Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác-lênin (phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.79 KB, 8 trang )

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần 2)
Đề 1:
1) a) Thế nào là giá trị hàng hóa? b) Vì sao nói giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ
sản xuất xã hội?
2) Nhà nước ta đã làm gì để chống suy thoái kinh tế hiện nay. Hãy cho biết những
mặt đã làm được và những hạn chế, cho hướng giả quyết.
Bài làm:
1)
a) Muốn hiểu được giá trị hàng hóa trước hết phải đi từ giá trị trao đổi (giá tri troa đổi
biểu hiện ra như một quan hệ về số lượng, là một tỉ lệ theo đó những giá trị sử dụng
loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác).
Sở dĩ hai hàng hóa khác nhau lại có thể trao đổi được cho nhau, bởi vì giữa những
hàng hóa khác nhau đó có cái gì đó chung. Các giá trị trao đổi khác nhau phải được
quy thành cái chung đó, và mỗi giá trị trao đổi đều đại biểu cho một lượng nhiều hay ít
của cái chung ấy.
Vậy cái chung ấy phải chăng là giá trị sử dụng của hàng hóa?
Mác viết: “Nét đặc trưng của quan hệ trao đổi hàng hóa chính là việc phải tạm gạt
giá trị hàng hóa sang một bên”.
Nếu không phải là giá trị sử dụng, thì cái gì là chung cho mọi giá trị trao đổi?
Mác chỉ rõ: “Nếu gạt giá trị sử dụng hàng hóa của vật thể sang một bên, thì vật thể
hàng hóa chỉ còn một thuộc tính mà thôi, cụ thể là: chúng là sản phẩm của lao đông”.
Như vậy một khi không kể đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nó chỉ còn lại có tính
chất chung của các thứ lao động khác nhau, đó là sự hao phí lao động của con người.
Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của
mình ẩn dấu trong hàng hóa ấy. chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở
chung của việc trao đổi và nó trở thành giá trị của hàng hóa.
Vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội cảu người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa, còn giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị hàng hóa.
b) Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ rang buộc lẫn nhau. Trong
đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất


nhầm so sánh lao động ẩn dấu trong hàng hóa với nhau. Thực chất của quan hệ trao
1
đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng
hóa. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
2)
Nguyên nhân của cuộc suy thoái vừa qua là do cuộc khủng hoảng tài chính mà xuất
phát trung tâm là từ Mỹ, một nền kinh tế tài chính lớn nhất thế giới. Ngay sau đó,
khủng hoảng lan tỏa lập tức đến Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ La tinh, Châu Úc, và tất
cả các nước đều bị những ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là Mỹ và Châu Âu.
Nguyên nhân của khủng hoảng có rất nhiều, trực tiếp là do những chính sách về tiền
tệ, tài chính của Mỹ rồi tư bản giả, những bong bóng tư bản với thị trường bất động
sản ở Mỹ. Nhưng nguyên nhân sâu xa nhất chính là cơ chế vận hành của nền tài chính
thế giới với học thuyết chủ nghĩa tự do mới. Theo thuyết này, càng ít sự can thiệp của
Nhà nước vào nền kinh tế càng tốt và để cho “bàn tay vô hình” của thị trường tự do
điều hành kinh tế, bắt đầu từ Mỹ với lý thuyết của Reegan và Anh với Thatcher. Và
rồi, cuộc khủng hoảng tài chính lần này thể hiện một điều là “bàn tay vô hình” của cơ
chế thị trường đã đánh gục nền tài chính thế giới.
Nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với sức sản xuất
rất phát triển, cách quản lý vừa lỗi thời vừa cản trở đã làm sập đổ toàn bộ hệ thống tài
chính tiền tệ của Mỹ và thế giới tư bản. Điều đó chứng tỏ việc nhà nước điều hành
quản lý nền kinh tế, trong đó có quản lý tài chính tiền tệ một cách hiệu quả là rất quan
trọng.
Biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
 Thị trường tiền tệ tài chính yếu đi nhanh và co hẹp nhiều, chứng khoán giảm sút
rộng, sâu và liên tục.
 Hệ thống ngân hàng cho vay hạn chế, thu nợ khó, phá sản tăng, lạm phát tăng,
lãi xuất tăng cao.
 Dẫn đến chi phí tăng, giá thành tăng, tồn kho hàng hoá của doanh nghiệp càng
nhiều, thợ mất việc làm tăng lên nhanh.
 Khó khăn về tài chính dẫn đến suy giảm kinh tế, không ổn định về đời sống và

xã hội.
 Tuy tác động khác nhau đến với từng quốc gia và khu vực và phụ thuộc vào
mức độ liên kết, vào thị trường và khả năng nội lực của nền kinh tế cũng như
những chính sách đối phó và xử lý khi khủng hoảng xảy ra của mỗi nước Châu
Á và khu vực ASEAN
2
 Nhìn chung tác động có mức độ không như các khu vực phát triển có thể thoát
ra nhanh hơn.
Ảnh hưởng đến Việt Nam, dấu hiệu suy giảm đã rõ, tác động trực tiếp đến sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đầu tư và việc làm của người lao động.
 Những hoạt động ảnh hưởng ngay như doanh số giảm do doanh nghiệp không tiêu
thụ được hàng hoá (xuất khẩu thấp, giá hạ; tiêu dùng trong nước không tăng do đời
sống thu hẹp, xã hội giảm nhu cầu mua sắm);
 Lãi xuất tăng vọt làm chi phí giá thành tăng, nợ quá hạn, nợ xấu dềnh lên.
 Hệ thống tài chính ngân sách nguồn thu giảm rõ rệt qua lãi doanh nghiệp và thuế
của dân và tổ chức kinh tế giảm.
 Các chi phí cho hỗ trợ an sinh xã hội tăng.
 Bội chi ngân sách vượt khỏi tầm kiểm soát và khả năng cân đối của nền tài chính
thị trường chứng khoán giảm sút nghiêm trọng và gây rủi ro cho dân và cho hệ
thống kinh doanh chứng khoán và nhà đầu tư kể cả trong và ngoài nước.
 Thị trường Bất động sản đóng băng, thị trường lao động bất ổn, việc làm giảm một
số lao động ở các khu công nghiệp phải về nông thôn và tìm việc làm mới.
 giá trị sản xuất công nghiệp giảm, xuất khẩu giảm liên tục, dịch vụ (du lịch, vận tải,
xây dựng tổng mức luân chuyển hàng hóa, nông nghiệp giảm rõ rệt), thu ngân
sách giảm… chiều hướng hầu hết các chỉ tiêu phát triển kinh tế tiếp tục suy giảm,
ảnh hưởng lớn đến thu nhập và đời sống của người dân.
(Từ giữa năm 2007, đặc biệt là từ đầu năm 2008, do chịu tác động mạnh mẽ của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế nước ta đã rơi vào tình
trạng lạm phát cao, giá cả tăng vọt và suy giảm kinh tế ngày càng sâu. Lạm phát lúc
cao nhất lên tới trên 22%, tốc độ tăng trưởng GDP tụt giảm mạnh, từ 8,23% năm 2006

và 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008 và 5,32% năm 2009. Đời sống dân
sinh nhất là nông dân, cán bộ, công nhân viên chức, quân đội gặp nhiều khó khăn).
Nhà nước Việt Nam đã làm gì để chống suy thoái?
_ Nhận thức được những vấn đề bức xúc đó các cấp lãnh đạo của đất nước đã có
những chủ trương rất nhanh, toàn diện thể hiện qua nội dung và giải pháp chống suy
giảm kinh tế qua gói kích cầu và kích thích kinh tế tiếp theo, tập chung nhiều vào lĩnh
vực tài chính ngân hàng
_ Theo đó, Chính phủ cần thực hiện 2 nhóm giải pháp chính là kích cầu đầu tư, tiêu
dùng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất khẩu. Trước mắt, tập trung đầu tư các
công trình phục vụ cho phát triển kinh tế và giải ngân nhanh các nguồn vốn trái phiếu
3
Chính phủ cho y tế, giáo dục, nhà ở cho người nghèo và tháo gỡ về thủ tục, vốn, lãi
suất, giảm và giãn nợ thuế cho các doanh nghiệp.(+Thực hiện chính sách hỗ trợ cho
các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là các doanh nghiệp tiêu thụ sản
phẩm cho nông dân và hỗ trợ phục hồi sản xuất nông nghiệp
+Các thành viên Chính phủ đề nghị, năm 2009, nghiên cứu giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp xuống 25%, giảm 30% thuế thu nhập cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ, lùi thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân đến 1/7 mới thực hiện, các công trình
danh mục trái phiếu đường nông thôn, trường học, bệnh xá cho phép đầu tư hoàn
thành đúng tiến độ kéo dài chỉ tiêu Chính phủ làm tiếp trong năm, hạ lãi suất ngân
hàng xuống dưới 10%).
_ Để ngăn chặn suy giảm kinh tế, Thủ tướng đã nêu bật 5 nhóm giải pháp: Thúc đẩy
sản xuất và xuất khẩu (vốn, thị trường, tỷ giá, thuế, cơ cấu…), kích cầu đầu tư và tiêu
dùng (đầu tư nhà nước và doanh nghiệp), thực hiện các chính sách tài chính và tiền tệ
(tỷ suất, lãi, cơ cấu lại nợ, các chính sách thuế), các chính sách an sinh xã hội (bảo
hiểm thất nghiệp, triển khai hỗ trợ 61 huyện nghèo và các vùng bị thiên tai…), tổ chức
điều hành và can thiêp của nhà nước (dự báo nắm chắc tình hình, các thủ tục (đầu tư
XDCB, nhất là đất đai, hoàn thuế).
+ Miễn, giảm và giãn thuế cho doanh nghiệp, tiếp tục giảm lãi suất, điều hành tỷ
giá, dự trữ và quĩ hỗ trợ… Tập trung kích cầu đầu tư nhà nước vào các công trình quan

trọng và đầu tư nhà ở cho người nghèo, đồng thời hoàn thiện các văn bản pháp lý
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là
các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và thu hút nhiều lao động.
+ Cơ cấu lại xuất nhập khẩu, cao hơn là điều chỉnh mô hình kinh tế định hướng
xuất khẩu. Theo đó không nên tiếp tục xuất khẩu bằng mọi giá mà cần quan tâm đến
chất lượng và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Trước mắt, kim ngạch xuất khẩu có thể giảm nhưng bù lại, cơ cấu mặt hàng và cơ cấu
thị trường sẽ được tính toán lại cho mục tiêu dài hạn hơn, phục vụ thị trường nội địa
bền vững hơn. Một mặt, giảm nhập khẩu những nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, mà
nên thay thế bằng những hàng hoá, dịch vụ trong nước có khả năng thay thế được. Mặt
khác, linh doạt vận dụng chính sách thuế quan và thuế tiêu thụ đặc biệt để yêu cầu các
doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh và điều tiết thu nhập của nhóm
người có thu nhập cao tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ cao cấp, đắt tiền và phần lớn
là nhập khẩu và để tránh tăng thâm hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai.
+ Đối với chi đầu tư trực tiếp từ Ngân sách nhà nước và chi tín dụng ưu đãi của
Nhà nước, một mặt cần lựa chọn các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng,
có hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, tạo ra nhiều việc làm; mặt khác, sự đầu tư Nhà
nước cần hướng vào phát triển con người, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực để
4
thông qua đó người lao động có việc làm, có thu nhập thì mới phát triển được thị
trường trong nước bền vững.
Những mặt đã làm được của nhà nước để chống suy thoái
Dù các nước chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu,
Việt Nam vẫn là nước phục hồi nhanh và bước đầu phát triển trở lại. Đó là kết
quả vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội, trong đó vai trò quản lý Nhà nước đóng
vai trò then chốt.
- Nhờ các giải pháp chính sách kịp thời và mạnh mẽ, Việt Nam đã vượt qua suy thoái
kinh tế toàn cầu và dự kiến tăng trưởng cao hơn vào năm 2010 - 2011. Lạm phát dự
báo ở mức trung bình 10%.
- Với chính sách tài khóa thắt chặt nhằm đạt mục tiêu hạn chế thâm hụt tài khóa 8,3%

GDP và chính sách tiền tệ thắt chặt với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25% năm nay,
tăng trưởng GDP đạt 5,32% năm 2009 và dự kiến đạt tương ứng 6,5% và 6,8% vào
năm 2010 và 2011.
- Dòng vốn FDI sẽ phục hồi, do điều kiện tài chính toàn cầu được cải thiện. Luồng đầu
tư gián tiếp có thể vẫn ở quy mô nhỏ và luồng ra của vốn ngắn hạn sẽ có thể ở mức
vừa phải. Tài khoản vốn được kì vọng sẽ có thặng dư và vị trí cán cân thanh toán gần
với mức cân bằng, với điều kiện duy trì được niềm tin về ổn định kinh tế vĩ mô trung
hạn và mức dự trữ ngoại hối chính thức ít thay đổi.
- Việt Nam là một trong hai nước vượt qua khủng hoảng sớm nhất, phát triển trở lại
nhanh nhất, Đây là cố gắng của toàn xã hội, sự lãnh đạo của Đảng và điều hành quản
lý của Chí phủ, cùng sự tin tưởng vào cuộc của tất cả các ban ngành và nhân dân.
Chính niềm tin của nhân dân làm cho những chính sách, quyết tâm của Chính phủ đạt
hiệu quả.
- Chúng ta thấy yếu tố nông nghiệp, nông thôn trong cơn khủng hoảng vừa qua. Tuy
tốc độ tăng không cao nhưng đây cũng là một không gian mở vô cùng hài hòa để điều
hoà khi những người mất việc quay về với nông thôn
Cuối năm 2009, và bước sang 2010, dấu hiệu phục hồi kinh tế rất là rõ. Chúng ta đã
vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Bây giờ tín hiệu tăng trưởng là rất rõ ràng. Việt
Nam là một trong những nước có khả năng phục hồi nhanh nhất, hiệu quả cao nhất.
Hạn chế của những biện pháp chống suy thoái của nhà nước: Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực nêu trên tình hình kinh tế nước ta vẫn còn một số khó khăn.
Nền kinh tế tuy vượt qua được giai đoạn suy giảm sâu, song vẫn còn nguyên vẹn
những hạn chế cố hữu của cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, còn tiềm ẩn những nguyên
nhân gây bất ổn định vĩ mô. Tốc độ phục hồi của nền kinh tế còn chậm, đa số các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, vẫn hoạt động trong
5
trạng thái “cầm cự” để tồn tại. Nền kinh tế vẫn còn có nguy cơ tiềm ẩn tái lạm phát do
việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất, tăng dư nợ tín dụng và tăng bội chi ngân sách cùng
một số nguyên nhân khác.
- Sự kết thúc của trợ cấp cho các khoản vay ngắn hạn và dự kiến việc thắt chặt

chính sách tiền tệ sẽ siết chặt một số khách hàng vay, có thể dẫn đến sự gia tăng
các khoản nợ xấu, gây thêm căng thẳng trong hệ thống ngân hàng.
- Quản lý sự giảm sút tăng trưởng tín dụng và cung tiền thông qua việc tăng lãi
suất một cách thiếu trật tự và tình trạng thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân
hàng.
- Cùng với đó là xu hướng giá cả tăng lên, và nếu hiệu quả của nền kinh tế Việt
Nam không được cải thiện , lạm phát có thể quay trở lại. Lạm phát sẽ làm cho
người nghèo phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất và những kỳ vọng về phá giá sẽ
không khích lệ được luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vốn là động lực của tăng
trưởng kinh tế nhanh. Đây là những khó khăn chúng ta cần lường trước và dùng
sức mạnh kinh tế cùng những thuận lợi, thời cơ để có những bước phát triển.
- Hiệu quả đầu tư của chúng ta là chưa cao. Mô hình phát triển bền vững thì đúng
là đang phải tìm tòi. Trình độ quản lý, kinh nghiệm, đầu tư có tính đồng bộ, quy
hoạch của chúng ta chưa thật khoa học. Chúng ta đầu tư đơn lẻ, đầu tư từng bộ
phận, đầu tư từng công trình một thì hiệu quả chưa thể cao được, nhưng cũng
không thể không đầu tư. (Tuy hiệu quả đầu tư của chúng ta dù chưa cao nhưng
tác dụng của nó ngày càng lớn, ví dụ như các nhà máy điện, nhà máy xi măng,
nhà máy lọc dầu, đường sá, cầu cống, bến cảng… Hiệu quả so sánh thì chưa
cao nhưng hiệu quả về mặt xã hội vẫn được phát huy rất tốt).
- Về mô hình phát triển thì phải nói rằng, cả thế giới đều nói đến tái cấu trúc.
Thực ra phát triển bền vững ở đây bao hàm rất nhiều ý nghĩa: Làm sao quy
hoạch phải tốt hơn, cơ cấu đầu tư sắp tới để định hướng cơ cấu của nền kinh tế,
ngành nào phát triển, ngành nào là mũi nhọn, rồi đến mức cụ thể hơn là nhà
máy nào, công trình nào được đầu tư tốt…
- Phát triển bền vững bao hàm cả việc phải bảo vệ môi trường, cả cân đối trong
toàn ngành kinh tế. Chúng ta có thể đảm bảo kinh tế vừa hội nhập được nhưng
vẫn có tính độc lập tự chủ cao. Nghĩa là bản thân nền kinh tế phải có sức chịu
đựng, tự khẳng định để hội nhập. Đây là điều mà trong tái cấu trúc chúng ta cần
tính.
- Một yếu tố nữa phải quan tâm đến là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo bình ổn xã

hội. Xã hội an toàn thì làm cho nền kinh tế phát triển. An sinh xã hội cũng là
mục tiêu chúng ta phải rất đề cập.
Hướng giải quyết: Đến nay có thể kết luận nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai
đoạn suy giảm để hướng tới mục tiêu hồi phục và tăng trưởng bền vững. Để kinh tế
Việt Nam nhanh chóng hồi phục và tăng trưởng bền vững, năm 2010 và những năm
6
tiếp theo, trong quản lý điều hành nền kinh tế đòi hỏi cần tập trung thực thi có hiệu quả
các giải pháp tối ưu và có tính khả thi sau đây:
- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Ổn định
kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh doanh ổn định xã hội
và phát triển bền vững.
- Tập trung mọi nỗ lực, thúc đẩy đầu tư phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, nâng
cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cả ở thị trường trong nước và
thị trường thế giới. Thực hiện từng bước vững chắc tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển
đổi mô hình tăng trưởng trên quan điểm phát triển bền vững. Thực thi biện pháp này
cần coi trọng hai nhân tố hàng đầu đối với tăng trưởng bền vững và cạnh tranh cao đó
là phát huy nhân tố con người để phát triển bền vững và phát huy nội lực, coi trọng thị
trường nội địa gắn với tranh thủ sử dụng hợp lý hiệu quả ngoại lực để tạo thế cạnh
tranh cao cho nền kinh tế.
- Bên cạnh các hoạt động trên, cần đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất khẩu và nhập khẩu hiện tại cũng như
tương lai rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế bền vững của nước ta. Trước mắt,
nếu tăng mạnh được xuất khẩu và giảm tới mức thấp nhất nhập siêu sẽ tạo điều kiện
cho nền kinh tế nước ta hồi phục nhanh và có tốc độ tăng trưởng cao. Song, do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu nên xuất khẩu của nước ta đang gặp khó khăn, trong hai năm
2008 và 2009 kim ngạch xuất khẩu đều giảm, để đẩy mạnh xuất khẩu chúng ta phải
mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế cả về chiều rộng và chiều sâu, giữ vững và cải thiện
thị trường xuất khẩu đã có, đồng thời tích cực khai thác “thị trường lách” ở tất cả các
nước đối với những mặt hàng ta có ưu thế xuất, họ có nhu cầu nhập để tăng kim ngạch
xuất trong những năm tới. Do đó, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế đối với

nước ta hiện nay là rất quan trọng.
- Trong quản lý điều hành cũng cần thực hiện các biện pháp điều hành kinh tế vĩ mô
linh hoạt, thận trọng đối với chính sách tài chính, tiền tệ, thị trường (vì đây là những
lĩnh vực rất nhạy cảm) để ổn định vĩ mô, ngăn ngừa tái lạm phát, phục vụ mục tiêu
tăng trưởng nhanh và bền vững, bảo đảm an sinh xã hội. Tăng cường các giải pháp,
chính sách về tạo việc làm để thu hút hết số lượng lao động vào guồng máy sản xuất
tạo ra của cải cho xã hội và thu nhập cho người lao động, giảm nghèo tới mức thấp
nhất, ổn định đời sống nhân dân.
- Song song với công tác quản lý, điều hành, từng bước tái cấu trúc nền kinh tế theo
phương hướng thiết lập một cơ cấu kinh tế dựa trên công nghệ xanh và giá trị gia tăng
cao, bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và thân thiện với môi
trường. Đây là thời điểm cơ hội và thuận lợi nhất để tái cấu trúc nền kinh tế theo
phương hướng trên nhằm phục vụ mục tiêu “vàng” - tăng trưởng nhanh và bền vững
của nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu. Đẩy mạnh cải
cách hành chính, xóa bỏ tất cả các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho
người dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh, thực hiện “cơ chế một cửa”; nâng cao
năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện của bộ máy Nhà nước, đưa chính sách và mục
tiêu thành hiện thực trong cuộc sống.
7
- Một vấn đề cũng rất quan trọng trong thực thi các giải pháp đó chính là phải làm tốt
công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến chủ trương chính sách, tạo sự đồng thuận
cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội từ nhận thức đến hành động. Phải
công khai và minh bạch thông tin, làm rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước. Công tác thông tin tuyên truyền phải vì lợi ích của đất nước, của nhân dân và
phải kịp thời bác bỏ những thông tin thất thiệt; tạo ra nhận thức đúng đắn và sự đồng
thuận xã hội cao, hành động theo cùng một hướng. Thời gian qua chúng ta đã ngày
càng làm tốt hơn yêu cầu này, cần làm tốt hơn nữa trong thời gian tới.
- Có chiến lược có lộ trình hoạt động hướng mạnh vào khai thác thị trường nội địa phát
huy tiềm năng thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống doanh nghiệp nhỏ và
vừa và kinh tế tư nhân.

- Các giải pháp trên đây phải được tiến hành đồng bộ trong nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành kinh tế đóng góp nhiều nhất vào
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân và các lĩnh vực kinh tế nhạy cảm như:
Ngân hàng, tài chính, tín dụng.
- Nền kinh tế chúng ta là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cái khâu định
hướng ấy có nghĩa là luôn luôn phải điều hành. Mà trong điều hành thì chúng ta phải
nắm bắt được xu thế khách quan của nền kinh tế với ý chí chủ quan để làm sao hạn chế
được rủi ro, hạn chế được những tiêu cực đương nhiên của thị trường, phát huy được
yếu tố tích cực của thị trường. Điều hành luôn phải sáng tạo nhưng quyết liệt và cũng
phải mềm dẻo, có đổi mới. Qua việc điều hành quyết liệt và hiệu quả của điều hành
kinh tế vĩ mô của đất nước trong năm qua, niềm tin của các doanh nhân, của nhân dân
tăng lên. Trong điều kiện nào thì Chính phủ với nhân dân cũng phải là một khối. Niềm
tin của nhân dân là yếu tố vô cùng quan trọng đảm bảo thắng lợi của mọi cuộc cách
mạng, trong đó có cách mạng về kinh tế. Do đó cũng phải chú trọng tuyên truyền chủ
trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chính sách mới,
những điều hành của Chính phủ phải làm sao để nhân dân hiểu, đồng tình, tạo đồng
thuận xã hội.
8

×