Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng oda của nhật bản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.59 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 4
Chương I : Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản4
I. Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức 4
1.Khái niệm 4
2.Đặc điểm 4
3.Vai trò của ODA 5
3.1.Đối với nước cung cấp ODA 5
3.2.Đối với nước nhận ODA 5
4.Ưu nhược điểm của ODA 5
4.1. Ưu điểm của ODA 5
4.2. Bất lợi khi nhận ODA 6
II.ODA Nhật Bản 7
1. Vài nét khái quát về ODA Nhật Bản 7
2.Lịch sử hình thành và phát triển của Hỗ trợ phát triển chính thức Nhật
Bản: 9
3.Phân loại ODA Nhật Bản 11
3.1.ODA song phương 11
3.2.ODA đa phương: 14
4.Chính sách ODA Nhật Bản: 14
4.1.Chính sách ODA Nhật Bản trước những năm 90: 14
4.2. Một số thay đổi gần đây về chính sách ODA 19
Chương II :Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam. .21
I. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam 21
1. ODA của Nhật bản với Việt Nam 21
1.1.Giai đoạn 1975-1978: 22
1
1.2. Giai đoạn 1979- 1991 23
1.3.Giai đoạn 1992 đến nay: 23


2. Những thành tựu đạt được từ nguồn ODA của Nhật Bản 26
3. Một số dự án đầu tư nổi bật của Nhật Bản vào Việt Nam: 31
3.1. Cầu Bãi Cháy 31
3.2. Dự án xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất
31
3.3. Hầm qua đèo Hải Vân 32
4.Một số tồn tại trong thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam.
33
4.1.Những tồn tại trong thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt
Nam 33
4.2.Nguyên nhân 35
II.Triển vọng thu hút ODA nhật bản trong thời gian tới 37
Chương III. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng
ODA của Nhật bản ở Việt Nam 39
1. Về cơ chế chính sách: 39
2. Tổ chức thực hiện: 40
3. Về sử dụng ODA 41
KẾT LUẬN 44
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nhật Bản và Việt Nam cùng là các quốc gia nằm trong khu vực Châu á,
có sự gần gũi nhau về mặt địa lý và nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa,
phong tục tập quán vì vậy Nhật Bản và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại
giao từ vài thập kỷ nay. Sự trợ giúp nhiều mặt của Nhật Bản cho Việt Nam, đặc
biệt là Viện trợ phát triển chính thức (ODA) đã đóng góp một phần hết sức quan
trọng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa ở nước ta và mối quan hệ Nhật
Bản- Việt Nam trở nên gắn kết chặt chẽ như hiện nay là nhờ một phần không
nhỏ của nguồn ODA từ Nhật Bản. Hiện nay Nhật Bản không chỉ là một trong
những nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam , mà còn là bạn hàng thương mại
và nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Nhật Bản trong nhiều năm qua luôn giữ vị trí

hàng đầu về cả số vốn cam kết và lượng ODA được giải ngân. ODA nói chung
và ODA Nhật Bản nói riêng đã phát huy tốt vai trò của mình trong trong quá
trình xây dựng và phát triển các quốc gia Đông Nam á trong những thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX.
Đề tài tập trung phân tích chính sách, thực trạng và những thành tựu đạt
được từ việc sử dụng nguồn ODA Nhật Bản và tình hình ODA của Nhật Bản tại
Việt Nam .Từ đó rút ra những bài học trong việc thu hút- sử dụng ODA của
Nhật Bản. Đồng thời dự báo hoạt động ODA của Nhật Bản cho Việt Nam và sau
cùng là đưa ra một số giải pháp đối với Việt Nam để tăng cường thu hút và sử
dụng ODA của Nhật Bản sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Bố cục của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản
Chương II: Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam
ChươngIII: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở
Việt Nam


3
NỘI DUNG
Chương I : Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức của
Nhật Bản
I. Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức
1.Khái niệm
Hỗ trợ phát triển chính thức (tiếng Anh là: Official Development Agency
được gọi tắt là ODA).
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) định nghĩa :ODA là
các nguồn hỗ trợ do các tổ chức Chính Phủ, bao gồm chính quyền địa Phương,
hoặc do các cơ quan thực thi của các tổ chức này hoặc do các tổ chức đa
phương cung cấp cho các nước đang phát triển hoặc các tổ chức đa phương với
các tiêu chí như sau:

-Được thực hiện với mục tiêu chính là khuyến khích phát triển kinh tế và
phúc lợi xã hội tại các nước đang phát triển
-ODA có đặc tính ưu đãi và yếu tố không hoàn lại từ 25% trở lên
2.Đặc điểm
ODA có 3 đặc điểm chủ yếu như sau:
ODA là khoản viện trợ từ một Chính Phủ hoặc một tổ chức quốc tế cung
cấp cho một Chính Phủ hoặc một tổ chức đa phương khác.
ODA chỉ được sử dụng vào các chương trình dự án không sinh lời (hoặc
thu hồi vốn chậm) nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội tại các nước đang phát
triểnvới đối tượng hưởng lợi là các cộng đồng dân cư tại các nước này
ODA là khoản hỗ trợ ưu đãi cho các nước tiếp nhận: Dưới hình thức viện
trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi với các yếu tố không hoàn lại từ 25%
trở lên
4
3.Vai trò của ODA.
3.1.Đối với nước cung cấp ODA.
Nước cung cấp luôn mong muốn rằng nguồn ODA của mình sẽ phát huy
hết hiệu quả vào việc phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội ở các nước đang phát
triển, thu hẹp khoảng cách Bắc-Nam. Bên cạnh đó thì họ cũng thể hiện một mục
tiêu không kém phần quan trọng đó là thông qua hoạt động cung cấp ODA của
họ sẽ mang lại những lợi ích lâu dài cho chính nền kinh tế, chính trị của nước đó
trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, tạo một lượng việc làm khá lớn
cho các công ty trong nước, gây ảnh hưởng đối với nền kinh tế nước nhận ODA,
xây dựng được vị thế của mình trên trường quốc tế Nói tóm lại cung cấp ODA
chính là một công cụ sắc bén để góp phần tạo nên sự ổn định về kinh tế và
chính trị của nước mình.
3.2.Đối với nước nhận ODA.
Từ trước đến nay chúng ta thấy rằng hầu hết các nước được nhận ODA là
các quốc gia đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp, ngân sách gặp
khó khăn, văn hoá xã hội phát triển không đồng đều, kinh nghiệm và kiến thức

quản lý kinh tế xã hội còn hạn chế Một đất nước đang trong hoàn cảnh như vậy
thì ODA đóng vai trò rất lớn trong việc giải quyết những vấn đề khó khăn trên.
ODA góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy kinh tế, phát triển nguồn nhân
lực, cải thiện mức sống của người dân ở nước tiếp nhận, cải thiện và chống ô
nhiễm môi trường. Như vậy đối với những nước đang phát triển ODA góp một
phần quan trọng trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.
4.Ưu nhược điểm của ODA
4.1. Ưu điểm của ODA
• Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm)
• Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải
hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm)
• Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp
nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
5
4.2. Bất lợi khi nhận ODA
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược
như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an
ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính
sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những
mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã
hội trong nước, khu vực và trên thế giới)
• Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng
bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của
nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả
năng sinh lời cao
• Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn

toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như
các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần
trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước
tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án
của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị
trường lao động thế giới).
• Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc
nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch
vụ do họ sản xuất.
• Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng
thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng
6
ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể
tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
• Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải
hoàn lại tăng lên.
• Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch
thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản
lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều
hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư
bằng nguồn vốn này còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình
trạng nợ nần.
II.ODA Nhật Bản.
1. Vài nét khái quát về ODA Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia nằm ở Đông Bắc á, có diện tích khoảng
377.810 km2, dân số 125.700.000 người. Với điều kiện tự nhiên không mấy
thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, hầu hết lượng tài nguyên khoáng
sản sử dụng trong các nghành công nghiệp phải nhập khẩu từ nước ngoài, thêm
vào đó nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau Chiến Tranh thế giới II, nhưng bất

chấp những điều kiện hạn chế này Nhật Bản đã không những có thể xây dựng
lại nền kinh tế của mình mà còn trở thành một trong những quốc gia công
nghiệp hàng đầu trong hệ thống các nước tư bản. Hiện nay Nhật Bản là một
trong 3 trung tâm kinh tế- tài chính lớn nhất thế giới. Tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) của Nhật năm 2001 đạt 4800 tỷ USD, chiếm 19,1% GNP toàn thế giới,
bằng khoảng 70% GNP của Đông á và gấp 10 lần GNP của các nước ASEan.
GNP tính theo đầu người đạt khoảng 39000 USD.
Sau chiến tranh nền kinh tế Nhật bản hồi phục một cách nhanh chóng, tốc
độ phát triển kinh tế hai con số, từ cuối những năm 60 đến đầu 1970 Nhật Bản
đã dẫn đầu các nước tư bản chủ nghĩa về các ngành công nghiệp như là: Điện tử
dân dụng, đóng tầu, luyện thép, chế tạo ô tô, chất bán dẫn, người máy vv Tiếp
7
theo đó Nhật Bản còn tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nghành có hàm lượng
công nghệ cao như: Công nghệ sinh học, điện tử công nghiệp, gốm cao cấp,
nghiên cứu đại dương vv Nhờ sự gia tăng nhanh chóng của tổng sản phẩm kinh
tế quốc dân đến đầu thập kỷ 80 Nhật Bản đã đứng thứ hai chỉ sau Mỹ trong số
các nền kinh tế thị trường, kim nghạch xuất khẩu tăng liên tục, cán cân thanh
toán dư thừa, nền kinh tế phát triển phồn vinh. Nhưng hàng năm Nhật phải nhập
khẩu một lượng rất lớn khoáng sản đặc biệt là dầu mỏ do vậy nền kinh tế Nhật
phụ thuộc sâu sắc vào nền kinh tế nước ngoài.
Nhật Bản hiện nay là chủ nợ lớn nhất thế giới, các nước Đông Nam á nợ
Nhật 183 tỷ USD, Nhật có lượng dự trữ ngoại tệ lớn khoảng 220 tỷ USD.Thị
trường chứng khoán Tokyo là một trong 3 thị trường chứng khoán lớn nhất thế
giới cùng với New York và London.
Mục đích viện trợ của ODA Nhật Bản nhìn chung cũng giống như các
nhà tài trợ khác đó là giúp các nước đang phát triển giải quyết những vấn đề khó
khăn mà họ vấp phải như: nghèo đói, giáo dục, phát triển công nghiệp và những
vấn đề thuộc môi trường. Trên cơ sở xác định ý tưởng đó, ODA song phương
của Nhật Bản có 3 đặc điểm sau
Thứ nhất, ODA của Nhật Bản dành cho viện trợ kinh tế tùy thuộc vào

tình hình phát triển của từng nước nhận viện trợ. Các nước đang phát triển rất đa
dạng, mỗi nước đều có lịch sử và văn hóa riêng của chính đất nước họ. Bối cảnh
phát triển của nước này cũng rất khác nhau. Vào những giai đoạn đầu của phát
triển kinh tế, giải quyết đói nghèo là vấn đề được ưu tiên, và khi phát triển kinh
tế đã đến mức tiên tiến thì việc cải cách những biến dạng của tăng trưởng kinh tế
lại trở thành vấn đề mới mẻ. Theo cách này có rất nhiều vấn đề khác nhau. Vì
vậy, viện trợ kinh tế đòi hỏi phải có những biện pháp khác nhau để giải quyết
những vấn đề này. Nhật Bản thường tăng tỷ phần của viện trợ không hoàn lại
cho các nước nhận viện trợ vào những giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi
quá trình phát triển của các nước này tiến bộ, Nhật Bản sẽ giới hạn viện trợ của
8
họ cho những lĩnh vực được xác định, trong khi tiếp tục tăng vai trò của khu vực
tư nhân.
Thứ hai, ODA của Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến
khích viện trợ kinh tế thông qua khu vực tư nhân bằng cách hợp tác với các hình
thức viện trợ tương tự như vậy, bao gồm đầu tư trực tiếp của tư nhân dựa trên cơ
sở các nguồn chính thức khác, bảo hiểm thương mại và viện trợ thông qua
thương mại. Các hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân cũng đóng góp vàp sự
tăng trưởng kinh tế độc lập của các nước đang phát triển.
Thứ ba, ODA của Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong phát triển xã
hội (bảo hiểm , y tế, giáo dục ) bổ sung cho phát triển kinh tế. Điều này nhằm
giải đáp những lo ngại cho rằng chỉ tập trung vào phát triển kinh tế sẽ làm nảy
sinh rất nhiều vấn đề bao gồm cả sự bất bình đẳng về thu nhập, sự khác biệt về
khu vực trong phạm vi từng nước đang phát triển. Đặc biệt trong những năm
trước, sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội ngày càng đặt
nhiều hy vọng vào các chương trình viện trợ của Nhật Bản.
2.Lịch sử hình thành và phát triển của Hỗ trợ phát triển chính thức Nhật
Bản:
Hiện nay Nhật Bản được biết đến là một cường quốc về kinh tế, tài chính
trên thế giới. Để có được vị trí như ngày nay đất nước mặt trời mọc đã trải qua

rất nhiều giai đoạn lịch sử đáng ghi nhớ. Chúng ta biết rằng Nhật là một nước rất
nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên, lại là nước thất bại trong chiến tranh thế
giới thứ II.Vậy mà sau thế chiến II, Nhật đã tự mình tìm ra những hướng đi thích
hợp để khôi phục và phát triển đất nước một cách ổn định và vững chắc.
Thật vậy sau chiến tranh nền kinh tế Nhật thiệt hại rất nặng nề, do đó từ
năm 1945- 1954 Nhật phải nhận viện trợ từ Mỹ và Ngân hàng thế giới để khôi
phục đất nước, song cho đến 1954 Nhật bản đã bắt đầu thực hiện chương trình
viện trợ phát triển chính thức đối với các nước đang phát triển ở Châu á sau khi
tham gia kế hoạch Colombo năm 1954.Từ đó cho đến nay thì quá trình viện trợ
của Nhật được phân ra làm 4 giai đoạn chính.
9
-Giai đoạn 1: Từ 1954-1963: Thời kỳ này Nhật cung cấp viện trợ cho các
nước Đông Nam á thông qua các khoản bồi thường chiến tranh đến Inđônêxia,
philippin, Myanma, miền Nam Việt Nam. Ngoài ra Nhật Bản còn thực hiện viện
trợ không hoàn lại cho Lào, Campuchia, Myanma.
-Giai đoạn2: Từ năm 1964-1976: Nhật Bản tiến hành mở rộng và đa dạng
hóa các khoản viện trợ cả về khối lượng lẫn hình thức viện trợ.Trong giai đoạn
này Nhật tham gia vào OECD, Ngân hàng phát triển liên Mỹ; thành lập cơ quan
hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); Nhật bắt đầu một loạt các hình thức viện trợ
mới như là:cung cấp tín dựng ưu đãi, cung cấp trang thiết bị, cử tình nguyện
viên, hỗ trợ lương thực, đào tạo tại nước thứ 3, viện trợ không hoàn lại cho các
hoạt động văn hóa
-Giai đoạn 3: Từ 1977-1988. Là thời kỳ viện trợ được hệ thống hóa bằng
những kế hoạch trung hạn cụ thể là: cung cấp 2 gói tín dụng ODA cho Trung
Quốc; tham gia Ngân Hàng phát triển Châu Phi; bắt đầu cung cấp các khoản tín
dụng điều chỉnh cơ cấu qua WB; công bố kế hoạch hợp tác của mình
-Giai đoạn 4:Từ 1989 đến nay: Đây là giai đoạn Nhật bản đứng vị trí hàng
đầu trong những nước cung cấp ODA trên thế giới, Nhật Bản lập quĩ nghiên cứu
cao cấp về Phát triển quốc tế (FASID), trả hết nợ cho WB
ODA là hoạt động mang lại lợi ích cho cả nước cho và nước nhận.Cho

nên ngay từ tháng 19/12/1952 sau khi Yoshida lên cầm quyền ông đã xác định
tập trung hồi phục kinh tế đất nước dựa trên cơ sở thúc đẩy hợp tác kinh tế với
Mỹ và xúc tiến quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam á, mở đầu Nhật tiến
hành xây dựng chương trình bồi thường chiến tranh cho các nước Đông Nam á,
đây chính là bước đột phá đầu tiên để khai thông chính sách ngoại giao với khu
vực này.ODA Nhật Bản lúc giai đoạn đầu vào Đông Nam á không thu được lợi
ích kinh tế thuần tuý trực tiếp mà lại là gián tiếp và thường là lâu dài về sau.
Nhật coi ODA là 1 công cụ rất quan trọng để Nhật có được "Chiếc chìa khóa
vàng" mở cửa vào các thị trường thương mại đầu tư ở các nước này.Cho nên
10
trong thời gian đầu, hoạt động cung cấp ODA của Nhật bản chỉ tập trung vào
khu vực Châu á, hoạt động này luôn tuân thủ 2 nguyên tắc:
-Duy trì sự ổn định về chính trị và xã hội ở nước tiếp nhận.
-Không nhằm giúp cho việc tăng cường quân sự hoặc cho mục đích quân
sự hoặc cho những nước có chiến tranh.
Còn giai đoạn từ 1989 cho đến nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn nhất
thế giới, hỗ trợ phát triển chính thức của họ tăng không ngừng, từ 1989-1997
trong danh sách 7 nước cung cấp ODA chủ yếu trên thế giới thì Nhật Bản luôn ở
vị trí số 1 (Bảy nước là: Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Canada và Italia).Hoạt
động cung cấp ODA của họ không chỉ giới hạn trong pham vi Châu á như trước
kia mà họ đã tiến hành mở rộng sang các khu vực khác như: Châu phi, Trung
đông, Trung và Nam Mỹ, Châu âu và châu Đại dương. Cùng với mở rộng về
khu vực thì khối lượng ODA cũng tăng lên.
3.Phân loại ODA Nhật Bản
Từ trước đến nay hoạt động hỗ trợ và phát triển chính thức được thực hiện
dưới 2 hình thức chủ yếu đó là song phương và đa phương.
3.1.ODA song phương.
Bao gồm các hoạt động hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ Nhật Bản cho Chính
phủ nước tiếp nhận ODA. ODA song phương được chia làm 2 loại đó là: ODA
không hoàn lại và ODA tín dụng.

♦ODA không hoàn lại: Hầu hết các hoạt động của ODA không hoàn lại
được Chính phủ Nhật Bản thực hiện thông qua cơ quan hợp tác quốc tế Nhật
bản viết tắt là JICA (Japan International Cooperation Agency), gồm có Viện trợ
chung và hợp tác kỹ thuật.
-Viện trợ chung là khoản hỗ trợ tài chính không yêu cầu hoàn trả
của Nhật Bản cho một nước đang phát triển nhằm thực hiện các dự án
phát triển kinh tế và xã hội.Viện trợ không hoàn lại chung là một yếu tố
quan trọng của ODA Nhật Bản. Đây là loại hỗ trợ có chất lượng cao
11
nhất. Chất lượng của viện trợ thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng của
viện trợ. Hình thức này bao gồm hoạt động cấp hỗ trợ tài chính cho các
hình thức như: Các dự án chung; các hoạt động văn hóa; cứu trợ khẩn
cấp và giảm nhẹ thiên tai; hỗ trợ lương thực và tăng khả năng sản xuất
lương thực; phát triển nghành thuỷ sản
-Hợp tác kỹ thuật của Chính Phủ Nhật Bản bao gồm các hình thức như
sau:
+Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ của nước tiếp nhận ODA, tổ
chức đào tạo tại Nhật Bản hoặc một nước thứ 3.
+Cử chuyên gia Nhật Bản hoặc chuyên gia của một nước thứ 3
sang công tác tại nước tiếp nhận với mục tiêu chuyển giao công nghệ và kiến
thức của chuyên gia tới các cán bộ của nước tiếp nhận ODA.
+Cung cấp trang thiết bị nhằm tạo thuận lợi cho việc chuyển giao
và phổ biến công nghệ, đào tạo cán bộ
+Cử các thanh niên Nhật Bản sang các nước đang phát triển trong
thời gian 2 năm nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước,
đào tạo nguồn nhân lực của nước tiếp nhận. Ngoài ra còn nhằm mục đích là để
tăng cường và thiết lập mối quan hệ hiểu biết sâu sắc lẫn nhau, xây dựng tình
hữu nghị lâu dài giữa 2 quốc gia.
+Hợp tác kỹ thuật kiểu dự án: Là sự phối hợp 3 hình thức kỹ thuật
trọn gói: Đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản; cử chuyên gia; cung cấp máy móc thiết

bị.Những dự án dạng này thường được thực hiện trong khoảng thời gian từ 3
đến 5 năm, qua đó các kiến thức chuyên môn của Nhật bản được áp dụng và
chuyển giao cho đối tác tại nước tiếp nhận, nhờ đó mà các kiến thức này được
áp dụng và biết đến rất rộng rãi sau khi dự án kết thúc.
+Nghiên cứu phát triển: Là hình thức Chính phủ Nhật Bản cử các
đoàn khảo sát nghiên cứu phối hợp làm việc với các cơ quan liên quan của nước
tiếp nhận chuẩn bị các qui hoạch tổng thể, báo cáo khả thi hoặc thiết kế chi tiết
12
(D/D) nhằm hỗ trợ cho nước này hoạch định các dự án cần được ưu tiên thực
hiện trước.
♦Tín dụng ODA: Là khoản tín dụng trực tiếp của Chính phủ Nhật Bản
dành cho nước tiếp nhận để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội. Tín
đụng ODA của Nhật bản có tính chất ưu đãi với lãi xuất thấp, ân hạn và thời
gian hoàn trả dài, yếu tố không hoàn lại chiếm khoảng 50% đến 65% giá trị
khoản vay, lãi xuất này tăng giảm tuỳ theo đối tượng tiếp nhận, tuy nhiên lãi
xuất này phù hợp với các tiêu chuẩn của Uỷ Ban hỗ trợ phát triển (DAC) và
OECD.Hiện nay thì việc cung cấp tín dụng của Nhật Bản được thực hiện thông
qua Ngân Hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC- Japan for Bank International
Cooperation)
Tín dụng ODA của Nhật Bản được chia thành 2 nhóm chính đó là: Tín
dụng và tín dụng dự án.
-Tín dụng dự án gồm có 3 dạng như sau:
+Tín dụng dự án thông thường: Là một dạng tín dụng ODA cơ
bản được cung cấp với mục đích mua sắm thiết bị, máy móc, xây dựng
các công trình, mở các trung tâm dịch vụ tư vấn và các nhu cầu khác đối
với dự án.
+Tín dụng thiết kế dự án (E/S): Là khoản tín dụng được cung
cấp để tiến hành các dịch vụ cần thiết trước khi thực hiện dự án ví dụ như:
Công tác lập dự án, công tác chuẩn bị đấu thầu
+Tín dụng 2 bước (STL): Là khoản tín dụng được thực hiện

qua một tổ chức tài chính gián tiếp taị nước tiếp nhận với đối tượng thụ
hưởng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các lĩnh vực công nghiệp chế
tạo và nông nghiệp.
-Tín dụng ODA phi dự án bao gồm:
+Tín dụng hàng hóa được cấp cho các nước đang phát triển, các
nước này muốn nhập khẩu hàng hóa nhưng không có tiền, nhờ hình thức này
nước nhận có thể ổn định và phát triển kinh tế trước mắt.
13
+Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAL) được cung cấp để các nước
đang phát triển tiến hành cải cách toàn bộ nền kinh tế
+Tín dụng ngành là tín dụng hàng hóa hỗ trợ phát triển một nghành
cụ thể của nước tiếp nhận.
3.2.ODA đa phương:
Là hình thức đóng góp tài chính hoặc ký thuật của Chính phủ Nhật Bản cho
các tổ chức quốc tế đa phương như: UNDP, UNFPA, UNCTAD, DAC,
OECD và các tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB tất cả đều nhằm mục
tiêu góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển và ổn định tại các nước đang phát
triển. Đóng góp cho các tổ chức đa phương thường được thực hiện dưới dạng
hợp tác kỹ thuật , còn đóng góp cho các tổ chức tài chính quốc tế bằng tài chính.
4.Chính sách ODA Nhật Bản:
4.1.Chính sách ODA Nhật Bản trước những năm 90:
4.1.1. Chính sách ưu tiên cung cấp theo khu vực địa lý:
Nhật Bản và Châu á có sự gần gũi về địa lý cũng như văn hóa, tôn giáo,
phong tục do vậy kể từ khi bắt đầu hoạt động cung cấp ODA cho đến những
năm đầu thập kỷ 70 Châu á luôn chiếm 90% thậm chí có thời điểm 100% lượng
ODA của Nhật, trong đó thì khu vực Asean chiếm từ 30%-50%. Châu á luôn là
khu vực nhận được ODA của Nhật Bản với tỷ lệ cao nhất
Khi chuyển sang giai đoạn 1977-1988 Nhật Bản có sự thay đổi về chính
sách mở rộng sang các khu vực khác một phần là do sự phản đối Nhật Bản diễn
ra ở một số nước trong khu vực Châu á. Cho nên lượng ODA cho Châu á giảm

xuống 65.1% trong năm 1988 nhưng khu vực Asean vẫn chiếm 30% tổng ODA
dành cho Châu á, như vậy tuy giảm về tỷ lệ xong khối lượng vẫn tăng đều.
Giai đoạn 1989-2002 Nhật Bản vẫn duy trì là nhà tài trợ số 1 của thế giới,
Nhật tiếp tục mở rộng khu vực cung cấp ODA cho nên tỷ lệ ODA cho Châu á
còn 59,3% và ODA dành cho Asean có sự thay đổi về hình thức, tức là giai đoạn
trước ODA chủ yếu là hình thức viện trợ thì nay chuyển sang hình thức cung
14
cấp tín dụng với lãi suất thấp. Tỷ lệ ODA giảm nhưng lượng không giảm, chúng
ta có thể tìm hiểu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
Ta biết rằng sau một thời gian dài viện trợ cho Đông Nam á thì hàng hóa
Nhật Bản tràn ngập thị trường các nước này tạo nên làn sóng phản đối mạnh mẽ
tại các quốc gia nhận.Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973
cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Nhật bản (Nhật Bản là một nước phải
nhập khẩu 100% lượng dầu mỏ). Đứng trước tình hình như vậy nước này đã tìm
hướng và thiết lập quan hệ ngoại giao với các khu vực khác.
Sang giai đoạn 1977-1988 Nhật càng mở rộng hơn nữa mối quan hệ của
mình, để tăng cường ảnh hưởng của mình Nhật đã hệ thống hóa qua các kế
hoạch trung hạn cho việc tăng cường viện trợ đến Châu Phi, Châu Mỹ, Trung
Đông
Một điều đặc biệt là vào năm 1990 có sự thay đổi về kinh tế ở các nước
Đông Nam á, Hàn quốc đã chuyển từ nước nhận ODA sang nước cung cấp, các
nước Asean phát triển khá mạnh sắp đuổi kịp các nước công nghiệp mới.Trước
tình hình này Chính phủ Nhật bản cho rằng khi nước tiếp nhận ODA đã phát
triển rồi thì ODA sẽ cắt giảm để tập trung vào phát triển quan hệ thương mại.
Do đó ODA cho các nước này phần lớn chỉ còn dưới dạng cho vay và hỗ trợ kỹ
thuật.
Trong thời gian gần đây nền kinh tế Nhật gặp nhiều khó khăn nên tổng
ODA của Nhật đã giảm đi, đây là lý do rất chính đáng, nhưng việc cắt giảm này
cũng làm ảnh hưởng đến một số nước nhận ODA Nhật Bản.
Tóm lại Nhật Bản luôn dành cho ASEAN những ưu tiên trong cung cấp

ODA cũng là điều dễ hiểu như đã nêu ở trên, ngoài ra mục đích của Nhật Bản
còn để thu hẹp khoảng cách Bắc-Nam và khai thác thị trường nguyên liệu rẻ,
phong phú, nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu dùng dễ tính của
Asean Theo xu thế quốc tế hóa để duy trì vị trí là một trung tâm kinh tế- tài
chính của thế giới đòi hỏi Nhật phải tạo cho mình một thị trường tiêu thụ ổn
định, Châu á nói chung và Asean nói riêng chính là mục tiêu của Nhật Bản. Như
15
vậy một Châu á phát triển lành mạnh và ổn định sẽ là thị trường lớn cho hàng
hóa của Nhật Bản.
Biểu1: Vốn ODA Nhật Bản cho ASEAN 10 vay đến 1998
Đơn vị: Tỷ yên
Nước Vốn vay Viện trợ
Hợp tác công
nghệ
Tổng cộng
Inđônêxia 3.432,3 189,7 207,4 3.829,4
Philippin 1.772,6 211,6 129,6 2.113,8
Thái Lan 1.665,4 161,4 161,8 1.988,6
Malaysia 754,0 11,9 83,3 849,2
Việt Nam 520,2 77,3 22,1 619,6
Myanma 405,5 159,3 19,1 583,6
Lào 9,1 66,3 18,1 93,5
Campuchia 2,3 54,7 13,1 70,1
Xingapo 12,7 3,1 21,4 37,2
Brunây 0,0 0,0 39,3 39,3
(Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản)
4.1.2.Chính sách ưu tiên theo lĩnh vực:
ODA của Nhật Bản tập trung ưu tiên vào các lĩnh vực như là: Giao thông
vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục Thúc đẩy nâng cao kỹ thuật và năng suất các
ngành nông- lâm- ngư nghiệp

♦Ngành nông nghiệp:ODA nhằm giữ vững sự ổn định về cung cấp lương
thực, thực phẩm cho người dân nước sở tại và đặc biệt chú ý tăng sản phẩm gia
súc, gia cầm. Đối với các nước đang phát triển thì nông nghiệp được coi là một
"ngành công nghiệp chính" vì thế việc thực hiện ổn định lương thực, thực phẩm
được các nước cung cấp ODA coi như một tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá sự ổn
định về tăng trưởng kinh tế. Do đó ODA Nhật Bản cũng nhằm thúc đẩy nông
nghiệp và coi đó là một lĩnh vực ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế.
Khoản ODA cho lĩnh vực này thường chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng ODA
được cung cấp. Ví dụ năm 1993 ODA dành cho nông nghiệp chiếm 8,1%. Trong
các nước ASEAN thì Inđônêxia là nước nhận nhiều nhất ODA Nhật Bản ở lĩnh
16
vực nông nghiệp, mà chủ yếu là hỗ trợ cho trang trại chăn nuôi, phát triển nông
nghiệp và xây dựng các làng trồng trọt
Đây là ngành trụ cột ở hầu hết các nước đang phát triển, đặc biệt là trong các
nước Asean phần đông dân số vẫn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát
triển nông nghiệp góp phần rất quan trọng cho việc ổn định an ninh lương thực,
thực phẩm ở nước tiếp nhận. Đây chính là tiêu chuẩn chủ đạo để đánh giá sự ổn
định về tăng ttrưởng kinh tế cho một nước. ODA của Nhật Bản cho lĩnh vực này
thường được thực hiện bằng viện trợ không hoàn lại và viện trợ tín dụng.
♦Lĩnh vực y tế: ODA sử dụng nhằm nâng cao sức khỏe của người dân, hỗ
trợ xây dựng, nâng cấp bệnh viện, cung cấp máy móc y tế hiện đại Thường ở
dạng viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật. Năm 1993 Nhật bản dành 14%
tổng ODA cho y tế, trong đó 53,6% của số viện trợ này đưa vào Châu á. Ngoài
ra Nhật Bản còn đóng góp vào các tổ chức quốc tế cho phong trào chống AIDS
của toàn thế giới.
♦Giáo dục: Đây là lĩnh vực được các nước thực hiện ODA quan tâm và
được coi như là phương tiện để thúc đẩy sự phát triển xã hội và nền kinh tế của
nước nhận tài trợ. ở lĩnh vực này Nhật Bản thường thực hiện nhiều khoản viện
trợ không hoàn lại. Ví dụ trong thời gian 1989-1993, ODA Nhật Bản đã giúp
xây dựng 380 trường tiểu học và trung học Đồng thời ODA Nhật còn chú ý

vào dạng viện trợ hợp tác kỹ thuật để trang bị cho trường học. Ngoài ra Chính
phủ Nhật Bản còn hỗ trợ các tổ chức phi Chính phủ của Nhật trong việc thực
hiện các dự án xây dựng trường học cho các nước nhận ODA.
♦Lĩnh vực năng lượng: Nhật Bản chú trọng vào xây dựng các nhà máy
điện, công nghệ sản xuất dầu, vì thế ODA của họ thường tập trung vào qui trình
công nghệ tiết kiệm năng lượng và giúp các nước nhận ODA sử dụng năng
lượng có hiệu quả hơn. Hơn nữa cũng phải ghi nhận kỹ thuật công nghệ làm
giảm bớt sự ô nhiễm môi trường của Nhật Bản. ODA dành cho khu vực này từ
1989- 1993 chiếm khoảng 17% trong tổng số các khoản viện trợ và thường là
viện trợ tín dụng. Ví dụ trong năm 1993 tổng ODA cho vay dành cho năng
17
lượng là 297,551 tỷ yên chi cho 23 dự án của 9 nước là ấn Độ, Việt Nam,
Inđônêxia, Thái Lan, Bangladesh, Malaysia, Trung Quốc, Sri Lan ca và Iran.
♦Giao thông vận tải: Nhật Bản quan tâm khá nhiều đến lĩnh vực này,
dành 20% lượng ODA cho giao thông vận tải. Phần lớn ngân sách ODA dành
cho GTVT là cho vay vì nói chung đều là những dự án được thực hiện ở Châu á
(chiếm khoảng 98% trên tổng số ODA dành cho GTVT), trong đó chủ yếu cho
các nước ASEAN. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng có thực hiện viện trợ không hoàn
lại và viện trợ hợp tác kỹ thuật cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó ODA Nhật Bản
còn quan tâm đến việc giúp đỡ để đào tạo cán bộ kỹ thuật có chuyên môn trong
việc quản lý và điều hành hệ thống giao thông vận tải.
♦Truyền thông và viễn thông, ODA Nhật Bản đã tỏ rõ sự quan tâm đặc
biệt tới lĩnh vực này, do đặc điểm của thông tin truyền thông có hiệu quả tác
động rất lớn tới công nghiệp, thương nghiệp, quản lý nhà nước, giáo dục, văn
hóa và nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội vì thế Nhật Bản đã đưa vào Châu
á từ năm 1989- 1993 là 78,4% vốn ODA cho vay trong tổng số ODA cho lĩnh
vực truyền thông và viễn thông, 50% hệ thống vi sóng phủ 2500km ở Inđônêxia
và 76% hệ thống này ở Jakarta được xây dựng từ nguồn ODA của Nhật Bản.
Các khoản viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực này thường được đưa đến
những vùng hẻo lánh để xây dựng cơ sở vật chất. Còn phần viện trợ hợp tác kỹ

thuật được dùng vào việc nhận người đến đào tạo tay nghề tại Nhật Bản. Về lâu
dài ở lĩnh vực này Nhật Bản muốn tăng cường hợp tác với các nước nhận tài trợ
để đào tạo những cán bộ kỹ thuật có trình độ hiểu biết và quản lý được hệ thống
truyền thông hiện đại để thực hiện các cuộc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật mới.
Biểu2:Vốn vay ODA của Nhật Bản cho bốn nước thành viên ASEAN
tới 1998
18
Đơn vị: tỷ yên
Lĩnh vực Inđônêxia Philippin Thái Lan Malaysia Tổng
Giao thông 725,2 542,8 681,0 129,4 2.078,4
Năng lượng 616,5 244,7 296,3 372,4 1.529,9
Viễn thông 148,1 50,4 102,8 13,4 314,7
Công nghiệp 110,8 91,8 112,7 75,6 390,9
Nông nghiệp 408,5 138,2 164,8 0,0 711,5
Nghành khác 1.664,6 716,1 326,3 157,3 2.864,3
Tổng 3.673,7 1.784,0 1.683,9 748,1 7.889,7
( Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản- 2000)
4.2. Một số thay đổi gần đây về chính sách ODA.
4.2.1. ODA Nhật Bản từ vai trò kinh tế chuyển sang vai trò kinh tế chính trị:
ODA của Nhật Bản đã bước vào một thời kỳ mới, chính sách ODA của
Nhật Bản đã nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho
đến tận giữa những năm 1980, nhưng hiện nay mục tiêu và vai trò của nó đã
được mở rộng hơn. Trong những năm 80, nền kinh tế Nhật Bản có được khoản
thặng dư về tài khoản hiện hành khổng lồ và Nhật Bản bị đòi hỏi phải chuyển
các khoản thặng dư này trở lại cho các nước đang phát triển. Cũng gần như cùng
thời gian đó, vấn đề nợ lũy tiến đã nổi lên chủ yếu ở các nước Mỹ La Tinh. Toàn
bộ hệ thống tài chính quốc tế sẽ bị đe dọa nếu như cộng đồng thế giới ở vào tình
trạng phải đương đầu xử trí một cách thích đáng đối với cuộc khủng hoảng nợ
này. Với tình hình tài chính như vậy, việc tái chu chuyển lượng tiền mặt tới các
nước đang phát triển của Nhật Bản thực chất là sự cung cấp hàng hóa cho cộng

đồng quốc tế, có nghĩa là làm ổn định hệ thống tài chính quốc tế.
Liên quan đến vấn đề trên Nhật Bản đã quyết định sẽ tăng những đóng
góp của họ đối với các tổ chức tài chính đa phương và các tổ chức tài chính
cùng với viện trợ của Nhật Bản hoặc các khoản cho vay và trợ cấp tương ứng.
Trong giai đoạn này, chính sách viện trợ của Nhật Bản đã có một sự thay đổi
đáng kể, nó bao gồm những mục tiêu và qui mô rộng lớn hơn, nhấn mạnh một
cách rõ ràng vai trò toàn cầu và quốc tế của Nhật Bản. Do tác động của cuộc
chiến tranh vùng Vịnh nổ ra ở Trung Đông vào 1990, chính sách viện trợ của
19
Nhật Bản đã phát triển xa hơn những nguyên tắc cơ bản của nó, có tính đến cả
các nền kinh tế chính trị. Hiến chương về viện trợ phát triển chính thức được
hình thành từ tháng 6/1992 đã khẳng định, về mặt nguyên lý của nó, không chỉ
nhằm vào các mục tiêu kinh tế mà còn nỗ lực nhằm tạo ra một xã hội đảm bảo
tự do, quyền con người và nền dân chủ là những điều kiện tiên quyết. Về những
nguyên tắc của viện trợ phát triển chính thức, bản Hiến chương cũng đã trích
dẫn bốn điểm sau đây:
• Sự tương ứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
• Không sử dụng quĩ viện trợ phục vụ cho các mục đích quân sự hoặc
khuyến khích các cuộc xung đột quốc tế
• Quan tâm thích đáng tới những xu hướng trong chi tiêu về mặt
quân sự, phát triển hoặc chế tạo vũ khí phá hủy lớn, nhập khẩu và
xuất khẩu vũ khí ở các nước nhận viện trợ.
• Quan tâm thích đáng tới việc khuyến khích dân chủ hóa, những nỗ
lực nhằm thực hiện một nền kinh tế hướng vào thị trường, và duy
trì các quyền con người cơ bản tự do.
4.2.2.Điều chỉnh chính sách ODA trước những thay đổi trong nền kinh tế của
Nhật Bản:
Trong những năm gần đây nền kinh tế Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn,
hiện tượng suy thoái kéo dài, vì vậy đã có ảnh hưởng đến chính sách viện trợ
ODA của Nhật Bản. Một loạt các biện pháp khuyến khích kinh tế dựa trên cơ sở

những chi tiêu về tài chính và suy thoái kinh tế kéo dài làm cho thâm hụt ngân
sách tăng lên một cách nhanh chóng. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP danh
nghĩa đã vượt quá con số 6%, các khoản nợ trong và ngoài nước so với GDP
danh nghĩa đạt tới 90%, đây là con số cao nhất trong các nước phát triển. Vì vậy,
Chính phủ Nhật Bản đã quyết định cắt giảm 10% tổng nguồn ODA của mình
trong năm tài khóa 2003. Những thay đổi quan trọng tập trung vào tín dụng
ODA. JBIC đã đưa ra chính sách trung hạn trong cung cấp ODA cho các nước
đang phát triển đặc biệt là các nước trong ASEAN với một số nội dung chính
như sau:
20
* Các mục tiêu trọng tâm của ODA Nhật Bản.
- Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế.Về lĩnh vực này quan tâm đến
những vấn đề sau:
• Hỗ trợ cho lĩnh vực tài chính và tài khóa.
• Thúc đẩy công nghiệp và thương mại quốc tế.
• Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và quản lý
• Hỗ trợ cho việc gia nhập WTO.
-Xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng cho các lĩnh vực: Điện năng, giao thông
vận tải và viễn thông
• Tập trung ưu tiên cho việc xây dựng các kế hoạch phát triển các nhà máy
điện, cải tiến mạng lưới truyền tải và phân phối điện.
• Hỗ trợ xây dựng hệ thống giao thông vận tải.
• Ưu tiên phát triển hệ thống mạng lưới thông tin và công nghệ viễn thông
c.Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
• Giáo dục sức khỏe và dịch vụ y tế.Trong lĩnh vực giáo dục, tập trung vào
giáo dục tiểu học. Tiếp tục đa dạng hóa hợp tác trong việc chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, cải tiến phương pháp chữa bệnh.
• Bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực này ưu tiên theo các hướng sau:
 Bảo vệ môi trường tự nhiên đặc biệt là bảo vệ rừng.
 Bảo vệ môi trường ở đô thị.

Chương II :Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam
I. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam.
1. ODA của Nhật bản với Việt Nam.
Việt Nam và Nhật Bản chính thức lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973;
Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa
Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang
giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị,
giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ
ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên.
21
Nhật Bản bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam vào năm 1975. Tuy nhiên
trước 1975 chính phủ Nhật bản cũng đã cung cấp tín dụng ODA cho chính
quyền Sài Gòn với khối lượng rất nhỏ bên cạnh khoản bồi thường chiến tranh trị
giá 13 tỷ Yên. Sau một thời gian dài thực hiện chính sách "đóng băng" đến 1992
Nhật Bản nối lại hoàn toàn viện trợ cho Việt Nam, ODA của Nhật Bản tăng dần
và hiện nay đang đứng đầu các nhà tài trợ cho Việt Nam kể từ 1995.
1.1.Giai đoạn 1975-1978:
Trong giai đoạn này hoạt động ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam
chỉ gồm các khoản viện trợ không hoàn lại dưới dạng máy móc, thiết bị, vật tư,
hàng hóa.
Trong hai năm 1975-1976, chính phủ Nhật Bản quyết định cung cấp viện
trợ không hoàn lại đầu tiên cho Việt Nam thông qua việc cung cấp máy đào,
xúc, san nền trị giá 8,5 tỷ yên. Sang năm 1976, Nhật Bản tiếp tục tài trợ không
hoàn lại cho Việt Nam 5 tỷ yên dưới hình thức cung cấp thiết bị và nguyên liệu
cho một nhà máy sản xuất xi măng có tổng trị giá là 5 tỷ yên. Tổng số 13,5 tỷ
yên này là không lớn và theo các nhà nghiên cứu khoản viện trợ này chính là
khoản bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, mà có lẽ nó phải được thực hiện
trước đó rất lâu. Mặc dù khi các nhà kinh tế đưa ra những nhận định như trên
Chính phủ Nhật Bản không chính thức thừa nhận như vậy. Song điều quan trọng
hơn cả là chương trình tài trợ trong hai năm 1975-1976 đã có ý nghĩa như là

điểm mốc đánh dấu sự khởi đầu cho mối quan hệ Nhật- Việt.
Tháng 4/ 1978, Chính phủ Nhật Bản tài trợ không hoàn lại số thiết bị và
hàng hóa (sợi bông, sợi tổng hợp, thiết bị phân phối điện) trị giá 4 tỷ yên cho
Chính phủ Việt Nam. Đồng thời Nhật Bản muốn gắn trách nhiệm hoàn trả 15,5
tỷ yên mà chính quyền Sài Gòn vay trước đó cho Chính phủ Việt Nam. Sau hai
năm thương lượng, bàn cãi, cuối cùng hai nước cũng đã đạt đến một thoả thuận,
ký kết một ghi nhớ về "hoàn trả tín dụng và nợ". Sau khi bản ghi nhớ này được
ký kết tình hình diễn ra rất thuận lợi. Tháng 7/1978 một khoản tín dụng hàng
hóa 10 tỷ yên cho Chính Phủ Việt Nam đã được thực hiện dưới dạng phân bón,
22
sợi, thiết bị điện tử, dụng cụ sản xuất, thuốc, xi măng, hóa chất và cao su.Thế
nhưng việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh xóa
bỏ chế độ diệt chủng Pônpốt là lý do trì hoãn việc cung cấp ODA của Nhật Bản
cho Việt Nam.
Biểu 12:ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam giai đoạn 1975-1978:
Đơn vị: tỷ yên
Năm Tài trợ không hoàn lại Tài trợ tín dụng
1975 8,5 0
1976 5 0
1977 0 0
1978 4 10
( Nguồn: Japan Annual Report : 1978)
Như vậy trong 4 năm tổng ODA Nhật Bản cho Việt Nam chỉ đạt 27,5 tỷ
yên, con số này rất thấp so với 3 nước đã nêu trên. Điều này chứng tỏ giai đoạn
đầu cung cấp ODA cho Việt Nam, Nhật Bản rất "dè chừng" có rất nhiều lý do
giải thích nhưng lý do khách quan nhất là bởi vì Việt Nam vừa mới thống nhất,
nền kinh tế còn nghèo nàn, Nhật bản chưa rõ hướng đi của Việt Nam, vì vậy
Nhật Bản chưa tin tưởng vào sức phát triển của Việt Nam trong tương lai.
1.2. Giai đoạn 1979- 1991.
Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách "đóng băng" hoạt động cung cấp

ODA cho Việt Nam. Tuy nhiên trong suốt giai đoạn này, Nhật Bản vẫn duy trì
cung cấp cho Việt Nam thông qua các khoản viện trợ nhân đạo với khối lượng rất
nhỏ. Thực chất các khoản viện trợ nhân đạo này mang tính chất "duy trì" các quan
hệ ngoại giao nhiều hơn. Dẫu sao thì các khoản viện trợ nhân đạo và việc duy trì
các cuộc tiếp xúc ngoại giao giữa hai nước trong suốt hơn một thập kỷ trước khi
nối lại viện trợ ODA chính thức vẫn là những chất xúc tác làm ấm một phần quan
hệ song phương vốn bị lạnh cóng do chính sách "đóng băng" của Nhật Bản.
1.3.Giai đoạn 1992 đến nay:
Đây được coi là giai đoạn phát triển nhất trong suốt quá trình thực hiện ODA
của Nhật Bản tại Việt Nam. Nhật Bản và ASEAN có mối quan hệ khá khăng khít về
23
mọi mặt kinh tế- chính trị- văn hóa xã hội. Bộ trưởng ngoại giao Nhật còn tuyên bố
trong chuyến đi thăm Inđônêxia rằng "Nhật Bản chỉ nối lại tài trợ cho Việt Nam sau
khi tham khảo ý kiến của ASEAN ". Trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu 90 đã
có những cuộc thăm viếng đều đặn của lãnh đạo hai nước, điều này thể hiện thiện chí
và nỗ lực của cả hai phía nhằm nối lại hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam. Từ
1992-2000 viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam gia tăng đều đặn, tổng gía trị ODA
đạt 744 tỷ yên (số cam kết), giá trị này gồm vốn vay ODA: 525 tỷ yên; viện trợ không
hoàn lại: 59 tỷ yên; hỗ trợ kỹ thuật: 33 tỷ yên. Chương trình hỗ trợ cho Việt Nam đặt
ưu tiên để tạo điều kiện phát triển bền vững và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo. Để theo
đuổi mục tiêu trên, đã đề ra năm lĩnh vực ưu tiên như sau:
• Phát triển nguồn nhân lực và thể chế.
• Phát triển cơ sở hạ tầng.
• Phát triển nông nghiệp và nông thôn
• Phát triển giáo dục và y tế.
• Bảo vệ môi trường.
Với việc hoạch định rõ ràng năm lĩnh vực như trên vào năm 1992 Nhật Bản tài
trợ cho Việt Nam tổng số là 46,7 tỷ yên, đưa Nhật Bản lên vị trí số 1 trong số các nước
cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam. Trong đó tài trợ không hoàn lại là 1,2 tỷ yên và
tài trợ tín dụng là 45,5 tỷ yên. Một số dự án lớn được cấp tài trợ không hoàn lại là: Dự

án phục hồi và nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy- thành phố Hồ Chí Minh: 840 triệu yên;
dự án cung cấp thiết bị y tế cho bệnh viện Hai Bà Trưng Hà Nội: 351 triệu yên; dự án
trồng rừng ở Đắc Lắc: 333 triệu yên; dự án cung cấp thiết bị thể dục cho bộ văn hóa:
49 triệu yên; và 4 dự án nhỏ khác trị giá 14 triệu yên.
Năm 1993 có tổng số 16 dự án- chương trình được nhận tài trợ ODA của Nhật
Bản.Trong đó có 8 dự án được cấp tín dụng đó là: Xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú
Mỹ (giai đoạn I): 26942; xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại: 730; Xây dựng nhà
máy thủy điện Hàm Thuận- Đa Mi: 1463; Nâng cấp đường quốc lộ số I (giai đoạn I):
3870; khôi phục cầu trên tuyến đường sắt Hà Nội- thành phố Hồ Chí Minh (giai
đoạnI): 4042; Nâng cấp cảng Hải Phòng (giai đoạn I): 3975; Tín dụng hàng hóa: 2500.
Ngoài ra có 8 dự án được nhận viện trợ không hoàn lại: Tiếp tục khôi phục và nâng
24
cấp bệnh viện chợ Rẫy: 803; cải thiện hệ thống cung cấp nước ở khu vực Gia Lâm-
Hà Nội (giai đoạnI): 984; cung cấp thiết bị dạy học cho khoa Nông nghiệp thuộc Đại
học Cần Thơ: 788; cải thiện hệ thống cung cấp nước khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai
đoạnII): 65; Tài trợ không dự án: 3000; cải thiện thiết bị y tế cho thành phố Hà Nội:
565; các dự án nhỏ khác: 19 (Đơn vị : triệu yên).
Năm 1994 tổng tài trợ không hoàn lại là 79,64 ttriệu USD. Tài trợ tín dụng vẫn
tiếp tục cung cấp cho các dự án từ năm trước. Trong đó có 9 dự án nhận tài trợ không
hoàn lại với tổng trị giá là 5672 triệu yên: Tiếp tục khôi phục và nâng cấp bệnh viện
Chợ Rẫy: 877; cải thiện thíêt bị y tế cho bệnh viện Hà Nội: 1126; cải thiện hệ thống
cung cấp nước cho khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnIII): 1512; xây dựng các
trường tiểu học (giai đoạn I): 1446; xây dựng cảng cá Vũng Tàu: 379; cung cấp thiết
bị âm nhạc cho nhạc viện Hà Nội: 43; cung cấp hệ thống thực nghiệm ngôn ngữ cho
đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh: 42; một số dự án nhỏ khác: 12 (Đơn vị:
triệu yên).
Từ năm 1995 đến nay Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ không hoàn lại cho Việt
Nam với tổng trị giá là : 11947 triệu yên. Phân bổ cho xây dựng cảng cá Vũng Tàu
(giai đoạnII): 238 triệu yên; dự án tiêm chủng mở rộng toàn quốc. Đồng thời là khoản
tín dụng 70 tỷ yên để xây dựng các công trình thuộc hạ tầng kinh tế. Nhật Bản luôn

đứng ở vị trí số một trong số các nhà tài trợ ODA cho Việt Nam.
25

×