ý thức công
dân. Trách nhiệm và tình cảm đạo đức Bởi vậy, để khắc phục nghịch lý của
sự phát triển nhân cách, tạo điều kiện cho nhân cách đạo đức phát triển, việc
hoàn thiện cơ chế thị trờng có điều tiết theo định hớng XHCN là tất yếu và cấp
thiết.
2. Sự phát triển nhân cách đạo đức phải đợc thể hiện trong những
hành vi đạo đức thực tế
Hành vi đạo đức là hành vi đợc thể hiện bởi sự điều tiết của ý thức đạo
đức mà trong đó các chuẩn mực đạo đức giữ vai trò trung tâm. Với t cách là
quá trình cải biến sâu sắc sự nghiệp công nghiệp hoá .Đất nớc đòi hỏi và tất
yếu sẽ sản sinh ra một hệ chuẩn mực đạo đức mới thích ứng với cơ chế thị tr-
ờng và những diều kiện của xã hội hiện đại. Việc xác lập hệ chuẩn mực đạo
đức mới cần phải tuân thủ nguyên tắc về tính kế thừa lịch sử, phải là sự tiếp
tục và vợt qua truyền thống.
Trong bối cảnh của sự hội nhập quốc tế mang tính toàn cầu, hệ chuẩn
mực đạo đức của mỗi quốc gia không thể không mang tính quốc tế. Bởi vậy,
tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ và hiện đại của
nhân loại, làm phong phú hệ chuẩn mực đạo đức dân tộc và cần thiết. Tuy
nhiên, việc tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức dân tộc ta là cần thiết. Tuy
nhiên, việc tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức ngoại lai cũng không thể tuỳ
14
tiện đợc. Sự đụng độ giá trị có thể làm huỷ hoại những chuẩn mực dân tộc,
truyền thống.
Bên cạnh việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức xã hội, cần xây dựng
những bộ luật đạo đức nghề nghiệp. Tính đặc thù của nghề nghiệp và lĩnh vực
hoạt động cụ thể đòi hỏi phải có những chuẩn mực đạo đức cụ thể định hớng
cho hoạt động nhân cách. Những chuẩn mực này là sự cụ thể hoá những chuẩn
mực đạo đức xã hội trong các lĩnh vực cụ thể. Vì vậy để chủ động xây dựng
nhân cách đạo đức trong điều kiện hiện nay cần xác lập một hệ chuẩn mực
đạo đức mới, hiện đại, phù hợp với những yêu cầu của xã hội hiện đại.
3. Các biện pháp giáo dục và giáo dục đạo đức
Nhân cách khi hình thành một cách tự nhiên thì bao giờ cũng cha hoàn
thiện. Vì vậy giáo dục và giáo dục đạo đức là một trong những phơng thức giải
pháp quan trọng nhất, trực tiếp quyết định sự hình thành phát triển nhân cách
đạo đức.
Giáo dục nói chung có vai trò to lớn đối với sự phát triển phơng diện đạo
đức của nhân cách. Giáo dục thực chất là quá trình chuyển văn hoá xã hội
thành văn hoá cá nhân, biến những năng lực nhân tính đã đợc đối tợng hoá nh
là tài sản của xã hội thành sức mạnh bên trong của mỗi con ngời cụ thể. Giáo
dục toàn diện và có hệ thống sẽ làm phát triển hài hoà các phơng diện lý trí, ý
trí tình cảm cũng nh năng lực thực tiễn của con ngời. Sự phát triển toàn đó sẽ
là cơ sở cho sự phát triển đạo đức của nhân cách.
Giáo dục đạo dức trực tiếp biến các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức
xã hội thành niềm tin, nhu cầu và động cơ bên trong mỗi con ngời nghĩa là
thành sức mạnh đạo đức của nhân cách. Trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế
thị trờng cha hoàn thiện, khi các giá trị và phản giá trị đạo đức còn đan xen lẫn
nhau thì giáo dục đạo đức càng trở nên cấp thiết. Giáo dục đạo đức sẽ góp
phần tích cực vào việc khắc phục tình trạng tự phát trong lĩnh vực đạo đức
cũng nh giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức đòi hỏi tiến hành một cách
đồng bộ, có hệ thống với những hình thức thích hợp cho các đối tợng cho các
lứa tuổi, các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con ngời. Ngoài những yêu cầu
chung, những loại hình giáo dục khác giáo dục đạo đức chỉ thực sự có hiệu
15
quả khi nó bao chứa trong mình sự thống nhất của hai phơng diện : phơng
diện truyền đạt và phơng diện nêu gơng. Phơng diện truyền đạt phải cung cấp
cho đối tợng giáo dục những hiểu biết cần thiết về đạo đức, các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức xã hội, các chuẩn mực đạo đức trong các lĩnh vực hoạt
động cụ thể của đối tợng giáo dục. Một sự hiểu biết đầy đủ và cần thiết nh vậy
sẽ tạo cơ sở cho hoạt động đạo đức.
Phơng diện nêu gơng, phải tác động vào ý thức con ngời bằng chính
những tấm gơng ngời tốt việc tốt. Những tấm gơng này chính là hiện thân của
các giá trị, các chuẩn mực đạo đức nhờ thế chúng có sức mạnh to lớn trong
việc biến các kiến thức mà con ngơì thu nhận đợc qua truyền đạt thành sức
mạnh bên trong nhân cách. Trong điều kiện hiện nay khi những biểu hiện tiêu
cực trong đời sống xã hội đang là một vấn đề nhức nhối trên bình diện đạo
đức, thì hiệu quả của giáo dục đạo đức bằng phơng pháp nêu gơng thật có ý
nghĩa. Tạo ra thật nhiều tấm gơng đạo đức và những tấm gơng biết giải quyết
một cách hài hoà quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội tạo ra một
phong trào noi gơng đạo dức chính là hiệu quả cho giáo dục đạo đức.
4. Tăng cờng vai trò lãnh đạo của Nhà nớc
Đối với nớc ta, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng và quá trình xây dựng
con ngời đợc giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của
nhà nớc theo định hớng XHCN. Đảng ta xác định sản xuất hàng hoá không
đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH đã đợc xây
dựng. Nh vậy, Đảng ta vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trờng và mục
tiêu xây dựng mới con ngời XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị trờng đòi hỏi phải
nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nớc, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ
tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Để thực hiện tốt vấn đề này, chúng
ta cần có những chính sách cụ thể :
- Thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội chú trọng đầu t,
phát triển con ngời, lợi ích và hạnh phúc của con ngời, nhất là đầu t cho đào
tạo, giáo dục, nâng cao dân trí.
16
- Để phát triển kinh tế, đi đôi với thực hiện các mục tiêu xã hội, chúng ta
cần xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội cũng nh việc xây dựng
cơ chế nhằm đảm bảo việc thực hiện phát triển kinh tế và xã hội.
Để tạo ra động lực cho sự phát triển, chúng ta cần khuyến khích các tài
năng trong các tầng lớp xã hội, những nông dân làm ăn giỏi, những công dân
có trình độ kỹ thuật cao, những trí thức có uy tín lớn, những nhà quản lý kinh
doanh có tài. Trong điều kiện cơ sở vật chất và trình độ kinh tế còn thấp, nếu
đòi hỏi sự phát triển đồng đều của tất cả mọi thành viên mọi tầng lớp xã hội
thì chỉ dẫn đến chủ nghĩa bình quân, triệt tiêu đông lực của sự phát triển.
Chính sách xã hội với t cách là bộ điều chỉnh trong guồng máy hoạt
động của toàn xã hội phải giải quyết một cách công bằng vấn đề lợi ích và xử
lý một cách đúng đắn mối quan hệ xã hội để vừa đảm bảo tính ổn định xã hội,
vừa kích thích con ngời sáng tạo không ngừng. Một mặt, chính sách xã hội
góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế, mặt khác phải dự
đoán trớc những hậu quả xã hội của những giải pháp kinh tế, chủ động khắc
phục những bệnh lý xã hội.
Bên cạnh đó, nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đang đợc Đảng và Nhà nớc ta phổ
biến toàn diện trong đời sống nhân dân.
Đổi mới CNXH đổi mới cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị và cơ chế vận
hành, thực hiện nhà nớc là của dân, do dân và vì dân, biến sự nghiệp cách
mạng thành sự nghiệp toàn dân, thực hiện dân chủ Đó là biến đổi CNXH
thực sự thành môi trờng nảy sinh và phát triển mọi sức mạnh bản chất con ng-
ời và thực hiện đợc bản tính luôn vơn tới sự hoàn thiện của con ngời. Xây
dựng lối sống với sự hình thành nhân cách mới giữ vai trò.
17
C. Kết luận
Kinh tế thị trờng là môi trờng kinh tế thuận lợi cho việc xác lập địa vị
chủ thể cá nhân, phát huy năng lực cá nhân, hình thành tính tích cực tự giác
của cá nhân ngời lao động, giải phóng cá nhân hoạt động kinh tế khỏi phụ
thuộc vào kế hoạch độc đoán, lôi cuốn vào thị trờng trao đổi và trở thành chủ
thể của sự vận hành kinh tế. Chúng ta chủ động chuyển sang nền kinh tế thị tr-
ờng, mở cửa giao lu với bên ngoài, và đó là một trong những định hớng cơ bản
để đa đất nớc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Muốn thế chúng ta phải chủ
động tiếp thu cái gì từ bên ngoài có lợi cho đất nớc và loại bỏ những gì không
phù hợp với truyền thống dân tộc. Điều cơ bản là trong quá trình hoà nhập,
tiếp thu cái mới, chúng ta đừng vội quay lng lại với cội rễ của mình, đừng bỏ
những gì mà cha ông ta tạo nên.
Nền kinh tế thị trờng nớc ta hiện nay, mặc dù có những mặt, những yếu
tố làm chúng ta cha an tâm. Song nó đã có những đóng góp vào sự phát triển
đất nớc, kích thích sự năng động của con ngời và toàn bộ xã hội. Bởi vậy cùng
với những thắng lợi bớc đầu của công cuộc đổi mới, chúng ta càng thấy rằng
việc vận dụng cơ chế thị trờng để xây dựng CNXH là một đờng lối đúng đắn.
Việt Nam là nớc đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng định
hớng XHCN nên có thể rút ra cho mình từ kinh nghiệm thực tế của các nớc
khác về giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trờng và đạo đức nhân cách,
giữa truyền thống và hiện đại, giữa phát triển kinh tế và xây dựng các mối
quan hệ xã hội, lành mạnh về mặt này, có thể nói rằng chúng ta vẫn ch a
muộn, nếu có phơng hớng và giải pháp đúng đắn, đảm bảo tạo dựng nền kinh
tế thị trờng, đẩy mạnh CNH HĐH theo định hớng XHCN ở nớc ta hiện
nay.
18
Tài liệu tham khảo
1. Sách triết học Mác LêNin tập II
2. Về kinh tế thị trờng - Đinh Nguyễn Khiêm Tạp chí Nghiên cứu trao
đổi.
3.Sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trờng với việc xây dựng
đạo đức. Nguyễn Thế Kiệt Nguyễn Chí Mỹ.
4. Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện hội nghị lần thứ V Ban chấp
hành trung ơng khoá VIII.
5. C. Mác F.Anghen toàn tập
6. Về nhân cách trọng đời sống đô thị hiện đại
Tạp chí triết học
7. Con ngời Việt Nam bớc vào nền kinh tế thị trờng Dơng Hiển. Tạp
chí nghiên cứu trao đổi.
19
Mục lục
Lời mở đầu 1
Phần A : Giới thiệu đề tài 3
Phần B : Nội dung nghiên cứu 4
I. Lý luận chung về nhân cách con ngời trong cơ chế thị trờng 4
1. Cơ sở lý luận 4
2. Cơ sở thực tiễn 5
II. Thực trạng vấn đề 8
1. Những tác động của cơ chế thị trờng đến nhân cách con ngời 8
2. Những nguyên nhân cơ bản của sự ảnh hởng tiêu cực của cơ chế thị tr-
ờng trong việc hình thành nhân cách. 12
III. Những giải pháp khắc phục 13
1. Giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội vấn đề công bằng xã
hội. 13
2. Sự phát triển nhân cách đạo đức phải đợc thể hiện trong những hành vi
đạo đức thực tế 14
3. Các biện pháp giáo dục và giáo dục đạo đức 15
4. Tăng cờng vai trò lãnh đạo của Nhà nớc 16
C. Kết luận 18
Tài liệu tham khảo 19
20