LỜI NĨI ĐẦU
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta ln coi trọng vai trị con người, khơng ngừng cải thiện nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã
hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với
nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc
biệt là trong nền kinh tế xã hội. Vì thế nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc và phát
triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy vọt qua các năm, điều kiện
sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đất nước đang trong
thời kỳ đổi mới nên cùng với sự biến chuyển không ngừng về mọi mặt từ KTXh đến
chính trị ngoại giao nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã
và đang tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nói riêng nhiều cơ hội mới. Trong xu thế phát triển này, ngành
bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, BHNT là một ví dụ điển hình.
Nghiệp vụ BHNT mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so
với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ BHNT bao gồm nhiều loại hình khác
nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục... Sau một thời gian lựa
chọn đề tài viết chuyên đề mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số liệu thực tế chưa
nhiều nhưng cùng với sự động viên của cô giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình
của Cơng ty BVNT Hà Nội em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “An
sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty
Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội” Sở dĩ em chọn đề tài trên cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình là vì những lý do sau:
- Mặc dù BHNT ra đời rất sớm trên thế giới (năm 1583, ở Anh) và khônh
ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt nam. Vì vậy,
Trang 1
nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển
khai ở nước ta là một địi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn
- Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên khó tránh
khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần
phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo
hiểm khác ở chỗ nó khơng chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà cịn mang tính
chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là cơng ty phải trả một khoản tiền vào một thời điểm
nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy cơng ty
BHNT cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của cơng ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo
dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm
nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo dục“ là một biện pháp hữu hiệu
để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau.
Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, thị trường khách hàng
tiềm năng, tình hình dân số từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục
phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
Xuất phát từ những nội dung trên em xin nêu ra bố cục của chuyên đề:
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần I: .Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm An sinh giáo dục
Phần II: Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm “An sinh giáo dục” của Bảo Việt tại
BVNT Hà Nội
Phần III: Một số giải pháp đề nghị nhằm nâng cao công tác kinh doanh nghiệp vụ An
sinh giáo dục
Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong
chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự
góp ý, chỉ bảo của các thầy cơ giáo trong khoa nói chung và co giáo Nguyễn Thị Lệ
Huyền nói riêng để chuyên đề hồn chỉnh hơn về mặt lý luận và mang tính khả thi hơn
trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty.
Trang 2
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cơ Nguyễn thị Lệ Huyền cùng
sự giúp đỡ của phòng Quản lý hợp đồng BVNT Hà Nội, đặc biệt sự quan tâm, nhiệt
tình giúp đỡ của chú Trưởng phòng Trương Khánh cùng các anh chị trong phòng
QLHĐ đã tạo điều kiện cho em tìm hiểu tài liệu, báo chí giúp em hồn thành bản
chun đề tốt nghiệp của mình.
Trang 3
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM AN SINH GIÁO
DỤC
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đơng với một số ít trong số họ phải
gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử
là năm 1583, ở thị trường Ln đơn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số
tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là
mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phịng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp
phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ
thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn
ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây
ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ
gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia
đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con
người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những
hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm sốt rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro,
ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để
ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã
giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi
Trang 4
rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro
và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục
đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì
con người phải đối phó với những khó khăn khơng những cho bản thân mà cịn về
mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó
với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro
của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo
hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm
không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn
các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là
cơng cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy,
bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần khơng nhỏ vào sự
phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu
cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở
châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức
năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát
triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo
số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ
đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp
phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện
nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt
động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công
ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn
khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra
được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép
chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Trang 5
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả
về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngồi khả năng gửi
tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền
nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân,
nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và cơng cụ để huy động mạnh nguồn
vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất
vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ
trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng
tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người
dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng
đầu tư cho đất nước.
2. Vai trị và vị trí của BHNT
2.1. Vai trò của BHNT
Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta
cần hiểu rõ khái niệm về BHNT:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra
(người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) cịn người
tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là q
trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trị đầu tiên này, rủi ro là cái khơng thể
lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ
hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến
những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng
Trang 6
may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ
dược đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Cịn
khi rủi ro khơng xảy ra, thơng qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ
cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm
cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và
tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một
lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, cơng ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ
cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt
ngân sách Nhà nước, đơi khi lại cịn gây tâm lý ỷ lại khơng cố gắng vì đã có người
khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay khi
BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với
các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh
các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ
BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người
lao động cịn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh
nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là cơng cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi
tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà
lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ
đổi mới “Cơng nghiệp hố - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển
kinh tế phảI có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan
trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có
những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan
trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT
Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các
biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển
Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại
lực, chúng ta có quyền hy vọng thơng qua BHNT có thể trong thời gian tới dần dần
Trang 7
sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ
lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng). Ngồi ra, khi các
cơng ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ
đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài
hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là
đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao
động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên
ra trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng
bỏng khi mà lượng người khơng có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngồi
những người khơng có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ khơng được
sử dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai
thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế tốn, quản lý kinh tế... Vì
vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều cơng ăn việc làm, giảm bớt số lượng
người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở cơng
ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50
người, riêng nội thành đã có 16 phịng khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ chuyên
nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngồi
ra BHNT cịn có 60 cơng ty khác ở khắp các quận huyện trong cả nước.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo
nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và
phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một
tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ
giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho
sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An
sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ
tiết kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục
tiêu cơng bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình khơng chỉ là trách nhiệm
của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình.
Trang 8
Ngồi ra, tham gia BHNT cịn thể hiện một nếp sống đẹp thơng qua việc tạo
cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân,
đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với
người khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho
người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố
quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con người
là vơ cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát triển tồn
diện con người của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, BHNT đã góp phần khơng nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội
như giáo dục, xố đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong
cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động,
người cao tuổi....
2.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm.
2.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo
hiểm hoạt động trên ngun tắc “số đơng bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một
số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là
một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm
đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ
doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn,
bảo hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại
hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra
đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị
thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung.
2.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được trên thị trường BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không
ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH.
Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ
Trang 9
Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì
ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% cịn tỉ lệ phí
BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong tồn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải
thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của
mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh
tế thế giới nói chung.
3. Những đặc điểm cơ bản của BHNT.
3.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi
nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH
theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn
(STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một
độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này khơng thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng
bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình
một cách thường xun, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo
hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm khơng những tích
luỹ về mặt tài chính mà cịn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho
bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của
BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác khơng có dược. Điều này giải thích tại sao
nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
3.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo
hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là
góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa
mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác
nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo
hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người
Trang 10
được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo
hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản
tiền lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngồi ra, hợp đồng BHNT đơi khi cịn có
vai trị như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những
khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất
nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả
hay khơng trả lại cho cơng ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy
định trong hợp đồng bảo hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị
trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.
3.3 Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham
gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty
thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai
cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản
thân khi tham gia bảo hiểm.
3.4.Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí
khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ
ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý
hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí
BHNT, cịn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
......
Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng
Trang 11
địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước
khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng
loại sản phẩm, phân tích dịng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của
mỗi loại sản phẩm trên thị trường...
3.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc
gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trị và lợi ích của nó.
Ngun nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ yếu
để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định:
- Những điều kiện về kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức
độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình qn đầu người phải đạt mức trung bình trở
lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không
những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu
cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu
tư vào BHNT
.......
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội
phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và
dài hạn.
Ngồi ra, mơi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và
phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước
ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều
kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm.
4. Lịch sử ra đời của BHNT.
4.1. Trên thế giới:
Trang 12
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là
William Gybbon. Như vậy, BHNT có phơi thai từ rất sớm, nhưng lại khơng có điều
kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò
chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên
BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển
kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự
phát triển khơng ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển
trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Cơng ty
đó đến nay vẫn cịn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở
nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán
BHNT cho mọi người dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo
hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và
Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
4.2.Tại Việt Nam
Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm
Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt
đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở
nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
(BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh
cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa
dạng hố hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp
tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh
vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hồ
XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là
Trang 13
văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm
trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố
chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị
định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, cơng ty liên doanh với nước ngồi, chi nhánh hay
cơng ty 100% vốn nước ngồi. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do
hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những
năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm.
Với sự ra đời của cơng ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã
khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta
mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt
được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một
phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số cơng ty BHNT có vốn nước ngồi thị
trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho người
dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã
có 5 cơng ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là:
-
Bảo Việt là cơng ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước,
đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh
doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời
gian hoạt động là không kỳ hạn
-
Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động
12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50
năm.
-
Prudential là cơng ty 100% vốn nước ngồi của Anh quốc đây là công ty
BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai
trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm.
-
Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đồn CMG (Australia) và Cơng ty bảo
hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999,
vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm.
Trang 14
-
AIA cơng ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngồi của Mỹ khai trương hoạt động
22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50
năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra
hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo
hiểm trong xã hội Việt Nam.
II. CÁC LOẠI HÌNH BHNT
Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế - xã hội
sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong
một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do cơng ty bảo hiểm quản lí và cơng
ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như đã thoả thuận trong hợp đồng khi
kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo
hiểm. Do đó BHNT được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và
mang tính chất tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó cịn mang tính chất
bổ sung cho bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà
chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được.
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo
mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta
chia ra các hình thức cơ bản sau:
1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các cơng ty bảo hiểm đều xuất phát từ 3
loại này.
1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong.
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2 nhóm:
1.1.1Bảo hiểm tử kỳ
Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình BH
được kỳ kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng.
Nếu cái chết khơng xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được
bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người BH khơng phải thanh
tốn số tiền BH cho người được BH. Ngựoc lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời
hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách nhiệm thanh tốn số tiền BH cho
Trang 15
người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hố
thành các loại hình sau:
+Bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
+ Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên
+ Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
Đặc điểm
- Thời hạnh BH xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
- Mức phí BH thấp ví khơng phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH.
Mục đích
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chơn cất
- Bảo trợ cho gia đình và gnười thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần về nhứng khoản vay hoặc thế chấp của người
được BH
1.1.2. Bảo hiểm trọn đời
Hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh.
Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm khơng xác định
và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết.
Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này cịn đảm bảo chi trả cho
người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99 tuổi (như Prudential). Loại hình này
thương có các loại hợp đồng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận
+ BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận
+ BHNT trọn đời đóng phí liên tục
+ BHNT trọn đời đóng phí một lần
+ BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí
Trang 16
Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
- Thời hạn BH khơng xác định
- Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và khơng thay đổi trong suốt
q trình bảo hiểm
- Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra
nên STBH chắc chắn phải chi trả
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- 0iữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc
đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn
thanh tốn thì sẽ khơng được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho
đến khi chết.
- Phí bảo hiểm đóng một lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian khơng xác định.
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già.
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
1.3 BHNT hỗn hợp.
BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm sẽ
được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng và thời
hạn bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và
Trang 17
phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm
chọn.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi
người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp với mục
đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm đan xen nhau vì
thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới.
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong trong
thời hạn bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...)
- Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
- Có thể được chia lãi thơng qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hồn
phí khi khơng có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân.
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa loại sản
phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi
nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
2.1 Bảo hiểm cá nhân
Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo
hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia
bảo hiểm
2.2. Bảo hiểm nhóm
Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá
nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, cơng nhân viên của một doanh nghiệp
đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo
hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao
động.
3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng.
Trang 18
Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo hiểm
con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 3 loại hình cơ bản như
đã nêu ở phần 1. Bên cạnh đó cịn có những sản phẩm đi kèm cho sản phẩm chính
đó là sản phẩm bổ xung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1 năm, hết 1 năm lại tái
tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu thuật, bảo hiểm thương tật
bộ phận vĩnh viễn do tai nạn...
III. CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TRONG BHNT
1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới
Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là cha
mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập xảy ra với
bản thân họ. Việc thanh tốn học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ đang có thu
nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu khoản thu nhập chính bị
đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật tồn bộ vĩnh viễn hoặc chết.
Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh tốn học phí ngay cảc trong trường
hợp họ chết sớm. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể thu xếp được điều đó, số tiền
bảo hiểm được thanh tốn nhiều lần hoặc một lần. Đơn bảo hiểm dựa trên sinh
mạng của cha mẹ chứ không được ký do khả năng tự bảo vệ của trẻ em là rất ít.
Tuy được ký do cha mẹ nhưng cha mẹ khơng có quyền lợi bảo hiểm đối với
sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ em đều hồn phí
trong trường hợp chết sớm xảy ra. Đây được gọi là bảo hiểm trả chậm, bảo hiểm của
trẻ em thường được ký kết đựa vào cuộc sống của bố mẹ chúng và cho phép đứa trẻ
lựa chọn khi đứa trẻ đạt độ tuổi xác định trước (ví dụ ở tuổi 18).
Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo hiểm
vẫn tiếp tục mà khơng phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo hạn. Vào
ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều sự lựa xhọn
khác nhau cho đứa trẻ. Những dsự lựa xhọn này bao gồm việc thanh tốn ngay tồn
bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực trên cơ sở bảo hiểm nhân thọ hỗn
hợp. Không cần bằng chứng về sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn
việc chuyển hợp đồng cho người chồng trước khi kết hôn.
2. Tại Việt Nam
Trang 19
Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi
bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình
BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi
trưởng thành.
Do mục đích của chuyên đề là bàn về sản phẩm An sinh giáo dục cho nên ở
phần này em chỉ nêu rõ về sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi
trưởng thành”, đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục khi mới đưa vào
triển khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại
hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn
sống yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng
trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hồn tồn khơng
mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản
tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối
tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi
ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau:
- Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt
Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng.
- Nếu trẻ em khơng may bị thương tật tồn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt
ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em
trịn 18 tuổi.
- Nếu trẻ em khơng may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí
đã nộp.
- Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh
viễn do tai nạn, cơng ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu
lực.
- Ngồi số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ
trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ
này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức.
-Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người
tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị
giải ước.
Trang 20
Từ lúc Bảo Việt nhân thọ bắt đầu triển khai sản phẩm thì một trong hai sản
phẩm đầu tiên được Bảo Việt sử dụng có một sản phẩm dành riêng cho đối tượng
trẻ em. Điều này cũng dựa trên phận nào phong tục tập quán của người dân Việt
Nam là trẻ em bao giờ cũng là được ưu ái nhất trong gia đình cũng như trong xã hội,
gia đình ln giành cho con cái những gì quý giá nhất cũng như mong muốn con em
mình có một nền tảng vững chắc sau này. Sản phẩm An sinh giáo dục ra đời đã đáp
ứng được mong muốn đó, cha mẹ, ơng bà vừa được thể hiện tình thương yêu đối với
con cái vừa tạo cho con cái hành trang để vững bước vào đời. Bắt nguồn từ đức tính
tốt đẹp này của người dân Việt Nam Bảo Việt nhân thọ đã đưa ra loại hình bảo hiểm
An sinh giáo dục và đây cùng là thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với người dân.
Như đã nói ở trên loại hình bảo hiểm này thuộc nhóm BHNT hỗn hợp nên
thể hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm vì thế nên người tham gia
lại càng thấy được tính tiện lợi khi tham gia Bảo hiểm. Hơn nữa, người ta nói Bảo
hiểm mang tính xã hội và nhân văn rất lớn điều đó được thể hiện ở tính chất của sản
phẩm An sinh giáo dục là khi chẳng may có rủi ro xảy ra đối với bậc cha mẹ chủ
hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng sẽ được miễn phí cho đến khi đáo hạn và quyền lợi
bảo hiểm dành cho em bé đó vẫn khơng hề thay đổi. Có lẽ vậy cho nên các bậc cha
mẹ tham gia cho con cái của mình rất nhiều vừa thể hiện được tình thương yêu đối
với con cái, vừa đảm bảo cho con một tương lai vững chắc về mặt tài chính khi có
rủi ro xảy ra đối với bản thân, vừa mang tính tiết kiệm. Hội tụ đủ các yếu tố trên cho
thấy quyền lợi của người tham gia bảo hiểm là rất lớn cả cho người chủ hợp đồng
lẫn người được bảo hiểm. Vì thế sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được
bán nhiều nhất trong các công ty bảo hiểm.
Cho đến nay, Qua 5 năm hoạt động bảo Việt đã triển khai thêm nhiều sản
phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu của mọi người dân trong xã hội, mỗi sản phẩm
có một ưu thế riêng và có cái hay riêng, hệ thống sản phẩm của Bảo Việt rất đa dạng
và phong phú cho nên giới hạn trong đề tài em chỉ nêu về sản phẩm An sinh giáo
dục.
2. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục
Trang 21
Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát
hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê
sẵn trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo
hiểm. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản
của hợp đồng bảo hiểm.
Nội dung của hồ sơ yêu cầu: hồ sơ yêu cầu là một phần quan trọng của hợp
đồng bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản
thân: tên, tuổi, giới tính, chỗ ở, sở thích; về tình trạng sức khoẻ, về điều kiện bảo
hiểm mà mình lựa chọn theo mẫu đã in sẵn. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm, công
ty bảo hiểm sẽ đề nghị khám sức khoẻ và đưa ra quyết định có nhận bảo hiểm hay
không. Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm, công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp.
Sau khi nhận được số phí đầu tiên, cơng ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều
khoản và các phụ lục. Một bản gửi lại cho khách hàng, một bản giữ lại ở công ty
cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm.
Người chủ hợp đồng:
Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60, là người kê khai giấy yêu
cầu bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm.
Người được bảo hiểm:
Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 (tính đến thời điểm gửi giấy yêu
cầu bảo hiểm), là người mà công ty chấp nhận bảo hiểm sinh mạng theo hợp đồng
bảo hiểm. Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp
đồng bảo hiểm .
Tai nạn:
Trong BHNT quy ước “Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả
duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh, bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể
người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật
hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thối hố”. Như vậy những
thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn, cảm, trúng gió bất ngờ đối với người bảo
hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm.
Thương tật toàn bộ vĩnh viễn:
Trang 22
Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hồn tồn
hoặc khơng thể phục hồi được chức năng của:
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . .
- Một tay, một mắt hoặc . . .
- Một chân, một mắt hoặc . . .
Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại):
Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ
hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở lên. Giá
trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày sinh nhật của hợp đồng bảo hiểm
(là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời
hạn bảo hiểm).
Giá trị giải ước ln nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã
đóng góp với cơng ty bảo hiểm, nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã
đóng, vì người tham gia bảo hiểm phải thanh tốn cho cơng ty những khoản chi phí
đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng, chi phí khai
thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút, hấp dẫn đối với
khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia BHNT hay
không.
Số tiền bảo hiểm giảm:
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên. Người tham gia
bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số
tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm.
Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia BHNT trong
những lúc gặp khó khăn, đây là sự linh động của BHNT ứng với mỗi điều kiện khác
nhau.
Phạm vi bảo hiểm:
Do đây là loại hình BHNT nên phạm vi bảo hiểm phải gắn liền với cuộc sống
của con người do vậy ta phải phân ra:
-Sự kiện được bảo hiểm
Trang 23
+ Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm.
+ Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định
ở phần trên,
+ Rủi ro tử vong: đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân: chết do tai
nạn hoặc chết cho bệnh tật.
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT cịn có quy định về rủi
ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của
nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn
trọng pháp luật, có ý thức đề phịng và hạn chế rủi ro.
- Rủi ro loại trừ xảy ra do một số nguyên nhân sau:
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hoặc
người được thừa kế
+ Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm, người tham gia
bảo hiểm.
+ Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu, bia, ma tuý
hoặc các chất kích thích tương tự .
+ Do động đất, núi lửa v .v . . .
+ Do chiến tranh, bạo động v.v . . .
2.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm
2.2.1 Trách nhiệm của các bên.
* Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm
- Kí hợp đồng bảo hiểm: người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm,
cùng công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong
hợp đồng.
- Trách nhiệm khai báo rủi ro: Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm, người tham
gia bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm
(kê khai tình trạng sức khoẻ).
- Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho cơng ty
bảo hiểm, theo quy định nộp phí của cơng ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở
thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. Người tham gia baỏ hiểm phải đóng
đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn.
Trang 24
- Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người
tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng
sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải
cung cấp đầy đủ hồ sơ cho cơng ty một cách trung thực, chính xác để cơng ty căn cứ
trả tiền bảo hiểm. Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ.
* Trách nhiệm của cơng ty bảo hiểm:
- Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm.
- Đề phịng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng cịn hiệu lực.
- Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi
là thuế như đối với các doanh nghiệp khác.
- Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật.
2.2.2 . Quyền lợi bảo hiểm
1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn, công
ty BHNT sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi
trong hợp đồng bảo hiểm.
2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chết trước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn,
công ty BHNT sẽ hồn trả 100% số phí đã nộp vì khi người tham gia BHNT kí kết
hợp đồng với mục đích là đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành. Do vậy
khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này khơng
cịn nữa, nên chỉ hồn trả 100% số phí đã nộp.
3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết
3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, cơng ty
BHNT sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày
xảy ra tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo
hiểm.
Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực, cơng ty bảo hiểm sẽ hồn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ.
3.2.Do các nguyên nhân khác (trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV).
Trang 25