MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
1. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin 3
1.1. Theo Mác 3
1.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất 3
1.1.1.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất 3
1.1.1.2. lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất 3
1.1.1.3. Quan hệ sản xuất độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng
sản xuất 4
1.1.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 5
1.2. Theo Lênin 6
1.2.1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 6
1.2.2. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ 6
2. Thực tiễn 6
2.1. Thực tiễn Liên Xô 6
2.1.1. Chính sách kinh tế mới (NEP) 6
2.1.2. Sự thành công của chính sách kinh tế mới 8
2.2. Thực tiễn Trung Quốc 8
2.2.1. Chính sách cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình 8
2.2.2. Thành tựu đạt được sau cải cách 9
2.3. Thực tiễn Việt Nam 11
2.3.1. Hoàn cảnh của Việt Nam 11
2.3.2. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam11
2.3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 12
3. Thực tế đã chứng minh phát triển kinh tế nhiều thành phần là hoàn
toàn đúng đắn 15
3.1. Kinh tế Việt Nam trước đổi mới 15
1
3.2. Kinh tế Việt Nam sau đổi mới 17
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
Đề bài:
Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lời mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lenin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, và trong thực tế Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản và của dân
tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ trương ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn, thực tế phát triển kinh tế của
Việt Nam đã chứng minh điều ấy.
Dưới đây chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể lý do vì sao Hồ Chí Minh
chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2
1. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin
1.1. Theo Mác
1.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1.1.1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực
lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm
và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã
hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất
cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân
công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá
nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội
phát triển thì lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa.
1.1.1.2. lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
3
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó
quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái
đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng
sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản
xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực
lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất
cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một
giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã
hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước đến nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Nhưng rồi
quan hệ sản xuất mới này sẽ lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản
xuất đã phát triển hơn nữa, sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra.
1.1.1.3. Quan hệ sản xuất độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng
sản xuất
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ
của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội,
4
đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác động đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả
tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó
phải thông qua nhận thức và vận động cải tạo xã hội của con người. Trong xã
hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua
chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong
đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản nhất.
1.1.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của Mác quá độ lên chủ nghĩa xã hội là loại hình quá độ
trực tiếp từ các nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Đây là loại quá độ phản
ánh quá trình phát triển tuần tự của xã hội loài người. Thời kỳ này bắt đầu từ
khi giai cấp vô sản dành chính quyền, đập tan Nhà nước tư sản, thiết lập Nhà
nước vô sản (quan hệ sản xuất cũ mâu thuẫn với lực lượng sản xuất nên dẫn
đến một cuộc cách mạng xã hội để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp hơn). Đây là thời kỳ quá độ ngắn và trực tiếp.
5
1.2. Theo Lênin
1.2.1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Ngoài loại hình quá độ trực tiếp như Mác đã nghiên cứu, Lênin còn đề cập
tới con đường quá độ gián tiếp từ các nước chậm phát triển (các nước tiền tư
bản) bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. loại hình quá độ
này phản ánh quy luật nhảy vọt với hai điều kiện: Đảng kiểu mới của giai cấp
vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành Đảng cầm quyền) và được một hay nhiều
nước tiên tiến giúp đỡ. Đây là loại hình quá độ dài trải qua nhiều bước quá độ.
1.2.2. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ
Sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã được V.I.Lênin đề cập ngay từ những ngày đầu của
chính quyền Xô viết. Theo Lênin, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự
xen kẽ của “những yếu tố, những bộ phận nhỏ, những mảnh của chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội”. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ sẽ không thuần nhất
và ở đó vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen và tác động lẫn nhau, đó là
những yếu tố của năm thành phần kinh tế xã hội khác nhau (kinh tế gia trưởng,
tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa tư bản nhà nước và
chủ nghĩa xã hội).
2. Thực tiễn
2.1. Thực tiễn Liên Xô
2.1.1. Chính sách kinh tế mới (NEP)
Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga, V.I.Lê-nin - lãnh tụ
thiên tài của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề xướng với
Đảng việc áp dụng Chính sách kinh tế mới (NEP) và đã được Đại hội chấp
thuận.
6
NEP bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị
và xã hội, biểu hiện tập trung nhất trên năm vấn đề cơ bản, đó là: 1) Thực hiện
chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán lúa mì, coi thương nghiệp
là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế giữa công
nghiệp với nền nông nghiệp hàng hoá, giữa thành thị với nông thôn, và sự liên
minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân; 2) Áp dụng những hình
thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là mắt xích trung gian để
xây dựng chủ nghĩa xã hội; 3) Sử dụng các các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực
hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với mọi người lao động, khai
thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới; 4) Thực hiện kế hoạch điện khí hoá nước Nga, coi đó
như một trong những điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của chế độ xã hội chủ
nghĩa; 5) Củng cố Chính quyền Xô viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp
chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê
kiểm soát của nhà nước chuyên chính vô sản đối với đời sống kinh tế - xã hội,
trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh công nông về
chính trị.
Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một
nước tiểu nông, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành nhưng
chưa đạt đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ, các quan hệ
kinh tế của nền sản xuất tiểu nông còn chiếm đại bộ phận trong nền sản xuất xã
hội. Muốn thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách là "chế độ sở
hữu cổ truyền" không thể "tiến công trực diện", phải có cách làm khác. Theo
cách diễn đạt của V.I.Lê-nin, đó là "thực hiện những bước lùi cần thiết". Bước
lùi đó chính là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy luật làm cơ sở cho
các thành phần kinh tế còn tồn tại khách quan, giải phóng tối đa sức sản xuất
của xã hội đang bị kìm hãm…
7
2.1.2. Sự thành công của chính sách kinh tế mới
Trong giai đoạn NEP, sản lượng nông nghiệp không chỉ hồi phục ở mức
đã đạt được trước cách mạng Bolshevik mà còn tăng trưởng mạnh. Việc phá bỏ
các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa Hoàng trước
đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để tăng
cao sản xuất. Khi đã có thể bán thặng dư của họ ra thị trường tự do, sự chi tiêu
của nông dân tạo ra một sự bùng nổ trong các lĩnh vực sản xuất tại các vùng đô
thị. Kết quả của NEP và sự xoá bỏ lãnh địa trong thời gian Đảng cộng sản củng
cố quyền lực từ 1917-1921 là Liên bang sô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo
lớn nhất thế giới.
Ở vào thời điểm đó, thực hiện NEP tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Xô viết Nga là một quyết định dũng cảm, táo bạo, sáng suốt của V.I.Lê-nin và
những người Cộng sản Nga. NEP không thuần tuý là một chính sách kinh tế với
ý nghĩa là một công cụ quản lý vĩ mô về kinh tế - xã hội của Chính quyền Xô
viết, nó có tầm rộng lớn mang tính chất một giải pháp cơ bản có tính tổng thể
về kinh tế, chính trị, xã hội, để cải cách kinh tế. Nhờ NEP, nước Cộng hoà được
giải thoát khỏi một cuộc khủng hoảng để thực hiện những công việc của một
đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh bắt tay vào công việc cải tạo và xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ mới, xây dựng nhà nước chuyên chính vô
sản, củng cố liên minh công nông… những công việc chủ yếu của một đất nước
khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Thực tiễn Trung Quốc
2.2.1. Chính sách cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình
Đặng Tiểu Bình là người đầu tiên đề xuất rằng Trung Quốc nên tiến hành
cải cách, thừa nhận chính sách mở cửa và tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế.
Từ năm 1978, ông đã thúc đẩy việc cải cách. Trong khi còn khoảng 80% dân số
Trung Quốc sống ở vùng nông thôn, ông chỉ ra rằng: việc cải cách nên tiến
8
hành ở nông thôn trước khi tiến hành ở các thành phố. Công cuộc cải cách các
khu đô thị thường phức tạp hơn ở vùng nông thôn, ông khuyến khích nên khám
phá các tiềm năng này một cách táo bạo nhưng cũng bằng sự quan tâm và cẩn
trọng.
Theo đề xuất của ông, 4 đặc khu kinh tế đã được hình thành và 14 thành
phố duyên hải mở cửa với thế giới. Trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi,
ông tuyên bố Trung Quốc nên mở rộng hợp tác kinh tế với các nước bên ngoài,
thu hút vốn và giới thiệu các kỹ thuật và kỹ năng quản lý tiên tiến của họ để
thúc đẩy việc phát triển kinh tế riêng của mình. Các thành phần tư nhân nên
được phát triển như là một phần phụ trợ cho các thành phần xã hội vốn dĩ sẽ
chiếm ưu thế trong nền kinh tế Trung Quốc. Ông cũng cho rằng một số khu vực
và một số người được phép làm giàu, sau đó những người khác sẽ theo gương
họ. Sự phát triển của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua đã chứng minh chính
sách cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình là hoàn toàn đúng đắn.
2.2.2. Thành tựu đạt được sau cải cách
Trong nửa thế kỷ tồn tại của nước CHND Trung Hoa, chỉ từ khi đất nước
thực hiện quốc sách chiến lược cải cách - mở cửa đồ Hội nghị Trung ương lần
thứ 3 khoá XI ĐCS Trung Quốc (họp tháng 12-1978) vạch ra, Trung Quốc mới
thực sự bước vào con đường xây đựng và phát triển ổn định, tiến tới hiện đại
hoá, thực hiện dân giàu nước mạnh, đạt được nhiều thành tựu huy hoàng và để
lại những bài học sâu sắc cho các quốc gia có nền kinh tế chuTừ chế độ công
hữu đơn nhất chuyển sang chế độ kinh tế lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế
nhiều loại sở hữu cùng phát triển.
Trước cải cách, kinh tế Trung Quốc gần như hoàn toàn thuộc sở hữu công
cộng, chiếm tới 99,1% tổng sản phẩm trong nước vào năm 1978. Cùng với tiến
trình cải cách, nhận thức về kinh tế công hữu ngày càng có sự thay đổi sâu sắc,
đã tiến tới khẳng định rằng nguồn vốn trong chế độ công hữu không chỉ thể
hiện ở số lượng mà còn ở chất lượng, và quan trọng hơn nữa, ở vai trò khống
9
chế của Nhà nước, ở vai trò chủ đạo của kinh tế công hữu. Với chủ trương
nhiều loại hình kinh tế cùng phát triển, không chỉ có các doanh nghiệp cá thể,
tư nhân, mà còn có cả các doanh nghiệp "3 loại vốn", các doanh nghiệp theo
chế độ sở hữu hỗn hợp như chế độ cổ phần và chế độ hợp tác cổ phần
Kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, nên đến
cuối năm 1979, số hộ đăng ký kinh doanh là 29,47 triệu, với 67,91 triệu lao
động. Sự lớn mạnh của các loại hình kinh tế này ngày càng có tác dụng tích cực
rõ trong việc đáp ứng đòi hỏi về đời sống cho nhân dân, làm cho đời sống kinh
tế xã hội của cả nước thêm sôi động, từ chỗ được coi là sự "bổ sung" cho kinh
tế công hữu, nay các loại hình kinh tế này đã được Quốc hội Trung Quốc dự
kiến đưa vào Hiến pháp sửa đổi, quy định đó “là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường XHCN” được Nhà nước bảo hộ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp. Điều đó cho phép các loại hình kinh tế phi công hữu này sẽ còn phát
huy được tiềm nàng to lớn của mình trong phát triển kinh tế.
Các doanh nghiệp ba loại vốn" ở Trung Quốc đã phát triển rất nhanh. Đến
cuối năm 1997, đã có tới 236 ngàn xí nghiệp loại này với số vốn nước ngoài lên
tới 30,3 tỷ USD. Điều này không những bổ sung cho nguồn vốn còn thiếu của
Trung Quốc, mà quan trọng hơn, còn đưa vào đất nước những thứ quý giá hơn,
đó là những quan niệm mới và kinh nghiệm quản lý mới.
Chế độ cổ phần và hợp tác cổ phần trước đây bị coi là những sản phẩm
của CNTB, nay đã được cho phép hình thành và đưa vào nề nếp. Đến cuối năm
1997, trong cả nước đã có 680 ngàn doanh nghiệp thí điểm thực hiện chế độ
này với số vốn đăng ký là 1730,2 tỷ NDT.
Với chủ trương đa dạng hoá các loại hình kinh tế như trên, đến cuối năm
1997, tỷ trọng của các loại hình kinh tế phi công hữu trong tổng sản phẩm trong
nước đã từ 0,9% vào năm 1978 tăng lên 24,20% còn mức giảm tương ứng của
kinh tế công hữu thời gian trên đã từ 99,1% xuống 75,8%. Tuy nhiên, vai trò
chủ thể của kinh tế công hữu không vì thế mà giảm đi. Được thực hiện tách rời
10
quyền kinh doanh (của doanh nghiệp) và quyền sở hữu của Nhà nước), được
chuyển từ phương thức quản lý trực tiếp sang phương thức điều tiết gián tiếp,
từng bước áp dụng chế độ xí nghiệp hiện đại, chịu sự dẫn dắt của thị trường,
đặc biệt được hoạt động trong các ngành nghề quan trọng, huyết mạch của nền
kinh tế, khu vực kinh tế công hữu tuy hiện nay còn nhiều khó khăn, nhưng vai
trò chủ thể chắc chắn sẽ được củng cố. Về mặt bảo vệ an ninh đất nước, thoả
mãn nhu cầu công ích của nhân dân, bảo đảm hài hoà trong phát triển, kinh tế
Nhà nước có một vai trò mà kinh tế phi Nhà nước không thể thay thế. Chủ
trương lấy kinh tế công hữu làm chủ thể, nhiều loại sở hữu cùng) tồn phát triển
là một chủ trương phù hợp với tình hình đất nước, mang lại lợi ích to lớn, do đó
sẽ được Trung Quốc duy trì lâu dài.
2.3. Thực tiễn Việt Nam
2.3.1. Hoàn cảnh của Việt Nam
Đặc điểm Hồ Chí Minh khẳng định lớn nhất khi nước ta bước vào quá độ
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do vậy lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ
công, tính chất cá nhân hóa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn,
khó khăn, phức tạp và chi phối tất cả những đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong
đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là
mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và
thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém của nước ta.
2.3.2. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến,
hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân
cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà
11
nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng
trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi áp dụng toàn diện
các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại
các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và
lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bao gồm hao nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ cốt,
lâu dài.
2.3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu thực tiễn các nước
khác cũng như thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh nhận
thức rõ tính tất yếu của của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ,
để xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp thực hiện
đường lối kháng chiến “ toàn dân, toàn diện , trường kỳ và tự lực cánh sinh”
bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là lương thực thực phẩm cho cuộc
kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định nước ta phải phát triển 6 thành phần
kinh tế khác nhau ,gồm:
- kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô
- kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa
- kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông
thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa
12
- kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ
- kinh tế tư bản của tư nhân
- kinh tế tư bản quốc gia.
Không những chỉ ra 6 thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh còn nói rõ xu
hướng phát triển của các thành phần kinh tế đó. Mặc dù thành phần kinh tế địa
chủ phong kiến bóc lột địa tô là thành phần kinh tế đã lỗi thời, nhưng để thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, thu hút số địa chủ vừa và nhỏ tham gia
kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương chỉ thực hiện chế độ giảm tô, giảm tức
nhằm hạn chế dần sự bóc lột và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này đóng
góp cho cuộc kháng chiến.
Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh tồn tại ở các cơ
sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mới ra đời
trong chế độ dân chủ mới. Theo Hồ Chí Minh “Nó là nền tảng và sức lãnh đạo
của nền kinh tế dân chủ mới, Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, theo Hồ Chí Minh là thành phần kinh
tế của giai cấp tư sản dân tộc, mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột đối với giai cấp
công nhân, nhưng họ cũng góp phần vào phát triển kinh tế, góp công góp của
cho cuộc kháng chiến. Và Người khẳng định Chúng ta không chủ trương giai
cấp tranh đấu vì một lẽ tầng lớp tư sản Việt Nam đã bị kinh tế thực dân đè nén
không cất đầu lên được, khiến cho kinh tế Việt Nam đã bị tiêu diệt, dân cùng
tài tận. Trái lại, chúng ta chủ trương làm cho tư sản Việt Nam phát triển.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước , quan điểm
nhất quán của Hồ Chí Minh là : Chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Nhưng
họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại
đa số nhân dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị ( xuất bản năm 1953 ),
Người cho rằng Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm
13
họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp
công nhân. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa nhà tư bản trong xã hội tư
bản với nhà tư bản trong chế độ dân chủ mới và cũng là sự hướng dẫn cần thiết
đối với thành phần kinh tế này. Hồ Chí Minh chỉ rõ : vì lợi ích lâu dài, anh chị
em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý , không yêu cầu quá mức. Chủ và
thợ đều tự giác tự động tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
Ở Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước non trẻ của
chúng ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành 'kiến
quốc', nhờ huy động được mọi thành phần kinh tế, chúng ta đã phá được chính
sách bao vây kinh tế của địch, bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân, phục vụ kịp
thời cho cuộc kháng chiến, đồng thời cũng đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chế độ dân chủ mới theo hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội. Trong qúa trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng
chủ trương cải tạo hoà bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Khi chế độ dân chủ mới ra đời và phát triển thì thành phần kinh tế địa chủ
phong kiến sẽ bị thủ tiêu. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong chế độ
mới còn sự tồn tại của năm thành phần kinh tế khác nhau. Đó là:
A - Nền kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân
dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH và sẽ tiến đếnCNXH)
C - Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào HTX
tức là nửa CNXH).
D - Tư bản tư nhân.
E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh).
14
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả.
Cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo hướng
chủ nghĩa tư bản.
3. Thực tế đã chứng minh phát triển kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn
đúng đắn
3.1. Kinh tế Việt Nam trước đổi mới
Trong một khoảng thời gian khá dài sau khi miền Bắc được giải phóng,
một phần do bối cảnh toàn dân phải tập trung sức người sức của cho cuộc
kháng chiến giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, một phần do nhiều tác
động từ cục diện chung của phong trào quốc tế và phe XHCN, chúng ta đã
nóng vội tiến hành cải tạo XHCN, nôn nóng muốn xoá bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi XHCN, xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên hai hình thức sở hữu
toàn dân và tập thể.
Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá III, ngày 20-9-1975) đã thừa nhận
sự tồn tại của các thành phần kinh tế ở mỗi miền. Miền Bắc có 3 thành phần
kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể. Ở miền Nam, Nghị quyết nêu rõ trong
một giai đoạn nhất định, còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh
XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế công tư hợp doanh nửa XHCN, kinh tế
cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Nhưng trong thực tế chúng ta đã không nhất
quán thực hiện theo tư tưởng đó. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IV, lần thứ V và các Chỉ thị, Nghị quyết sau đó đều nhấn mạnh cải tạo XHCN
theo hướng xoá bỏ nhanh chóng các quan hệ sản xuất cũ. Đến cuối những năm
70, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ rõ sự yếu kém về mọi mặt, mất cân đối
nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) đã chỉ ra những
khó khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết
điểm và sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở
15
về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Căn cứ hiện trạng các thành
phần kinh tế của đất nước, Đại hội khẳng định trong một thời gian nhất định, ở
miền Nam còn 5 thành phần kinh tế là: quốc doanh, tập thể, công tư hợp
doanh, cá thể và tư bản tư doanh.
Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh tế
của Đảng ta: chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất sẵn
có. Tuy vậy do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về CNXH và còn chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của những quan điểm mang nặng tính chủ quan duy ý chí nên những
giải pháp mà Đại hội đề ra vẫn chưa thực sự sát với thực tiễn và với yêu cầu
của cuộc sống. Đại hội đã không đặt vấn đề chú trọng, sử dụng, liên kết phát
triển các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó
mà tăng cường thành phần kinh tế XHCN và cải tạo các thành phần kinh tế tư
nhân với hình thức, bước đi phù hợp. Trái lại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh
nguy cơ: trên một số trận địa XHCN, những yếu tố tư bản chủ nghĩa và phi
XHCN xâm lấn . Do đó, Đại hội đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm (1981-
1985): Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất
XHCN trong cả nước. Sau Đại hội V(3.1982), trước thực trạng kinh tế - xã hội
của đất nước, Đảng ta đã nhìn nhận, xem xét lại tư duy kinh tế trên những vấn
đề chủ yếu và đặc biệt là vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận chính sách
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà
đặc trưng là: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi
XHCN sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước. Những
nhược điểm và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt.
16
3.2. Kinh tế Việt Nam sau đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12.1986) là một trong các mốc quan
trọng đánh dấu sự đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng ta về mô hình
kinh tế mới: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội lần thứ VI đã phân
tích sâu sắc những sai lầm khuyết điểm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến
những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay những thành phần kinh tế phi
XHCN, chúng ta “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”. Về vai trò vai trò của các thành phần kinh tế
“Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương
đối dài”.
Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội
một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư
duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức tính toán lại hình thức bước đi
của quá trình cải tạo chủ nghĩa, làm sao để phát huy sức mạnh của các thành
phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và thực hiện mục
tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế , Đai hội VI khẳng định: “Muốn
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất,
cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần
kinh tế”. Đảng ta cho rằng, chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật
thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông phát triển, nhằm
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo. Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận
dụng quan điểm của Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh coi nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI xác định các
thành phần đó là:
17
Kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với
bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
Các thành phần kinh tế khác (thực chất là phi XHCN) gồm:
Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những ngời
buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể).
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà cao nhất là công tư hợp
doanh.
Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng ta đã khẳng định
đường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI (12.1986) đề ra và nhấn mạnh cần
thiết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần.
Đó là:
Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
Kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đờng làm
ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế
dân sinh do pháp luật quy định.
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Đại hội VIII (6.1996) của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta có 5
thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
18
Quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được Đảng ta
khẳng định và phát triển trong Đai hội IX của Đảng: “Thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh”.
Theo đó, nền kinh tế ở nước ta bao gồm 6 thành phần, trật tự sắp xếp các
thành phần cũng có sự thay đổi, đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể ( thay
cho kinh tế hợp tác trước đây) với nhiều hình thức đa dạng, trong đó nòng cốt
là kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X tiếp tục khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu( toàn dân, tập
thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân( cá thể ,tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội nhấn mạnh: “các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
Hơn 20 năm đối với lịch sử của một đất nước chưa phải là dài nhưng, với
quan điểm đúng đắn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dựa trên cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã tạo nên những thành tựu to
lớn, quan trọng, tạo vị thế, diện mạo mới cho việt Nam trên trường quốc tế.
Lý luận cũng như thực tiễn của những năm đổi mới đã chứng minh sức
sống và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Từ những thành công bước đầu, càng khẳng định rõ
hơn sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới phấn
đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ, văn minh.
19
Kết luận
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt
Nam cũng như của các nước khác trong giai đoạn quá độ, Hồ Chí Minh đã chủ
trương thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn, thực tế
đã chứng minh điều đó. Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không chỉ
phù hợp trong quá khứ mà ngay cả hiện tại và tương lai cũng là con đường đi
đúng đắn cho sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều đó đòi hỏi chúng
ta phải liên tục nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn để đưa nước ta phát triển lên một tầm cao mới.
20
Tài liệu tham khảo
Lê nin, Toàn tập, tập 43,NXB Tiến bộ Matxcơva
Hồ Chí Minh , Toàn tập, T7, NXB CTQG , H 1996
Hồ Chí Minh , Toàn tập, T5, NXB CTQG , H 1996
Hồ Chí Minh , Toàn tập, T7, NXB CTQG , H 1996
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
NXB Sự thật, H 1986
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB CTQG , H 1991
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII NXB CTQG, H 1996
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB CTQG, H 2001
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB CTQG, H2006
Giáo trình triết học Mác-Lênin NXB CTQG
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh NXB CTQG
Ngoài ra còn tham khảo thông tin trên mạng internet
21