Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

An sinh giáo dục Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.05 KB, 57 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay, xây dựng cơ sở hạ tầng
vững chắc là thiết yếu đối với nước ta. Bên cạnh đó, từ khi Việt Nam tham gia vào
WTO, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư vốn hay trực tiếp xây
dựng các công trình, dự án khác nhau. Hiện nay những hiểm họa thiên tai, lũ lụt và cả
những rủi ro do con người gây ra như cháy nổ, sai sót trong thiết kế… thì những thiệt
hại kinh tế gây ra thật khó lường. Nhận thức sự cần thiết phải bảo hiểm cho những rủi
ro này, các nhà đầu tư đã đến với các doanh nghiệp bảo hiểm. Khi đó triển vọng với
ngành bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm kỹ thuật nói riêng đã thực sự mở
ra.
Đây cũng là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.
Vấn đề nghiên cứu, cải tiến hiệu quả quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này
giúp các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Nhận thấy vị trí quan trọng và sự cần thiết to lớn của bảo hiểm xây dựng và
lắp đặt em chọn đề tài “Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và
lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô” làm chuyên đề thực tập của
mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm xây dựng và lắp đặt.
Chương II: Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ở
Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hoàn thiện quy
trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu
khí Đông Đô.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT
I. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm xây dựng lắp đặt
1. Quá trình hình thành và phát triển
Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Trong suốt
quá trình phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát
triển của bảo hiểm kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm hàng
hải, bảo hiểm hỏa hoạn thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Bảo hiểm


hàng hải xuất hiện năm 1547, Bảo hiểm hoả hoạn xuất hiện năm 1667, trong khi đó
đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới là đơn bảo hiểm đổ vỡ máy móc được
cấp năm 1859. Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kỹ thuật là động lực thúc đẩy Bảo
hiểm kỹ thuật phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và đồng thời nó cũng trở thành
một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển
của bất cứ nền kinh tế nào.
Bảo hiểm kỹ thuật hiện nay đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của hoạt động
kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm các máy móc trong hoạt động sản
xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, trong phòng thí nghiệm cho tới việc bảo
hiểm cho các công trình xây lắp khổng lồ như bến cảng, sân bay hay lắp đặt các tàu
biển cỡ lớn các giàn khoan trên biển, và cho cả những con tàu vũ trụ. Munich Re, cho
đến nay vẫn đứng trong những công ty tái Bảo hiểm hàng đầu thế giới và được coi là
một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm kỹ
thuật. Ngày nay, hầu hết các công ty Bảo hiểm trên thế giới thực hiện nghiệp vụ này
đều áp dụng quy tắc Bảo hiểm của Munich Re
Đơn bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng hay đơn bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ
thầu đầu tiên được cấp vào năm 1929 để đảm bảo cho việc xây dựng cầu Lamberth
bắc qua sông Thames, không lâu sau đó đã xuất hiện đơn Bảo hiểm mọi rủi ro lắp
đặt. Tuy nhiên, cả hai đơn bảo hiểm này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai
đoạn xây dựng sau chiến tranh thế giới năm 1945 và công cuộc phát triển sau đó trên
thế giới của các nền kinh tế đang nổi. Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại và công
nghệ ngày càng thúc đẩy việc đưa ra các phạm vi bảo hiểm mới hơn, phức tạp hơn.
Và cho đến hiện nay bảo hiểm kỹ thuật đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, bao gồm
các loại hình chính sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu;
- Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt;
- Bảo hiểm đổ vỡ máy móc;
- Bảo hiểm thiết bị điện tử;
- Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động;

- Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí.
Như vậy, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là một bộ phận của bảo hiểm kỹ
thuật. Sự ra đời của nó đã đảm bảo an toàn cho các công trình xây dựng và lắp đặt
hạn chế những rủi ro có thể do thiên tai đem lại như : Mưa bão, lũ lụt, động đất, núi
lửa ... hoặc những sự cố do con người gây ra như sai lầm trong thiết kế, sai lầm của
người trực tiếp thi công, khuyết tật của nguyên vật liệu ...Trên thực tế, bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt là những mắt xích không thể thiếu được trong bảo hiểm kỹ thuật. Nó
đảm bảo cho khâu xây dựng và lắp đặt của một công trình xây dựng. Bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt là những loại hình có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô cũng như
chất lượng nghiệp vụ do nhu cầu xây dựng và lắp đặt của các nước trên thế giới ngày
càng có xu hướng phát triển ngay cả trong thời kỳ kinh tế khó khăn.
Tại Việt Nam, trước những năm 1970, chính quyền Sài Gòn cũ đã thực hiện
nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Thời kỳ này, thị trường bảo hiểm Sài Gòn
chịu ảnh hưởng lớn của thị trường bảo hiểm Mỹ. Các công trình xây dựng - lắp đặt
được Bảo hiểm lúc bấy giờ chủ yếu là nhà tư nhân của một số tướng tá cấp cao trong
quân đội Mỹ và chính quyền tay sai. Bởi vì không đảm bảo được nguyên tắc “số
đông bù số ít” nên nghiệp vụ này không phát triển. Cho đến năm 1980, nghiệp vụ này
bắt đầu được chú ý ở miền Bắc, Bảo Việt đã cử một số người sang Đức để học tập và
nâng cao trình độ nghiệp vụ. Tuy nhiên, nghiệp vụ này vẫn chưa được đưa vào thực
tế vì cho đến năm 1986, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp. Các công trình xây dựng - lắp đặt có quy mô lớn chủ yếu thuộc sở
hữu Nhà nước, được Ngân sách Nhà nước bao cấp. Nếu như chẳng may rủi ro xảy ra
gây thiệt hại thì đã có Nhà nước gánh chịu. Hơn nữa, giai đoạn này đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam còn quá ít nên loại hình bảo hiểm xây dựng và lắp đặt cũng như
các loại bảo hiểm khác vẫn chưa được quan tâm tới. Chỉ đến sau đại hội VI (1986),
khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện thì bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
mới thực sự được quan tâm, phát triển. Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam năm 1987 là cột mốc đầu tiên đánh dấu tiềm năng to lớn của Bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt tại Việt Nam .
Bảo Việt là Công ty bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam triển khai nghiệp vụ

bảo hiểm này. Khi Bộ Tài chính ban hành quyết định số 253/TCQĐ-91 cho phép tiến
hành nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt thì Bảo Việt và các công ty Bảo hiểm
địa phương của nó bắt đầu triển khai. Theo sau đó là hàng loạt các Thông tư, Quyết
định của Bộ tài chính được ban hành nhằm bổ sung hoàn thiện cho việc triển khai
nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Việt Nam.
Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên được cấp ở Việt Nam là đơn bảo hiểm mọi
rủi ro lắp đặt cho trạm thu phát vệ tinh mặt đất Láng Trung. Kể từ đó, nghiệp vụ bảo
hiểm xây dựng và lắp đặt ngày càng phát triển và trở thành một trong những loại hình
Bảo hiểm mũi nhọn của các Công ty Bảo hiểm trong toàn quốc. Tuy nhiên, ban đầu
kết quả đạt được chưa cao, hầu như chỉ có các công trình xây dựng có vốn đầu tư
nước ngoài tham gia Bảo hiểm, còn các công trình của Nhà nước do Nhà nước quản
lý, chủ công trình chưa có ý thức tham gia Bảo hiểm. Chỉ đến khi có Nghị định số
177/CP ra ngày 20-10-1994 và Thông tư số 105/TC/ĐT được ban hành, tại mục 1,
điều 52 quy định : “ Chủ đầu tư phải mua Bảo hiểm cho công trình” thì nghiệp vụ
này mới thực sự có đà phát triển.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
Sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đưa nền kinh tế thế giới
phát triển vượt bậc, nâng cao chất lượng đời sống của con người. Khi đó, nhu cầu về
Bảo hiểm tăng lên rất nhanh trên nhiều lĩnh vực trong đó phải kể đến sự tăng trưởng
của nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Các dự án và các công trình xây dựng
đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và
có hiệu quả.
Bên cạnh đó, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đặc biệt kỹ
thuật xây dựng dân dụng, do yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao, giá trị công trình ngày
càng lớn và cùng với nó là sự phát sinh của nhiều rủi ro kỹ thuật, kinh tế trong quá
trình xây dựng nên đã dẫn đến đòi hỏi cấp thiết việc phát triển và mở rộng loại hình
bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Mặt khác, trong giá đưa ra đấu thầu, các công ty hay các
hãng thầu không thể tính được đầy đủ khoản tiền dự trữ đề phòng cho các tổn thất
xảy ra khi xây dựng công trình. Trong khi đó nhà bảo hiểm có thể tính toán chính xác
hơn nhiều số phí bảo hiểm của công trình so với so với việc dự kiến số tiền đề phòng

tổn thất của các nhà thầu. Hơn nữa, quy luật của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít nên
phí bảo hiểm sẽ không cao. Như vậy bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngoài ý nghĩa quan
trọng là việc đóng góp vào hạ giá thành công trình còn đảm bảo mặt tài chính cho các
bên có liên quan tới công trình được xây dựng.
Các rủi ro trong bảo hiểm kỹ thuật rất đa dạng, từ các rủi ro do thiên tai
như : Mưa bão, lũ lụt, động đất, sóng thần ... cho đến các rủi ro do chính con người
gây ra như : sai lầm trong thiết kế, khuyết tật của nguyên vật liệu, hành động phá hoại
vô ý hoặc có chủ đích của người khác ... đều có thể xảy ra và không thể lường trước
được. Chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả to lớn. Vì vậy để
đảm bảo an toàn trong quá trình xây dựng lắp đặt thì họ cần có bảo hiểm .
Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, các công ty bảo hiểm
cùng với các ngành, các cơ quan hữu quan phối hợp tiến hành công tác đề phòng hạn
chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra thiệt hại đối với tài
sản, trách nhiệm và con người. Trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, theo thông lệ,
trước khi tiến hành bảo hiểm, Người bảo hiểm phải theo dõi, kiểm tra và đánh giá
mức độ rủi ro của các đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ tư vấn kịp
thời cho người được bảo hiểm những biện pháp cần thiết để đề phòng, hạn chế khả
năng xảy ra rủi ro và như vậy vô hình chung đã đem lại hiệu quả chung cho toàn xã
hội.
II. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng và lắp
đặt
1. Người được bảo hiểm
Mỗi công trình xây dựng là một quy hoạch tổng thể có liên quan đến rất
nhiều khía cạnh như pháp luật, hợp đồng và kỹ thuật, cho nên việc hợp tác chặt chẽ
giữa các bên là vấn đề cần thiết không thể thiếu được. Chính vì vậy việc xác định rõ
người được bảo hiểm trong một công trình xây dựng là rất cần thiết. Trong bảo hiểm
xây dựng và lắp đặt, tất cả các bên có liên quan và có quyền lợi trong công trình xây
dựng và lắp đặt, đã được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể
là người được bảo hiểm. Cụ thể như sau:
1.1. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng:

- Nhà đầu tư: Là người bỏ tiền vốn, đất đai ra để xây dựng công trình, là nhân
vật trung tâm trong những người được bảo hiểm. Quyền lợi của họ gắn liền
với chính bản thân công trình.
- Nhà thầu chính: Là người được chủ đầu tư uỷ quyền chịu trách nhiệm toàn bộ
việc xây dựng công trình thông qua một hợp đồng xây dựng được ký kết giữa
các bên.
- Tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng: Là các kiến trúc sư, kỹ sư, cố vấn chuyên
môn, … Họ là người thay mặt chủ đầu tư trên công trường, theo dõi, kiểm tra
giám sát việc thi công của từng hạng mục công trình trên cơ sở bản vẽ thiết kế.
- Các Nhà thầu phụ: Là người ký kết hợp đồng làm thuê cho nhà thầu chính
nhằm thực hiện một phần công việc hoặc công việc được hoàn thành trong
thời gian ngắn.
Do có nhiều bên được bảo hiểm nên sẽ nảy sinh vấn đề đơn bảo hiểm sẽ ghi ai
là người được ghi tên đầu tiên. Thông thường người đứng ra ký kết hợp đồng bảo
hiểm và đóng phí sẽ là người đại diện của các bên trong hợp đồng bảo hiểm. Họ có
thể là chủ đầu tư, chủ thầu chính hay thầu phụ. Tuy nhiên, nếu do nhà thầu phụ đứng
ra ký kết hợp đồng thì giá trị pháp lý sẽ không thể bằng chủ đầu tư hay chủ thầu
chính. Vì vậy, trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng sẽ ghi tên người đứng ra đại diện
kèm theo danh sách những người có quyền lợi liên quan đến công trình..
1.2. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt:
-Nhà đầu tư : Là người chịu trách nhiệm mua sắm máy móc thiết bị, lắp đặt và
đưa vào sử dụng với chi phí của mình.
-Nhà thầu chính : Là người làm thuê cho chủ đầu tư tiến hành công việc lắp đặt,
vận hành thử, sửa chữa và bảo hành.
-Nhà thầu phụ : Là người làm thuê từng phần việc cho nhà thầu chính.
-Các kiến trúc sư, nhà thiết kế, kỹ sư tư vấn : Họ là những người hoạt động liên
quan đến công trình lắp đặt.
-Nhài cung cấp máy móc thiết bị cho toàn bộ công trình lắp đặt
Ngoài ra, các tổ chức cho vay (như các ngân hàng) cũng là những người được
bảo vệ một cách gián tiếp bởi hợp đồng này.

Chú ý là khi có bất cứ một sai sót hay hành động cố ý nào của người được Bảo hiểm
dẫn đến tổn thất đều không được Bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt.
2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
2.1. Đối tượng bảo hiểm
2.1.1. Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng
Đối tượng chính của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả công trình xây dựng
dân dụng, công trình công nghiệp… hay nói cách khác là bao gồm tất cả các công
trình xây dựng mà kết cấu của nó có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép. Cụ thể là
các nhóm công trình sau :
-Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim, các công
trình văn hoá khác …
-Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất.
-Đường sá (bao gồm cả đường bộ và đường sắt), đường băng sân bay.
-Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, kênh đào, cảng …
Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt được xác định và dự tính
thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết bị cần thiết
phục vụ cho công tác xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như
giải quyết khiếu nại trong trường hợp tổn thất xảy ra, một công trình xây dựng có thể
được chia làm nhiều hạng mục khác nhau, cụ thể gồm:
*Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng: Hạng mục này chiếm phần lớn giá trị
của công trình. Nó bao gồm toàn bộ các công việc do nhà thầu chính tiến hành ( kể cả
các nhà thầu phụ) theo hợp đồng xây dựng được ký kết giữa nhà thầu chính và chủ
đầu tư: Từ công tác chuẩn bị mặt bằng (đào đất, san nền), xây dựng các cấu trúc tạm
thời phục vụ công tác thi công (làm kênh dẫn nước, đê bảo vệ công trình …) cho đến
công tác đóng cọc, làm móng và xây dựng cấu trúc chính của công trình. Ngoài ra khi
xây dựng một công trình, còn có cả công tác lắp đặt máy móc thiết bị như hệ thống
thang máy, điều hoà điện nước, thiết bị bảo vệ công trình đó. Nếu người được bảo
hiểm có yêu cầu thì người bảo hiểm sẽ xem xét và bảo hiểm cho công tác chạy thử
các máy móc thiết bị được lắp đặt mà đáng lẽ phải thuộc phạm vi đơn bảo hiểm lắp
đặt. Tuy nhiên nếu giá trị lắp đặt các máy móc, thiết bị đó lớn hơn 50% tổng giá trị

của cả công trình xây dựng thì không được bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm xây dựng
mà phải áp dụng đơn bảo hiểm lắp đặt.
*Các trang thiết bị xây dựng: Gồm các thiết bị cố định phục vụ thi công như các
công trình phụ trợ (lán trại, trụ sở tạm thời, kho bãi, nhà xưởng), giàn giáo, hệ thống
băng tải, thiết bị cung cấp điện nước, rào chắn …Khi yêu cầu bảo hiểm cho các trang
thiết bị này, cần phải có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm
*Máy móc xây dựng : Bao gồm các loại máy móc dùng trong quá trình xây dựng
như máy móc có động cơ tự hành hoặc không tự hành phục vụ công tác thi công
( như máy xúc, máy ủi, xe chuyên dùng, …) thuộc quyền sở hữu của người được bảo
hiểm hoặc do họ đi thê. Các loại máy móc này chỉ được Bảo hiểm trong thời gian sử
dụng trên công trường. Khi yêu cầu Bảo hiểm cho các máy móc này cần phải có danh
sách kèm theo đơn Bảo hiểm.
*Các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường thuộc quyền sở hữu, quản lý,
trông nom hay coi sóc của người được bảo hiểm: Trường hợp này thường có ở các
công trình mở rộng hoặc cải tạo lại, các tài sản trên có thể bị thiệt hại trong quá trình
xây dựng mới. Giá trị của tài sản này không nằm trong giá trị của công trình mới nên
chúng thường không thuộc phạm vi bảo hiểm. Tuy nhiên nếu người được bảo hiểm
có nhu cầu thì có thể xem xét và mở rộng phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bổ sung.
*Chi phí dọn dẹp hiện trường : Bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu dọn và
di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm gây ra trên phạm vi công
trường. Khoản chi phí này chỉ được nhà bảo hiểm thanh toán khi người được Bảo
hiểm kê khai giá trị và yêu cầu bảo hiểm. Người bảo hiểm thường gợi ý cho người
được bảo hiểm mua 5% giá trị công trình làm số tiền bảo hiểm cho phần chi phí này.
*Trách nhiệm dân sự của người được Bảo hiểm đối với bên thứ ba : Bao gồm các
trách nhiệm pháp lý do thiệt hại về tài sản và (hoặc) thương tật thân thể của bên thứ
ba phát sinh trong quá trình thi công công trình hoặc xung quanh khu vực công
trường.
Mặc dù bảo hiểm xây dựng là loại hình bảo hiểm tài sản, nhưng để hấp dẫn
khách hàng và nhằm giảm bớt thủ tục hành chính cho họ cũng như cho công ty Bảo
hiểm nên đơn bảo hiểm xây dựng đã được mở rộng để bảo hiểm cho cả trách nhiệm

đối với người thứ ba. Tuy nhiên, người thứ ba không phải là người thân, người làm
công hoặc người đại diện của người được bảo hiểm. Đối với người làm công, họ
được bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm tai nạn lao động hoặc trách nhiệm của chủ thầu
đối với người làm thuê.
2.1.2. Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt:
Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc lắp đặt, trang thiết bị
phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công việc
lắp đặt. Đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau:
-Các máy móc, dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành
lắp đặt các máy móc, thiết bị đó;
-Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt;
-Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt;
-Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba;
-Chi phí dọn dẹp vệ sinh.
2.2. Phạm vi bảo hiểm
2.2.1. Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng
 Các rủi ro bảo hiểm:
Đơn bảo hiểm xây dựng do công ty bảo hiểm cấp thường là đơn bảo hiểm
mọi rủi ro nên phạm vi được bảo hiểm thường rất rộng, chỉ trừ các rủi ro loại trừ
được nêu rõ trong đơn (theo thông lệ quốc tế) còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không
lường trước được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng. Cụ thể có thể
chia thành những loại rủi ro như sau :
-Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy;
-Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần;
-Bão tố các loại;
-Động đất, sụt lở đất đá;
-Trộm cắp;
-Thiếu kinh nghiệm, sơ suất, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người;.
Ngoài ra, tùy vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ
sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.Ví dụ: Điều

khoản sửa đổi bổ sung số 001: Bảo hiểm cho các tổn thất gây ra bởi đình công, bạo
loạn, xung đột nội bộ; Điều khoản sửa đổi bổ sung số 011: Tổn thất hàng loạt …
 Các rủi ro loại trừ:
Các rủi ro loại trừ chung cho cả phần bảo hiểm vật chất và trách nhiệm:
-Chiến tranh hay những hoạt động tương tự, đình công, nổi loạn, ngừng
công việc theo yêu cầu của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào.
-Hành động cố ý hay có sự cẩu thả cố ý của người được bảo hiểm hoặc
người đại diện của họ.
-Phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay ô nhiễm phóng xạ.
Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất.
- Các tổn thất có tính chất hậu quả như : Tiền phạt do chậm trễ hay vi
phạm hợp đồng, mất thu nhập do thời gian xây dựng kéo dài …
- Những hỏng hóc về cơ khí/ điện hay trục trặc của máy móc, trang thiết
bị xây dựng
- Tổn thất do thiết kế sai, nguyên vật liệu kém chất lượng hay không
đúng chủng loại.
- Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật
liệu và (hoặc) do tay nghề (các tổn thất do hậu quả thì được bảo hiểm).
Các loại trừ đối với phần bảo hiểm trách nhiệm :
- Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được
bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm
xây dựng.
- Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột
chống.
2.2.2. Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm lắp đặt:
Rủi ro được bảo hiểm
Những rủi ro chính được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt được chia
làm 3 loại chính. Đó là:
-Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh ( do
bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do sét đánh

núi lửa, đất đá lún, sụt lở.
-Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên công trường như:
thiếu kinh nghiệm, lỗi của con người, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý, vận chuyển,
khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, cường độ công việc cao do thời gian xây dựng
lắp đặt quá ngắn, phối hợp công việc thiếu hợp lý, bảo vệ công trường không tốt,
thiếu biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi người vận hành máy.
-Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn, chân không, nhiệt độ
quá lớn, lực li tâm, lỗi nguyên vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học, lỗi của hệ
thống hay thiết bị điều hành, điều khiển.
Các rủi ro loại trừ
Trong đơn bảo hiểm lắp đặt các rủi ro loại trừ được chia làm 3 loại rủi ro
chính:
- Loại trừ chung: Áp dụng cho cả phần bảo hiểm thiệt hại vật chất và trách nhiệm.
Các rủi ro loại trừ ở phần này là:
+ Chiến tranh
+ Những rủi ro hạt nhân
+ Các hành vi vi phạm của người được bảo hiểm
+ Gián đoạn công việc
- Các loại trừ đặc biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất:
+ Các khoản miễn thường
+ Mọi tổn thất hậu quả
+ Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu
+ Hao mòn và xé rách
+ Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu,…
+ Các tổn thất được phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích)
- Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm
+ Các khoản miễn thường.
+ Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt
hại được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất.
+ Trách nhiệm đối với thương tật của con người tham gia vào quá trình thi

công công việc
+ Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản
lý của bất cứ người được bảo hiểm nào.
+ Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay.
+ Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ qui định trong hợp
đồng bảo hiểm.
3. Thời hạn bảo hiểm:
Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm
thường là thời gian thi công được tính từ khi bắt đầu khởi công công trình( sau khi
bốc dỡ vật tư, máy móc,…xuống công trường) đến khi hoàn thiện hay chuyển giao
hoặc đưa vào hoạt động. Trên thực tế, thời gian thi công không nhất thiết phải trùng
với thời hạn ghi trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn thành trước thời hạn thì hiệu
lực của hợp đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công trình được bàn giao đưa vào sử
dụng. trong trường hợp thời gian thi công kéo dài vượt quá thời hạn quy định thì
người được bảo hiểm phải có yêu cầu gia hạn thêm đối với hợp đồng bảo hiểm đồng
thời phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho trường hợp vượt quá này.
Thông thường thì thời hạn bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt bao
gồm
-Lưu kho trước khi xây dựng hay lắp đặt (thời gian lưu kho không được vượt quá
ba tháng).
-Giai đoạn xây dựng, lắp đặt
-Kiếm nghiệm, chạy thử. Đối với các máy móc, thiết bị cũ (đã sử dụng rồi) thì
trách nhiệm của người bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt sẽ chấm dứt ngay sau khi lắp
đặt xong - không bảo hiểm cho quá trình chạy thử của các máy móc này.
-Giai đoạn bảo hành. Nếu người được bảo hiểm yêu cầu thì thời hạn bảo hiểm có
thể mở rộng thời gian bảo hành cho công trình, khi đó sẽ áp dụng điều khoản sửa đổi
bổ sung 004 (Bảo hiểm bảo hành mở rộng).
4. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
4.1. Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng
Xác định được giá trị bảo hiểm (GTBH) trong bảo hiểm xây dựng là vấn đề

quan trọng và rất phức tạp, nó bao gồm các phần giá trị sau :
*GTBH của phần công tác xây dựng : Thường là giá trị ước tính và có thể là một
trong những giá trị sau :
- Tổng giá trị khôi phục lại công trình trong trường hợp có tổn thất toàn bộ và
phải tiến hành xây dựng lại.
- Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng.
- Giá trị tổn thất nhỏ nhất hoặc lớn nhất trong trường hợp sự cố xảy ra.
Tuy nhiên, việc xác định cụ thể giá trị của phần công tác xây dựng theo giá trị
dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng là hợp lý nhất. Khi công trình hoàn thành,
giá trị này được điều chỉnh lại theo giá trị thực tế và phí bảo hiểm cũng được điều
chỉnh lại cho phù hợp.
Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường bao gồm chi phí lập
công trình, giá trị các nguyên vật liệu do nhà thầu cung cấp, chi phí nhân công của
chủ thầu, những chi phí trả cho khối lượng công việc thầu phụ hay dịch vụ, chi phí
liên quan đến việc sử dụng máy móc thi công xây dựng, nhà xưởng thiết bị và các
công trình tạm thời, kỹ thuật và giám sát, chi phí hành chính, lợi nhuận.
*GTBH của máy móc và trang thiết bị xây dựng: được xác định theo giá trị thay
thể tương đương của máy móc, thiết bị đó mua tại thời điểm thi công công trình và
bao gồm cả các chi phí vận chuyển, lắp ráp.
Trong trường hợp xảy ra tổn thất bộ phận của máy móc thiết bị người được
bảo hiểm sẽ nhận được số tiền sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận thiệt hại mà không
được khấu trừ đi khoản khấu hao của các bộ phận đó.
*GTBH của phần chi phí dọn dẹp: Giá trị này do người được bảo hiểm căn cứ vào
việc dự kiến nếu xảy ra tổn thất thì chi phí cần thiết ước tính để có thể tiến hành dọn
dẹp mảnh vỡ, đất đá … là bao nhiêu. Thông thường các công ty Bảo hiểm xác định
giá trị này bằng 5% - 10% giá trị hợp đồng xây dựng.
*GTBH cho các công trình hoặc tài sản có sẵn trong hoặc xunh quanh khu vực
thi công thuộc quyền sở hữu, trông nom hoặc coi sóc của người được bảo hiểm :
Được xác định theo giá trị thực tế của các tài sản đó tại thời điểm yêu cầu bảo hiểm
trong hợp đồng.

*Mức trách nhiệm bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm
đối với bên thứ ba do việc thi công công trình: Mức trách nhiệm này thường được
xác định trên cơ sở giá trị tổn thất tối đa có thể. Đây là giới hạn thoả thuận cho mỗi
tai nạn nhưng không giới hạn trong suốt thời gian bảo hiểm.
Thông thường công ty bảo hiểm thường thuyết phục người được bảo hiểm
tham gia bảo hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp người được bảo hiểm tham gia
bảo hiểm dưới giá trị thì sẽ áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỉ lệ đối với các thiệt
hại xảy ra.
4.2 Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt:
Trong bảo hiểm lắp đặt, GTBH được tính cho từng hạng mục bảo hiểm. Cụ thể từng
hạng mục như sau:
-GTBH đối với thiết bị được lắp đặt: được tính bằng giá trị thay thế mới của bất
kỳ máy móc, thiết bị mới tương đương, gồm giá mua, chi phí kỹ thuật, cước phí vận
chuyển, thuế hải quan, chi phí lắp đặt, phí kho bãi.
-GTBH đối của các máy móc, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt; GTBH
đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh; GTBH của các tài sản có sẵn trên và xung quanh công
trường lắp đặt thuộc quyền quản lý, sở hữu của người được bảo hiểm ( tương tự như
bảo hiểm xây dựng).
4.3. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là khoản tiền ghi trong đơn bảo hiểm để xác định
giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm đối với công trình xây dựng - lắp đặt.
STBH được xác định dựa trên cơ sở GTBH và sự thoả thuận của hai bên. Thông
thường STBH trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt bằng GTBH
Đối với phần Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối
với bên thứ ba thì STBH hoàn toàn dựa trên sự thoả thuận giữa hai bên.
Nếu giá trị lắp đặt lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn
bảo hiểm lắp đặt. Còn nếu giá trị xây dựng lớn hơn 50% tổng STBH thì cấp đơn bảo
hiểm xây dựng. trên thực tế thì tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể sẽ có các sửa đổi bổ
sung phù hợp với từng đơn cấp ra.
5. Phí bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm

5.1. Phí bảo hiểm
5.1.1. Đánh giá các yếu tố rủi ro trong xây dựng và lắp đặt
Đây là một trong những công việc không thể thiếu của các công ty bảo hiểm
trước khi cấp đơn bảo hiểm cho một công trình xây dựng, lắp đặt cũng như trong quá
trình hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực. Việc đánh giá tốt các hiểm hoạ và nguy cơ có
thể xảy ra đối với một công trình xây dựng, lắp đặt sẽ giúp cho người bảo hiểm cũng
như người được bảo hiểm quản lý rủi ro tốt hơn cũng như lựa chọn các điều khoản
Bảo hiểm phù hợp. Việc đánh giá này được dựa trên cơ sở xem xét một cách thận
trọng và chính xác các nhân tố chủ quan, khách quan có thể ảnh hưởng đến một công
trình. Các nhân tố này cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tính toán xác
định tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp với từng công trình xây dựng.
*Các nhân tố chủ quan : Đó là các nhân tố có thể gây ra do sự vô ý hoặc cố ý của
con người. Nó liên quan đến kinh nghiệm của chủ đầu tư, chủ thầu trong xây dựng.
Tiến độ thi công công trình và thời gian thi công cũng là một nhân tố vô cùng quan
trọng trong việc đánh giá các rủi ro.
*Các nhân tố khách quan : Là các nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của con người,
ví dụ như các hiểm hoạ tự nhiên, điều kiện địa chất thuỷ văn, cháy nổ, …
Ngoài ra, còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến quá trình xây dựng một công
trình như phương án thi công, các biện pháp an toàn, đồ án thiết kế, ảnh hưởng giữa
công trình và các công trình lân cận,…
5.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm
Cơ sở định phí bảo hiểm phải căn cứ vào một số nhân tố nhất định như :
+ Loại công trình xây dựng, lắp đặt
+ Khu vực xây dựng, lắp đặt theo địa hình, khí hậu, điều kiện sinh thái
+ Loại rủi ro, nhóm rủi ro (bao gồm các rủi ro cơ bản, các rủi ro bất ngờ, các
rủi ro phụ)
+ Số tiền bảo hiểm
+ Mức độ đảm bảo của bảo hiểm (Mức miễn thường và điều kiện bồi thường
được thoả thuận trên hợp đồng bảo hiểm).
Ngoài ra, còn một số nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc tăng giảm phí như

kinh nghiệm của nhà thầu, tiền sử các vụ khiếu nại trước khi tham gia Bảo hiểm của
người được bảo hiểm, tay nghề của lao động, …
5.1.3. Phương pháp tính phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm xây dựng:
Thông thường phí bảo hiểm xây dựng được xác định theo một tỷ lệ phần
trăm trên giá trị bảo hiểm. Nhưng trong thực tế không thể đặt ra một biểu phí với tỷ
lệ cố định cho loại hình bảo hiểm này vì mỗi công trình riêng có các thông số kỹ
thuật riêng, chịu ảnh hưởng của những trạng thái, điều kiện tự nhiên khác nhau tại
từng khu vực … Nhưng nói chung, phí bảo hiểm xây dựng được xác định theo sự rủi
ro thông thường là những rủi ro chung nhất mà bất kỳ một công trình xây dựng nào
cũng có khả năng gặp phải, ngoài ra còn tính đến những rủi ro đặc biệt như : động
đất, lũ lụt, sóng thần …
Phí bảo hiểm của một công trình xây dựng bao gồm hai phần chính là:
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn:
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn là phí bảo hiểm tính cho các rủi ro tiêu chuẩn (các rủi
ro tiêu chuẩn theo đơn bảo hiểm của công ty tái bảo hiểm Munich Re đang được áp
dụng tại Việt Nam) bao gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ và các rủi ro khác
như tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm,… Phí bảo hiểm tiêu chuẩn gồm có phí cơ bản
tối thiểu, phụ phí rủi ro động đất và phụ phí rủi ro lũ lụt.
*Phí cơ bản tối thiểu: là mức phí tối thiểu cho một công trình xây dựng, được tính
bằng tỷ lệ phần nghìn của số tiền bảo hiểm.
*Phụ phí rủi ro động đất: được tính cho từng loại công trình, phụ thuộc vào độ
nhạy cảm của công trình đối với rủi ro động đất. Trong kỹ thuật mức độ nhạy cảm
của công trình được chia làm năm loại C,D,E,F và G ( trong đó công trình loại C là
có độ nhạy cảm với rủi ro động đất thấp nhất, loại G có độ nhạy cảm với rủi ro động
đất cao nhất).
Tỉ lệ phí động đất được tính bằng phần nghìn/ năm. Nếu công trình xây
dựng có thời gian xây dựng trên hoặc dưới một năm được tính phí như sau:
Đối với khu vực xây dựng công trình: theo bản đồ phân chia khu vực động
đất của công ty tái bảo hiểm Munich Re, các nước trên thế giới được chia thành 5 khu

vực, được đánh số từ 0 đến 4 theo mức độ tăng dần của động đất tính theo heo độ
Mercalli sửa đổi. Theo bản đồ đó thì các tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam của
Việt Nam thuộc khu vực có rủi ro động đất là 0 (hầu như không xảy ra động đất), còn
miền Bắc thuộc khu vực 1 ( ít xảy ra động đất ).
Bảng 1: Biểu phụ phí rủi ro động đất áp dụng cho Việt Nam
Độ nhạy cảm của công
trình
C D E F G
Phụ phí
Khu vực 0 0 0 0 0 0
Khu vực 1 0.20 0.22 0.24 0.26 0.30
(Nguồn: PVI Đông Đô)
Phụ phí rủi ro lũ lụt: được tính cho một năm căn cứ vào tính chất của từng loại
công trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt. Tỉ lệ phí xác định bằng phần nghìn trên số
tiền bảo hiểm và tùy thuộc vào thời gian thi công ( mùa mưa hay mùa khô).
Việc xác định phụ phí cho rủi ro lũ lụt được dựa vào những yếu tố sau:
-Sức chịu đựng của công trình đối với tác động của lũ lụt (được chia ra
làm 3 loại sức chịu đựng : I, II, III). Mỗi công trình đều ứng với một cấp chịu
đựng nhất định được ghi trong biểu phí.
-Khu vực rủi ro nơi tiến hành công trình xây dựng: Có 3 khu vực rủi ro là
1, 2 và 3:
Khu vực 1 : ít chịu ảnh hưởng của bao, lũ lụt : Khoảng cách tới sông, hồ, biển
hay nhánh sông ít nhất từ 1km trở lên, độ cao trung bình so với nước biển ít nhất là
25m.
Phụ phí động đất
( trong thời gian xây dựng )
=
Phí cho
một năm
Thời hạn bảo hiểm

(tháng)
12 tháng
x
Khu vực 2 : Vùng chịu ảnh hưởng của bão, lũ lụt : Khoảng cách tới sông, hồ,
biển hay nhánh sông dưới 1km, độ cao trung bình dưới 10m so với mặt nước biển,
lượng mưa cao nhất ghi nhận được là 40 –100mm/ngày.
Khu vực 3 : Khu vực chịu ảnh hưởng rất nhiều của bão, mưa, lũ : Khoảng
cách tới sông, biển, hồ hay nhánh sông dưới 300m và độ cao trung bình so với mặt
nước biển dưới 3m, lượng mưa trên 100mm/ngày.
Bảng 2:Biểu phụ phí rủi ro bão, lũ lụt
Sức chịu đựng
của công trình
Phụ phí rủi ro bão Phụ phí rủi ro lũ lụt
Khu vực 1 Khu vực 2 Khu vực 3 Khu vực 1 Khu vực 2 Khu vực 3
I 0,05 0,10 0,15 0,05 0,15 0,25
II 0,10 0,15 0,20 0,20 0,20 0,30
III 0,15 0,20 0,25 0,25 0,30 0,40
(Nguồn: PVI Đông Đô)
Phụ phí mở rộng:
Đây là phần phí bảo hiểm xác định cho phần trang thiết bị xây dựng, máy móc
xây dựng, tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường, chi phí dọn dẹp
hiện trường, trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ ba.
Phí bảo hiểm lắp đặt
Trong công trình lắp đặt có thể có một phần công việc xây dựng và phần
công việc này có thể bảo hiểm luôn bằng đơn bảo hiểm lắp đặt. Khi đó cần lưu ý cách
tính phí như sau:
-Nếu giá trị của phần xây dựng nhỏ hơn 20% tổng giá trị của công trình thì mức
phí tính như tỷ lệ phí của bảo hiểm lắp đặt.
-Nếu giá trị của phần công việc xây dựng từ 20 - 50% giá trị của công trình thì phí
bảo hiểm cho phần công việc này được tính riêng theo biểu phí trong bảo hiểm xây

dựng.
-Nếu giá trị công việc xây dựng lớn hơn 50% giá trị công trình thì áp dụng đơn
bảo hiểm xây dựng để bảo hiểm cho công việc này.
Về cơ bản, phương pháp tính phí bảo hiểm lắp đặt cũng giống như phương
pháp tính phí bảo hiểm xây dựng, chỉ có một số điểm khác đó là:
-Phí cơ bản tối thiểu trong bảo hiểm lắp đặt tối thiểu là 300USD hoặc tương
đương bằng các loại tiền khác
-Việc xác định phụ phí rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào sức chịu của công trình đối với
tác động của gió, bão, lũ lụt.
5.2. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm
Thông tư số 76/2003/TT -BTC đã quy định “Khi xảy ra sự cố thuộc trách
nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm theo
đúng các điều kiện và điều khoản của hợp đồng bảo hiểm” .
Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm, trước khi giải quyết bồi
thường người bảo hiểm phải tiến hành giám định tổn thất một cách cẩn thận.
5.2.1. Nguyên tắc chung trong công tác giám định và bồi thường tổn thất
Công tác giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm kỹ thuật phải tuân
thủ theo một số nguyên tắc nhất định để đảm bảo quyền lợi cho công ty bảo hiểm
cũng như người được bảo hiểm. Cụ thể như sau:
-Việc giám định và giải quyết bồi thường phải đảm bảo kịp thời, chính xác, khách
quan và thỏa đáng. Ngoài ra, do tính chất phức tạp và đặc thù của các đối tượng bảo
hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật, các nhà bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thuê giám định
viên chuyên nghiệp thực hiện công tác giám định.
-Nhà bảo hiểm phải giải quyết bồi thường trong vòng 15 ngày sau khi hoàn tất hồ
sơ khiếu nại.
-Người được bảo hiểm mua bảo hiểm theo đơn giá nào thì bồi thường theo đơn
giá đó, việc sửa đổi, điều chỉnh chỉ có hiệu lực trước khi xảy ra tổn thất.
5.2.2. Các bước cơ bản trong giám định và bồi thường tổn thất
Nhận thông báo tổn thất và yêu cầu giám định
Khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm có trách nhiệm báo ngay cho

người bảo hiểm, đồng thời giữ nguyên hiện trường và thực hiện các biện pháp đề
phòng, hạn chế tổn thất phát sinh thêm. Sau một khoảng thời gian nhất định phải
hoàn thành các giấy tờ sau và gửi cho người bảo hiểm:
-Thông báo chi tiết bằng văn bản về tổn thất;
-Giấy yêu cầu giám định;
-Giấy chứng nhận bảo hiểm;
-Hoá đơn thanh toán phí bảo hiểm;
-Xác nhận của các nhân chứng về tai nạn hoặc sự cố;
-Các giấy tờ khác ( nếu có ).
Tiến hành giám định:
Công tác này đòi hỏi người giám định viên phải giải quyết những công việc
sau:
-Xem xét và chụp ảnh hiện trường
-Thu thập toàn bộ các số liệu, hóa đơn, chứng từ có liên quan đến tổn
thất
-Lập biên bản giám định hiện trường
-Thẩm tra lại các bên có liên quan về tai nạn hoặc sự cố và các biện pháp
đề phòng hạn chế tổn thất phát sinh thêm.
Giải quyết khiếu nại và bồi thường:
Nguyên tắc chung của quy trình thông báo và giải quyết khiếu nại của tất cả
các sự cố phát sinh như sau:
-Tất cả các sự cố - Thông báo phải bằng fax hoặc email trong vòng 24 giờ kể từ
khi phát sinh.
-Sự cố lớn hoặc nghiêm trọng phải ngay lập tức thông báo bằng điện thoại sau đó
thông báo bằng văn bản trong vòng 7 ngày kể từ ngày xảy ra sự cố.
-Tất cả các sự cố - đề nghị fax mẫu Thông báo tổn thất đính kèm tại phụ lục trong
vòng 7 ngày kể từ khi xảy ra sự cố.
Một bộ hồ sơ khiếu nại yêu cầu bồi thường bao gồm:
+ Giấy chứng nhận bảo hiểm
+ Các hoá đơn đóng phí bảo hiểm

+ Biên bản giám định hiện trường
+ Báo cáo của công an (nếu cần).
+ Lời khai của nạn nhân, nhân chứng.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm căn cứ vào thời hạn hiệu lực bảo
hiểm, phạm vi bảo hiểm. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm chỉ phát sinh đối với đối
tượng được bảo hiểm và khi người được bảo hiểm khiếu nại yêu cầu bồi thường
trong thời gian quy định.
Giới hạn trách nhiệm Bảo hiểm cao nhất mà người bảo hiểm phải gánh chịu:
+ Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm;
+ Mức giới hạn trách nhiệm đối với bên thứ ba;
+ Giới hạn trách nhiệm đối với các tổn thất do các rủi ro bổ sung (Giới hạn
trách nhiệm cao nhất trong các trường hợp tổn thất do các rủi ro thiên tai).
Trong trường hợp xảy ra tổn thất mà chưa rõ nguyên nhân, công ty bảo hiểm
cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan công an làm sáng tỏ nguyên nhân và trách
nhiệm của người được bảo hiểm, tránh để xảy ra trục lợi bảo hiểm.
Sau khi đã xem xét, đánh giá và thực hiện đầy đủ các công việc trên đồng
thời nhận đầy đủ giấy tờ cần thiết từ người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm tiến
hành bồi thường cho người được bảo hiểm và phải thông báo bằng văn bản kể cả
trong trường hợp từ chối bồi thường kèm theo băn bản ghi rõ nguyên nhân từ chối.
Trình tự giải quyết một vụ bồi thường có thể được minh họa qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ thông báo và giải quyết sự cố:
6. Hợp đồng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
Hợp đồng bảo hiểm là bản cam kết trách nhiệm giữa người bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm thường ghi rõ những
điểm mà hai bên thoả thuận, cùng với những văn bản pháp lý trong thực hiện hợp
đồng.
Khách hàng Công ty bảo hiểm
- Thông báo tổn thất bằng công
văn hoặc mẫu thông báo tổn
thất.

- Phối hợp, tạo điều kiện cho
Giám định viên thực hiện công
tác giám định.
- Cung cấp các thông tin cần
thiết nếu được yêu cầu.
- Hoàn thiện hồ sơ bồi thường
theo hướng dẫn của công ty
bảo hiểm.
- Hướng dẫn khách hàng hoàn thiện
thông báo tổn thất và fax cho công
ty bảo hiểm.
- Kiểm tra, đánh giá sơ bộ tổn thất.
- Thực hiện giám định tổn thất (nếu
cần).
- Họp định kỳ với khách hàng và
các bên có liên quan trong quá
trình giám định, giải quyết khiếu
nại nếu tổn thất lớn và phức tạp.
- Thông báo kết quả giám định, kết
quả trao đổi thống nhất giữa các
bên.
- Hoàn thiện hồ sơ bồi thường.
- Thông báo cho khách hàng về số
tiền bồi thường.
- Thanh toán bồi thường.
Sau khi thu xếp xong một hợp đồng xây dựng - lắp đặt. Người bảo hiểm cấp
đơn bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm. Bộ đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
đầy đủ bao gồm các tài liệu sau:
-Bản câu hỏi và yêu cầu bảo hiểm.
-Bản đánh giá rủi ro

-Hợp đồng bảo hiểm
-Giấy chứng nhận bảo hiểm
-Điều khoản bảo hiểm/ điều khoản bồi thường và các điều khoản bổ sung (nếu
có).
-Thông báo thu phí bảo hiểm.
Một trong những công việc quan trọng của người bảo hiểm trước khi cấp đơn
bảo hiểm cho một công trình xây dựng - lắp đặt là phải đánh giá các rủi ro có thể ảnh
hưởng đến công trình. Tuy nhiên để có thể tính toán được các yếu tố ảnh hưởng nói
trên thì người được bảo hiểm phải trả lời một cách chính xác và chân thật bản câu hỏi
mà người bảo hiểm đưa ra cho mỗi loại công trình.
Bản câu hỏi và yêu cầu bảo hiểm: bản câu hỏi do người được bảo hiểm điền
vào theo mẫu in sẵn của người bảo hiểm. Đây là cơ sở quan trọng để người bảo hiểm
căn cứ vào đó để đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm và sau đó cấp đơn bảo hiểm. Bản
câu hỏi này có nội dung như: tên, địa điểm công trình, thông tin về chủ đầu tư (chủ
giao thầu), chủ thầu chính, các rủi ro đặc biệt như cháy nổ, đất lở, bão gió lốc, ... Đối
với công trình tương đối đặc biệt như cầu, đập, cảng, đường xe lửa, cống thoát nước
thì ngoài bản câu hỏi nói trên còn có thêm các câu hỏi bổ sung.
III. Đặc điểm quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
1. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là loại hình bảo
hiểm tương đối phức tạp. Hiện nay, trên thế giới bảo hiểm xây dựng và lắp đặt không
chỉ phát triển với tốc độ tăng nhanh về doanh thu, lợi nhuận mà còn hoàn thiện đa
dạng hoá các đơn bảo hiểm. Tuy ra đời muộn, nhưng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
đã phát triển và hoàn thiện nhanh chóng. Hiện nay, nghiệp vụ này vẫn đang từng
bước được cải tiến và mở rộng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tham gia Bảo
hiểm.
Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mang tính tất yếu khách quan. Nhu
cầu xây dựng ngày càng tăng về số lượng cũng như quy mô. Quy mô càng lớn thì giá
trị và thời gian để hoàn thành càng lớn. Điều này có nghĩa là xác suất rủi ro và tổn
thất cao, giá trị thiệt hại lớn. Do vậy, tất yếu xuất phát nhu cầu về bảo hiểm xây dựng

và lắp đặt .
Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt rất nhạy cảm với tình hình đầu tư
và gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt thường rất lớn có khi
lên đến hàng trăm triệu USD. Và hầu hết các trường hợp thì số tiền bảo hiểm bằng
giá trị bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm lắp đặt là đơn bảo hiểm mọi rủi ro, hầu hết tất cả các rủi ro
xảy ra trong quá trình lắp đặt máy móc, thiết bị (trừ các rủi ro đặc biệt được loại trừ
trong đơn bảo hiểm) đều được đảm bảo bằng đơn bảo hiểm lắp đặt.
Đơn bảo hiểm lắp đặt cũng có thể bao gồm cả các công việc xây dựng, nếu
giá trị của phần việc xây dựng nhỏ hơn 50% giá trị của cả công trình. Trong trường
hợp giá trị của phần việc xây dựng chiếm hơn 20% giá trị của cả công trình thì phí
bảo hiểm cho phần xây dựng này được tính riêng theo phí bảo hiểm của Bảo hiểm
xây dựng nhưng vẫn sử dụng đơn bảo hiểm lắp đặt.
2. Đặc điểm của quy trình triển khai nghiệp vụ
Đặc điểm của ngành xây dựng lắp đặt là các công trình ngoài trời, chịu ảnh
hường của thời tiết, khí hậu. Giá trị công trình rất lớn, thời gian thi công kéo dài, liên
quan tới nhiều bên trong quá trình thực hiện công trình. Các công trình thường được
xây dựng vào mùa khô hay nói cách khác bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mang tính
thời vụ. Vì vậy, nó ảnh hưởng đến việc bố trí nguồn lực khai thác, mở rộng mối quan
hệ theo nhiều đối tượng, thời gian khai thác thường phải kéo dài.
Thị trường bảo hiểm phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm
mới ra đời góp phần tăng cường khai thác các rủi ro mới. Bên cạnh đó thị trường bảo
hiểm hoàn thiện hơn giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao chất lượng khai thác,
phương thức tiếp cận khách hàng có nhiều thay đổi. Vì vậy hoạt động khai thác bảo
hiểm xây dựng và lắp đặt cũng chịu sự tác động của thị trường bảo hiểm nói chung.
Nếu thị trường bảo hiểm càng phát triển thì chi phí cho hoạt động khai thác sẽ tương
xứng với hiệu quả mà DNBH đạt được trong quá trình triển khai bảo hiểm.
Trong quá trình triển khai nghiệp vụ này nếu nhận thức của chủ thầu, nhà
đầu tư về tác dụng của bảo hiểm ngày càng được nâng cao thì việc khai thác bảo

hiểm xây dựng và lắp đặt sẽ dễ dàng hơn. Và ngược lại nếu nhận thức của các nhà
đầu tư, chủ thầu chưa cao thì hoạt động khai thác có thể sẽ tốn nhiều chi phí hơn
nhưng lại không đạt hiệu quả cao.
Khai thác viên bảo hiểm là người tiếp xúc với khách hàng, tìm hiểu khách
hàng, tạo ấn tượng,hình ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng. Vì vậy, có
khai thác hay duy trì được hợp đồng bảo hiểm hay không là phụ thuộc một phần vào
kĩ năng, trình độ của cán bộ khai thác.
Hoạt động nhận tái của các công ty tái trên thị trường: Sự gia tăng năng lực
nhận tái bảo hiểm từ thị trường thế giới và khu vực góp phần giúp các công ty bảo
hiểm trong nước có thêm sự lựa chọn trong việc thu xếp chương trình tái bảo hiểm.
Nhưng nếu hợp đồng nào có phí quá thấp có thể sẽ không được nhận tái. Điều này tác
động đến việc lựa chọn phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm của cán
bộ khai thác. Và có thể tác động đến việc chuyển hướng khai thác của doanh nghiệp
bảo hiểm.
CHƯƠNG II
THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY
DỰNG VÀ LẮP ĐẶT Ở CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ
ĐÔNG ĐÔ
I. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bảo
hiểm Dầu khí Đông Đô
1. Lịch sử hình thành và tổ chức bộ máy của Công ty
1.1. Lịch sử hình thành Công ty
Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI) được thành lập
theo quyết định số 42 GP/KDBH ngày 12/03/2007 của Bộ tài chính tiền thân là Công
ty Bảo hiểm Dầu khí, từ loại hình Công ty 100% vốn nhà nước - thành viên tập đoàn
Dầu khí Việt Nam trở thành Tổng Công ty cổ phần với cổ đông chính là Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam (tỷ lệ góp vốn chiếm 59,48% vốn điều lệ), có phạm vi
hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài. Kể từ khi thành lập đến nay,
Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam đã trưởng thành và phát triển
mạnh mẽ về quy mô cũng như tiềm lực tài chính.

PVI được đánh giá là Công ty dẫn đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam trong
lĩnh vực bảo hiểm công nghiệp và trở thành Doanh nghiệp có thị phần bảo hiểm gốc
lớn thứ 2 thị trường. PVI không ngừng tăng trưởng, trong năm 2009 tổng doanh thu
thực hiện đạt 3.006,15 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2008. Vốn điều lệ năm 2009 là
1035,5 tỷ đồng, kế hoạch sẽ tăng lên 2000 tỷ đồng vào năm 2010. Hệ thống kinh
doanh bao gồm 25 công ty thành viên và hơn 150 phòng kinh doanh trên toàn quốc
đảm bảo phục vụ và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt PVI được
Standard&Poor’s – hãng định mức tín nhiệm danh tiếng thế giới lựa chọn vào danh
sách Top 5 cổ phiếu hàng đầu Việt Nam.
Với những nỗ lực tự hoàn thiện không ngừng, thương hiệu PVI đã được biết
đến rộng rãi ở thị trường trong nước và có chỗ đứng nhất định trên thị trường quốc
tế. Năm 2002, Công ty đã được cấp chứng chỉ Quacert ISO 9001:2000 - DNV (Det
Norske Veritas) - Giấy chứng nhận số: HT 409/2.08.32 ngày 22/11/2002. Đặc biệt,
PVI đã vinh dự được chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng ba, vào tháng 9
năm 2005 đã được trao tặng giải thưởng Sao vàng đất Việt và tháng 7/2007 được
nhận Cúp vàng Thương hiệu mạnh. Năm 2006, khi thực hiện bán cổ phần lần đầu, cổ
phiếu PVI đã xác lập kỷ lục là cổ phiếu có giá đấu cao nhất thị trường chứng khoán
Việt Nam. Tháng 10/2007 là một trong 100 đơn vị xuất sắc được tặng giải thưởng
Sao Vàng Đất Việt. Các đồng chí Lãnh đạo PVI được nhận các danh hiệu: Cúp vàng
Doanh nhân Tâm tài, Cúp Doanh nhân Asean, Giải thưởng Doanh nhân tiêu biểu khối
Doanh nghiệp Trung ương, Danh hiệu chiến sỹ thi đua toàn quốc. Đây là minh chứng
cho niềm tin sâu sắc của nhà đầu tư vào thương hiệu mang tên PVI.
Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô (PVI Đông Đô) được thành lập vào
ngày 02/04/2007 theo quyết định số 66/QĐ-PVI, là đơn vị trực thuộc của Công ty cổ
phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam.
Trong suốt quá trình hoạt động và phát triển, PVI Đông Đô đã đóng góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển của Tổng công ty. Hiệu quả hoạt động của Công ty
được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu của toàn Tổng
công ty: doanh thu từ 15,8 tỷ đồng trong năm 2007 tăng lên đến hơn 91 tỷ đồng trong
năm 2009. Cùng như toàn thể công ty, PVI Đông Đô ngày càng hoạt động hiệu quả

và đến nay đã đứng vững trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hiện nay, thị trường Bảo hiểm có xu thế ngày càng sôi động và phức tạp, do
đó Công ty PVI Đông Đô phải luôn nỗ lực phấn đấu, kịp thời nắm bắt tình hình để
giữ được vị thế cạnh tranh trên thị trường.
1.2. Tổ chức bộ máy của Công ty
Ngay khi được cấp phép thành lập và đăng ký kinh doanh, công ty đã nhanh
chóng triển khai phát triển bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh bảo hiểm tại khu
vực Hà Nội và các khu vực lân cận.

×