Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

hồ chí minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ ,tự lực tự cường ,đổi mới ,sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.17 KB, 18 trang )

Đề bài : Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:
Ngời là hiện thân sáng chói của t tởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội ,là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ ,tự lực tự cờng ,đổi mới sáng tạo .
Phân tích và chứng minh nhận định trên.Liên hệ thực tế Việt Nam hiên nay.
Bi Lm:
M u:
T tng H Chớ Minh l mt h thng quan im ton din v sõu sc v nhng
vn c bn ca cỏch mng Vit Nam, l kt qu ca s vn dng v phỏt trin
ca nc ta, k tha v phỏt huy cỏc giỏ tr truyn thng tt p ca dõn tc, tip
thu tinh hoa vn húa nhõn loi. ú l t tng v gii phúng dõn tc, gii phúng
giai cp, gii phúng con ngi; v c lp dõn tc gn lin vi ch ngha xó hi,
kt hp sc mnh dõn tc vi sc mnh thi i T tng H Chớ Minh soi
ng cho cuc u tranh ca nhõn dõn ta ginh thng li, l ti sn tinh thn to
ln ca ng v õn tc ta. Trong din vn ti l k nim 105 nm ngy sinh Ch
tch H Chớ Minh cú vit: Ngi l hin thõn sỏng chúi ca t tng c lp dõn
tc gn lin vi ch ngha xó hi, l mu mc ca tinh thn c lp t ch, t lc t
cng, i mi v sỏng to.
II. Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của t tởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội , là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ ,tự lực tự cờng ,đổi
mới ,sáng tạo.
1.Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của t ởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội:
i vi Vit Nam, mc tiờu c lp dõn tc gn lin ch ngha xó hi ó chng t
tớnh ỳng n qua vai trũ nh hng con ng phỏt trin xuyờn sut hn 76 nm
cỏch mng t khi ng Cng sn Vit Nam ra i. c lp dõn tc v ch ngha xó
hi ó tp hp, huy ng c sc mnh vt cht, tinh thn ca ton dõn ginh c
lp, tin hnh cỏc cuc khỏng chin, ỏnh thng nhng quc xõm lc cú sc
mnh quõn s, kinh t vt tri gp nhiu ln, tng bc xõy dng c s vt cht
k thut ca xó hi mi v ang tin hnh i mi thng li.Nm 1930, ng Cng
sn Vit Nam ra i. S kin ny l mc son ỏnh du s kt hp cỏc nhõn t dõn
tc v giai cp, quc gia v quc t, c lp dõn tc v ch ngha xó hi trong bn


cht ca ng. Trong nhiu vn kin ca ng ta, vn c lp dõn tc gn lin
1
với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại
Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo
cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn
chính xác.Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến
thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,
phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy
khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể
cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên
Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc
đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Trong bối
cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ
bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình
đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng
gánh vác sứ mệnh trọng đại đó? Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa
Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử.
Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ
tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người
đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở
vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và đã
bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài người. Chính
vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu thế mới của
lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải
phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân
loại. Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu
trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã

chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công
cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng
Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ
công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào yêu
nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến
một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là
mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế,
2
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Đảng tuyên bố: “Chủ
trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng
sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội
không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam
chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ
XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ
nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng
tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hoà bình, hạnh
phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với
chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan;
xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ
thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân
dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự
phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau. Có thể khẳng định như vậy
bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản,
trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh
khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị
của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về

tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Vượt qua những mâu thuẫn và
những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo lập trường phong kiến và
tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là
giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế,
văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối
với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do
và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc
đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là
thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng
người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ
đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch
3
con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân
tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm
cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc
sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó
cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong
tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ
hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều
kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa
chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần
chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời
lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè

lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam
thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã
hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước
đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của
dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng
nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ
lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường
cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho
đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau
đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do
chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ
Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào,
các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong
4
biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm
lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước
vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm,
Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc:
“Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng
nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta!”
(1)
. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân
thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng

Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân
và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
(2)
.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ
nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam.
Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan
với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời
đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời
đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách
mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực
dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả
của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy
thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng
như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của
phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân
thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc.
Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc
lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
(
1)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.127.
(
2)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 314.
5

quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều
kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo
vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước
được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”
(3)
. Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn
no, mặc đủ”
(4)
. Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức,
bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
(5)
. Chính vì vậy, trong
“Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải
quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong đó
độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu
thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông
dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi
phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải
quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc
chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt
Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không
có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn
quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn

đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ
phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người
luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi
đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc
thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới
(
3)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.56.
(
4)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 152.
(
5)
C.Mác và Ph.Ăng nghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.
6
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng
như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu
hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ
cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với
một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết
lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông
dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai
nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung
đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân

tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm
lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của
xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất
giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con
đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt
Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch
sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp
lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là
đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực,
gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về
chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu
tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội
7
là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học,
ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán
không tốt dần dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”
(6)
.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người
thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng,
bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính

nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do
con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã
phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực
trên đất nước Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng
hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ-
latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa
xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song các thế lực thù
địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ,
sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong
đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống
phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường
tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta
giành được, cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là
sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số người
còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ
một đảng lãnh đạo là không tương dung với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp
nhận kinh tế thị trường thì đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ
khuyên chúng ta không nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ
nghĩa xã hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân
(
6)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.591.
8
chủ nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội

cũng chưa muộn, v.v…
Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục tiêu,
ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối với cách
mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, đòi
hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục
quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến
lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam,
dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động theo sự
lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng
Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với
“hai đế quốc lớn”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc
địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối
ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị
thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu
cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin
sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn
kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng
đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì
hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn
là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta

tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
9
Trong nhiu vn kin ca ng ta, vn c lp dõn tc gn lin vi ch ngha xó
hi luụn c khng nh mt cỏch mnh m v dt khoỏt. Cng lnh xõy dng
t nc trong thi k quỏ lờn ch ngha xó hi ó nờu rừ : "Nm vng ngn c
c lp dõn tc v ch ngha xó hi. ú l bi hc xuyờn sut quỏ trỡnh cỏch mng
ca nc ta. c lp dõn tc l iu kin tiờn quyt thc hin ch ngha xó hi
v ch ngha xó hi l c s bo m vng chc cho c lp dõn tc". V ti i
hi IX ca ng ln ny, khi tng kt nhng bi hc ch yu ca 15 nm i mi,
Bỏo cỏo Chớnh tr ó ch rừ bi hc th nht l: "Trong quỏ trỡnh i mi phi kiờn
trỡ mc tiờu c lp dõn tc v ch ngha xó hi trờn nn tng ch ngha Mỏc - Lờ-
nin v t tng H Chớ Minh".
Nhỡn ra bờn ngoi v nhỡn li lch s Vit Nam trong th k XX va qua, chỳng ta
cng thy rng s la chn ca ng ta, ca nhõn dõn ta l hon ton chớnh xỏc.
2. H ồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ ,tự lực tự c ờng , đổi
mới , sáng tạo:
Ch tch H Chớ Minh trn c cuc i ó hy sinh v cng hin cho s nghip cỏch
mng, cho c lp dõn tc, cho cuc sng m no, hnh phỳc ca nhõn dõn. Con
ngi, cuc i v s nghip cỏch mng ca Ngi l tm gng sỏng ngi cho
chỳng ta hc tp sut i. Bi vit, li phỏt biu, vic lm ca Ngi ó th hin
nhiu t tng, trit lý sõu xa m chỳng ta phi ra sc suy ngm, nghiờn cu, hc
tp v noi theo. Nhng t tng v i vụ giỏ ca Ch tch H Chớ Minh cn phi
cú nhiu cụng trỡnh khoa hc tm c quc gia nghiờn cu, cn nhiu thi gian
tỡm tũi ỳc kt. Do ú, tỏc gi khụng tham vng trỡnh by c t tng ca
Ngi, dự ch l mt gúc cnh, m ch suy ngh trờn c s hc tp, su tp v
nghiờn cu v mt vn trong h thng t tng ca Ngi, ú l t tng ca
Ch tch H Chớ Minh v c lp t ch, t lc t cng.

Tr li cỏc nh bỏo nc ngoi thỏng 1-1946, Ch tch H Chớ Minh ó núi: Tụi
ch cú mt s ham mun, ham mun tt bc, l lm sao cho nc ta c hon ton
c lp, dõn ta c hon ton t do, ng bo ai cng cú cm n ỏo mc, ai cng
c hc hnh
(7)1
.Lý tng, khỏt vng c lp t do ú ca Ngi ó c th
hin rừ nột, nht quỏn xuyờn sut trong c quóng ng tỡm ng cu nc gii
1(7)
H Chớ Minh ton tp, NXB Chớnh tr quc gia, HN 1995, t4, tr.152.
(8) H Chớ Minh ton tp, NXB Chớnh tr quc gia, HN 1995, tp 5, tr.486-487
(9) H Chớ Minh ton tp, NXB Chớnh tr quc gia, HN 1995, tp 4, tr.45
10
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,
câu nói của Người đã được nhân dân ta và hàng triệu người ở khắp các châu lục
nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Chân lý “độc lập, tự do” có giá trị vĩnh hằng cho mọi
dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời kỳ lịch sử.
Theo Hồ Chủ tịch thì độc lập dân tộc trước hết phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn. Độc lập dân tộc là dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia trên tất cả các
lĩnh vực và toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải sự độc lập giả hiệu, chủ quyền do
ngoại bang ban phát, lãnh thổ bị chia cắt… Trong lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm
2/9/1948, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh “chúng ta sẵn sàng hợp tác thân thiện với
nhân dân Pháp, chúng ta yêu chuộng hòa bình. Nhưng chúng ta quyết không chịu
làm nô lệ. Chúng ta quyết kháng chiến đến cùng, tranh cho kỳ được thống nhất và
độc lập, thống nhất và độc lập thực sự, chứ không phải cái thứ thống nhất và độc
lập bánh vẽ mà thực dân vừa thí cho bọn bù nhìn. Thống nhất mà bị chia rẽ thành
“nước Nam Kỳ”, “nước Tây Kỳ, “Liên bang Thái”, v.v. Độc lập mà không có quân
đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm
thức thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”
(8)
. Thứ hai là sự độc lập đó phải được thực

hiện triệt để, nghĩa là mọi vấn đề chủ quyền của dân tộc phải do dân tộc đó tự giải
quyết, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp thô bạo của bất cứ thế lực nào, đành
rằng mọi sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài để đấu tranh cho độc lập tự do đều được
hoan nghênh, ghi nhớ. Thứ ba là sự độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa và giá trị thực sự
khi sự độc lập dân tộc được thể hiện bằng quyền tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Theo Hồ Chú tịch thì nhân dân các dân tộc được hưởng độc lập tự do là lẽ tự nhiên
như “muôn vật được hưởng ánh sáng mặt trời”
(9)
. Thứ tư, độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với con đường của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học… ở Việt Nam, M.Gandi, G.Nêru ở An Độ, Xucácnô ở
Inđônêxia… Hồ Chí Minh đánh giá rất cao tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cho
độc lập dân tộc của họ, nhưng Người đã cho rằng con đường cứu nước đó là không
triệt để, không đem lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc. Theo Người, trong
hoạt động thực tiễn lãnh đạo cách mạng phải luôn gắn mục tiêu độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, gắn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ xã hội xã hội chủ nghĩa. Tháng 11/1967, kỷ niệm 50 năm Cách
mạng Tháng 10 Nga, Hồ Chủ tịch đã viết “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải
phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn
thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
11
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn, thắng lợi của cuộc đấu tranh vì dộc
lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội
chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”
(10)2
.
Tư tưởng độc lập dân tộc lúc nào cũng là lý tưởng, khát vọng vủa Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Khi được tiếp cận bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, bản Luận cương đó đã đáp ứng được nguyện

vọng của Người về độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Trong bài viết Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người đã kể lại “Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
(11)
. Trong kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm kháng
chiến với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, “dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn”, dân tộc Việt Nam
cũng quyết tâm thực hiện bằng được độc lập, thống nhất trọn vẹn Tổ quốc và quyết
tâm kháng chiến đến cùng như Người đã bày tỏ: “Để giữ gìn đất nước, tổ tiên ta đã
từng kháng chiến 5 năm, 10 năm. Dù phải kháng chiến 5 năm, 10 năm, hay là lâu
hơn nữa để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để tranh lấy tự do và hạnh
phúc cho giống nòi, chúng ta cũng quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối
cùng”
(12)
. Trong các văn kiện thành lập Đảng, Người đã nhấn mạnh mục tiêu trước
hết của cách mạng Việt Nam là làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập đã
thể hiện rõ nét tư tưởng độc lập dân tộc của Người. Hồ Chủ tịch cũng là người đi
đầu, chủ động tích cực tranh thủ mọi giải pháp hòa bình, hạn chế xung dột, tránh
chiến tranh để đạt hòa bình trong độc lập tự do. Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng
chủ dộng ký Hiệp định sơ bộ 6/3, ký tạm ước 14/9 với chính phủ Pháp mong muốn
giải quyết cuộc tranh chấp bằng con đường hòa bình. Khi Pháp đẩy mạnh khiêu
khích, xung đột, Người đã kêu gọi nhân dân Việt Nam kiên trì thi hành đúng Tạm
ước đã ký. Khi chiến tranh nổ ra, trên cơ sở kiên quyết kháng chiến đến cùng để
bảo vệ chủ quyền quốc gia, Người vẫn luôn bày tỏ mong muốn sẵn sàng đàm phán
với chính phủ Pháp để kết thúc chiến tranh. Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Hồ
2

(10) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1996, tập 12, tr.304-305
(11) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1996, tập 10, tr.127
(12) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tập 5, tr.487
12
Chủ tịch đã nhiều lần gửi thư cho các tổng thống Mỹ, yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến 10/6/1948, Hồ Chủ tịch căn dặn “Mỗi
một người dân phải hiểu, có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do”
(13)3
. Như
vậy muốn độc lập tự do phải tự lực tự cường. Tư tưởng tự lực tự cường đã được thể
hiện trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người. Từ việc ra đi tìm đường
cứu nước, đến việc chọn con đường giải phóng dân tộc, từ trong kháng chiến cũng
như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, trước tình cảnh đất nước bị ngoại xâm dày xéo, nhiều phong trào yêu
nước xuất hiện váo cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phong trào Cần Vương do
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, và sau đó là cuộc khởi nghĩa Ba Đình
của Phan Bành và Đinh Công Tráng; Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật; Hương
Khê của Phan Đình Phùng; cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo… Tất cả đều bị thất bại, chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Đến
Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài để đánh Pháp giành độc
lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Với
Hội Duy Tân, phong trào Đông Du Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để
chống thực dân Pháp. Phan Chu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa,
mở mang dân trí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ
luật pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh từ đó buộc thực dân Pháp trao trả độc
lập… Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên các ông cũng như các sĩ phu
cấp tiến khác không thể tìm được phương hướng phù hợp để giải quyết nhiệm vụ
đấu tranh giải phóng dân tộc, nên sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.

Hồ Chí Minh không đi theo con đường mòn của các bậc tiền bối. Người đã chọn
con đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học – kỹ thuật phát triển và
những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào để trở về nước giúp đồng
bào giài phóng dân tộc.
Từ thực tiễn gầm 10 năm bôn ba vạn dặm tìm đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã tìm
thấy trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7/1920)
3
(13) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995,tập 5, tr.441
13
lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình, đó là giải phóng dân tộc
bằng con đường cách mạng vô sản, gắn việc giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp vô sản. Như vậy, Hồ Chủ tịch đã tìm được con đường giải phóng dân tộc và
phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Người nói “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
(14)4
.
Theo Lênin, cần phải có sự kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào
giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Tuy nhiên, Lênin cũng như những người lãnh đạo
Quốc tế Cộng sản lúc đó cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa
chỉ có thể nổ ra và thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thành công. Là người
cộng sản hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới, Hồ Chí
Minh sáng tạo ra luận điểm khả năng cách mạng thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước
cách mạng chính quốc. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng
chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, nhưng trong đấu tranh đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể tự đứng lên
giải phóng. Các dân tộc thuộc địa không nên trông chờ, ỷ lại vào cách mạng chính
quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, qua đó góp phần tích cực vào cách mạng thế giới nói chung, cách mạng chính
quốc nói riêng. Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Người viết “Hỡi

anh em ở các thuộc địa! Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng
công thức của Cac Mac, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng
anh em chỉ có thể thực hiện được bằng cách nỗ lực của bản thân anh em”
(15)5
. Vào
những năm 1920, Hồ Chí Minh đã dự đoán cách mạng thuộc địa có thể thành công
trước cách mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam có thể thành công trước cách
mạng Pháp. Nghĩa là Hổ Chủ tịch thấy rõ được tính chủ động lịch sử của các dân
tộc thuộc địa trong việc lật đổ chủ nghĩa thực dân để tự giải phóng, không nhất thiết
phải chờ đến khi giai cấp công nhân chính quốc giành chính quyền. Hồ Chủ tịch đã
vạch ra con đường giải phóng dân tộc trước hết bằng sự nổ lực và sức mạnh của
chính mình, tranh thủ thời cơ và sự giúp đỡ quốc tế, cả dân tộc vùng lên tự giải
phóng cho mình chứ không phải là làm cách mạng thế giới rồi nhờ sự giúp đỡ của
thế giới để giải phóng Việt Nam.
4
(14) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1996, tập 9, tr.314
5
(15) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tập 2, tr.127-128
14
Khi phân tích tình hình trong nước, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là nước thuộc
địa, nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và
tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong
kiến, giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Vì thế, không phải chỉ giải quyết
vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc
mới giải phóng được giai cấp, vì giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải
phóng giai cấp và tạo tiền đề để giải phóng giai cấp. Quyền lợi dân tộc và quyền lợi
giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn thì quyền lợi của mỗi giai cấp,
mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thực hiện được. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã khẳng định những luận điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có tinh thần

tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, tự giải phóng cho ta. Chỉ có chúng ta
mới giải quyết được số phận của chúng ta. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh đòi hỏi “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh,
trường kỳ kháng chiến,thì ngày nay chúng ta cần phải nêu cao tinh thần tự lực cánh
sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”
(16)6
.
Đường lối độc lập tự chủ, tự lực tự cường đã giúp Hồ Chủ tịch lái con thuyền Việt
Nam đi giữa hai ngọn sóng Xô – Trung trong thập kỷ 60, thời kỳ mà giữa hai nước
Liên Xô, Trung Quốc có những bất đồng lớn. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
luôn cần đến sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, nhưng Người chỉ rõ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định. Vì chúng ta có thế, có lực
thì bên ngoài mới ủng hộ, giúp đỡ và sự ủng hộ giúp đỡ đó mới mang lại hiệu quả.
Người cho rằng muốn người ta giúp cho thì trước hết phải tự cứu mình đã; chúng ta
lo tìm bạn bè nhưng trước hết phải tổ chức lực lượng của chính mình.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập không có nghĩa là biệt lập đứng riêng một mình mà để
có thể hợp tác bình đẳng với tất cả các nước thì cần phải độc lập tự chủ. Vì vậy,
độc lập tự chủ, tự lực tự cường là biểu hiện của tinh thần yêu nước chân chính, gắn
bó mật thiết với tinh thần quốc tế trong sáng. Những người có tư tưởng dân tộc hẹp
hòi và ỷ lại, không tự lực tự cường đều bị Hồ Chí Minh phê phán.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường có mối quan hệ chặt
chẽ với mở rộng hợp tác quốc tế. Người đã từng nói “Nhờ Liên Xô thắng lợi mà
6
(16) Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1996, tập 11, tr.22
(17) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tập 1, tr.465
15
những nước thuộc địa như Trung Quốc và những nước thuộc địa như Triểu Tiên,
Việt Nam đã đánh được hoặc đang đánh đuổi bọn đế quốc xâm lăng trả lại tự do,
độc lập”
(17)

. Trên báo L’Humanité ngày 2/8/1919, Người viết “xét về nguyên tắc,
tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có
lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”
(18)7
.
Khi được Standley Harrison, phóng viên báo Telepress, vào tháng 3/1949 hỏi: khi
ngoại thương Việt Nam đã khôi phục thì Việt Nam sẽ giao dịch với những nước
dân chủ nhân dân những gì? Người trả lời “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các
nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”
(19)
.
Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam cần đến sự ủng hộ, giúp
đỡ quốc tế, nhưng không được trông chờ ỷ lại, mà phải tự lực cách sinh dựa vào
sức mình là chính phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi.
Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”,
“một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập. Sự giúp đỡ của bạn bè là quý báu, chúng ta phải
biết ơn sự giúp đở đó, nhưng chớ vì bạn giúp ta nhiều mà trông chờ ỷ lại, mà phải
đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ
nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua sự giúp đỡ
đó có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt Nam. Muốn vậy phải sử dụng
có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội. Người nhắc nhở,
các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng các vốn ấy để
bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh
sinh. Bởi vậy, chính phủ phải có kế hoạch để sự dụng hợp lý sự giúp đỡ ấy. Cán bộ
ta phải ra sức công tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia bạn, học tập kinh
nghiệm tiên tiến của các nước bạn, phải bảo quản và sử dụng tốt những máy móc
và vật liệu các nước bạn đã giúp ta, phải nghiêm khắc chống bệnh quan liêu, lãng
phí, tham ô.

7
(18) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tập 1, tr.9-10
(19) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tập 5, tr.578
(20) Đảng CS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.70
(21) Đảng CS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.71
16
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ, tự lực tự cường, Đại hội X
đã xác định “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
(20)
,
“phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ tối đa ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”
(21)
, “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… Việt Nam là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
(22)8
. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước cần quán triệt tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của Hồ
Chủ tịch. Chúng ta phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
*Liên hệ thực tế nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay:
Hội nghị TW 6(khóa 7) đã xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để xây
dựng và phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh
thần là quan trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người Việt
Nam biến thành động lực để chiến thắng kẻ thù, hôm nay xây dựng và phát triển
kinh tế.

Khẳng định rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, của Đảng Cộng sản, kết
hợp vấn đề dân tộc và giai cấp đưa Cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc lên
chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết dt rộng rãi trên nền tảng liên minh công - nông và
tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử
dụng bạo lực của quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết
dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận công
lao của các dân tộc miền núi đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống xâm lươc. Hồ Chủ tịch nói: đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ
vang và oanh liệt.
Trong công tác đền ơn, đáp nghĩa Hồ Chủ tịch chỉ thị, các cấp bộ Đảng phải thi
hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các
dân tộc sao cho đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn. Văn hóa sẽ cao
8
(22) Đảng CS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006,
tr.112
17
hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng
hơn.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu
cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin
sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế, đối với Việt
Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành
một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm
nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng
đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với
tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo

cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, tư tưởng, là quốc bảo phù
hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành
thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất
nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
18

×