Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh thanh hóa đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 75 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
MỞ ĐẦU
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế quan trọng, quyết định đến sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia cũng như mỗi địa phương. Đây chính là chìa
khóa để tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa tạo thế và lực thúc đẩy phát triển đồng thời hội nhập kinh tế quốc
tế. Chính vì vậy, đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là một giải pháp
chủ yếu để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội theo hướng tăng trưởng cao, ổn
định và bền vững. Bất kỳ quốc gia, địa phương nào muốn có tốc độ tăng trưởng cao,
đời sống nhân dân được cải thiện đều phải quan tâm đến đầu tư phát triển. Nhận
thấy được tầm quan trọng đó, trong những năm vừa qua tỉnh Thanh Hóa đã biết tận
dụng những lợi thế của mình và thực hiện nhiều biện pháp nhằm huy động nhiều
nguồn lực cho đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh xây dựng kết
cấu hạ tầng. Chính vì vậy, giai đoạn 2005-2009 kết cấu hạ tầng cơ sở của tỉnh
Thanh Hóa đã cải thiện đáng kể, tăng trưởng kinh tế của tỉnh liên tục đạt tốc độ tăng
trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa các vấn đề y tế, giáo dục và một số vấn đề khác cũng có những tiến đáng kể.
Tuy nhiên, so với tiềm năng phát triển của tỉnh Thanh Hóa cũng như số lượng vốn
bỏ ra thì những kết quả đấy chưa tương xứng. Hoạt động đầu tư diễn ra sôi nổi,
song hiệu quả đầu tư chưa cao, còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Do đó, việc tìm
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trong thời
gian tới đây là vấn đề bức xúc của tỉnh.
Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020” làm đề tài nghiên cứu
trong chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp là đưa ra những giải pháp chủ
yếu thích hợp nhất nằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trên địa
bàn tỉnh.
Để thực hiện được mục đích đó, chuyên đề sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ
trong phạm vi nghiêm cứu như sau: trình bày những lý luận cơ bản về đầu tư phát
triển và hiểu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu


tư phát triển địa bàn về phương pháp nghiên cứu, dựa trên phương pháp duy vật
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
biện chứng, tác giả sử dụng các phương pháp thông kê, tổng hợp và đánh giá,
phương pháp so sánh, khái quát hóa và phân tích hóa vấn đề.
Về kết cấu của chuyên đề: ngoài phần mở đầu và phần kết luận chuyên đề
gồm 3 phần chương.
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư phát triển.
Chương 2: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển địa bàn tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2005-2009.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.1 Khái niệm, vai trò và đặc trưng của đầu tư phát triển
1.1.1 Khái niệm về đầu tư phát triển:
“Đầu tư” là thuật ngữ được dùng rất phổ biến trong nghiên cứu cũng
như thực tiễn đời sống. Tùy từng góc độ tiếp cận và phạm vi nghiên cứu, đã có
nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế đều cho
rằng: “Đầu tư là sự hi sinh của các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó”.
Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Còn các kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và

nguồn nhân lực.
Đầu tư có thể được chia thành: đầu tư tài chính (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu,
cổ phiếu…), đầu tư thương mại (mua hàng hóa với giá cao hơn) và đầu tư phát
triển.
Trong đó: “Đầu tư phát triển là việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để duy trì
tiềm lực của những cơ sở đang hoạt động và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội”
Cụ thể, ĐTPT bao gồm các hoạt động xây dựng, sửa chữa nhà cửa, vật kiến
trúc, mua sắm, lắp đặt thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực đồng thời thực
hiện các công việc gắn liền với sự phát huy tác dụng của các tài sản do ĐTPT tạo ra.
ĐTPT có những đặc điểm khác biệt so với đầu tư thương mại, đầu tư tài chính.
1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của đầu tư phát triển
Xuất phát từ khái niệm về ĐTPT và yêu cầu nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn ĐTPT, cần thiết phải nghiên cưú bản chất của ĐTPT thông qua việc
phân tích những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thời gian đầu tư và thu hồi tùy thuộc vào từng đối tượng và lĩnh vực
đầu tư nhưng thường diễn ra trong thời gian dài.
Theo quy định của trình tự đầu tư và xây dựng (ĐTXD), thời gian đầu tư được
chia thành ba gian đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành khai thác.
Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
trình tự ĐTXH, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển.
Quy hoạch phải đi trước một bước làm cơ sở để quản lý chặt chẽ các hoạt động
ĐTPT. Cần tập trung đầu tư dứt điểm và có trọng điểm, nâng cao chất lượng, rút
ngắn thời gian thực hiện các công việc: lập, thẩm định dự án đầu tư, thiết kế dự
toán, hồ sơ giao nhận thầu và thời gian xây dựng công trình, nhanh chóng đưa dự án
vào khai thác sử dụng làm tăng năng lực sản xuất, tăng lực phục vụ cho nền kinh tế.
Khi đánh giá hiệu quả đầu tư, cần phải quan tâm tới toàn bộ quá trình đầu tư, tránh
tình trạng chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự án mà không chú ý đến thời gian

khai thác sử dụng vì đó là giai đoạn các kết quả đầu tư phát huy tác dụng để đạt tới
mục tiêu cuối cùng đã được xác định trong dự án.
Quá trình hoạt động đầu tư diễn ra càng dài thì việc bỏ vốn càng gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, thời gian thu hồi vốn đầu tư được các nhà đầu tư quan tâm. Để
hoàn thành vốn nhanh khi tiến hành đầu tư cần thiết phải lựa chọn hình thức, trình
tự bỏ vốn thích hợp nhằm giảm thiểu thiệt hại do ứ động vốn đầu tư bởi khối lượng
xây dựng dở dang.
Thứ hai, hoạt động ĐTPT đòi hỏi một khối lượng lớn. Lượng vốn này sẽ
đáp ứng yêu cầu của quá trình ĐTXD cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, vật kiến trúc, mua
sắm máy móc, thiết bị…và quá trình khai thác sử dụng sau này.Muốn có đủ vốn cho
quá trình đầu tư phải có tích lũy từ nền kinh tế. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát
triển, tiết kiệm trong nước thường không đáp ứng được nhu cầu. Chính vì vậy, cần
tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó cần khắc phục tình trạng sử
dụng vốn đầu tư lãng phí, kém hiệu quả.
Thứ ba, kết quả đạt được sau quá trình thực hiện đầu tư là những cơ sở vật
chất kỹ thuật hoàn chỉnh phục vụ cho các hoạt động khác nhau trong nền kinh tế.
Đó thường là các công trình xây dựng có quy mô lớn, phức tạp về mặt kỹ thuật, có
giá trị sử dụng lâu dài và sẽ được hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên.
Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến
quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Chính
vì thế, trước khi tiến hành công cuộc đầu tư cần phải điều tra và nghiên cứu kỹ càng
tác động các nhân tố liên quan. Không làm tốt công tác đó thì không những kết quả
đầu tư không thể phát huy hết tác dụng mà nếu phải di rời hoặc phá hủy thì sẽ rất
tốn kém, đồng thời còn ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động khác.
Thứ tư, tính rủi ro của hoạt động đầu tư là rất lớn do chịu ảnh hưởng rất
nhiều của các yếu tố không ổn định. Ngoài những rủi ro thường gặp về thị trường,
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
thu nhập, thanh toán, các nhà đầu tư còn phải đối mặt với những rủi ro về những bất

ổn chính trị, xã hội (chiến tranh, xung đột, biểu tình, tham nhũng…), các chính sách
kinh tế, tài chính (chính sách thuế, tiền tệ…) đồng thời còn những bất ổn thiên tai,
do điều kiện địa lý không gian. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cần có những biện
pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Về phía các
nhà quản lý, cần có những chính sách rõ rang, hấp dẫn tạo điều kiện để các hoạt
động đầu tư diễn ra thuận lợi và hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do các yếu tố
rủi ro, từ đó kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy phát triển kinh tế.
1.1.3 Vai trò đầu tư phát triển trong nền kinh tế xã hội:
1.1.3.1 Vai trò của đầu tư phát triển tới tăng trưởng kinh tế.
Vai trò này của đầu tư thể hiện qua mô hình tổng cung và tổng cầu.
Với tổng cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng
24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Trong ngắn hạn, sự
gia tăng của đầu tư thực chất là gia tăng nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nói chung của
NKT. Chúng ta biết rằng tổng sản lượng NKT (Y) chính bằng tổng tiêu dung của
dân cư (C), chi tiêu chính phủ, đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX):
Y=C+ G + I +NX
Do đó, khi gia tăng đầu tư sẽ thúc đẩy gia tăng sản lượng.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
ASо
AS
AD
ADо
Q
2
QQо

P
2

P
1
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Nhìn đồ thị ta thấy, ở trạng thái cân bằng ban đầu, sản lượng của NKT là Qо
mức giá chung là Pо. Khi đầu tư tăng lên, đường cầu ADо dịch sang AD, sản
lượng cân bằng hiện thời tăng lên từ Qо lên Q và ,mức giá tăng từ Pо lên P.
Về tổng cung: đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là nó thêm các nhà
máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất làm tăng thêm khả
năng sản xuất của NKT. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung làm tổng cung tăng
lên( đường ASо dịch chuyển sang AS). Sản lượng tiềm năng tăng từ Q lên Q2
và giá cả giảm xuống từ P xuống P2. Sản lượng tăng và giá cả giảm cho phép tăng
tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa.
Từ năm 1991, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc với tốc độ tăng trưởng
8,7% và đạt mức cao nhất vào năm 1995 với tốc độ tăng trưởng 9,5%. Sáu năm liên
tục (1991-1996), Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 8%. Do sự ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực năm 1997 vì thế tốc độ tăng trưởng
của Việt Nam là 5,8% năm 1998 còn 4,8% năm 1999. Từ năm 2003 thì có sự phục
hồi, tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003-2007 là 8,04% năm 2008 là
8,48% năm 2009 có sự khủng hoảng thế giới nên tốc độ tăng trưởng đã bị giảm
xuống còn 6,23%. Nếu so sánh các nước khu vực trong khu vực thì tốc độ tăng
trưởng của Việt Nam đứng thứ 2 sau Trung Quốc cao hơn các nước ASEAN như
Malaysia, Philipin, Indonesia và Thái Lan.
Mặc dù giai đoạn từ 1990-2008 tăng trưởng khá cao những vẫn theo chiều
rộng. Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện dựa trên sự cải thiện của yếu tố TPF
trong tăng trưởng GDP hàng năm từ 14,22% giai đoạn 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ
1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến nay tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và
lao động gấp trên 3 lần so với tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP. Tỷ lệ đóng góp
khoảng 20% vào tăng trưởng của nhân tổ TFP hiện thấp hơn rất nhiều so với các
nước trong khu vực, ví dụ như: Hàn quốc là 32,2%; Đài Loan 35%; Indonesia 28%;

Thái Lan 36%. Các nước phát triển tỷ lệ đóng góp của TFP vào kết quả tăng trưởng
thường chiếm cao hơn nhiều, từ 60-75%. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế
của yếu tố TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu quả
tăng trưởng kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao động, hiệu
quả đầu tư, và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn cũng như khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước. Sự đóng góp
của yếu tố TFP thấp còn cho thấy: công nghệ sử dụng trong nền kinh tế của VN chủ
yếu là ở trình độ công nghệ thấp (60%), chỉ có 20% công nghệ trình độ cao.Yếu tố
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
đó đã làm cho năng lực cạnh tranh toàn cầu của VN đang ở điểm số rất thấp. Trong
bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, thứ hạng của VN luôn bị tụt, năm
2007 tụt đi so với 2006 4 hạng, đến năm 2008, lại tụt đi 3 hạng. Hiện nay chúng ta
chỉ đạt 3,89 điểm và đứng thứ 77/125 nước.
Trong số 2 nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng là vốn và lao động thì yếu tố
vốn đóng vai trò quyết định nhất. Hiện nay tăng trưởng GDP của VN vẫn chịu ảnh
hưởng lớn (đến 60%) là do yếu tố vốn. Mô hình tăng trưởng của VN còn được gọi
là mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, trong khi vốn lại được sử dụng chưa có hiệu
quả, mà quan trọng hơn chúng ta lại là nước không có lợi thế vốn. Nếu trong những
năm tới, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư nước
ngoài giảm tốc độ đầu tư vốn vào Việt Nam, dòng vốn ODA, vay thương mại bị
gián đoạn, điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP cao của Việt nam.
Xem xét tốc độ tăng trưởng GDP và sự biến động của tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ
đầu tư cho thấy nền kinh tế Việt Nam từ đầu thập niên 1990 tốc độ tăng trưởng cao
gắn liền gia tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP. Nếu trong
giai đoạn 1986-1990 tỷ lệ tiết kiệm thấp và đầu tư trong GDP thấp chỉ là 2,4% và
12,6% thì tốc độ tăng trưởng chỉ là 4,3%. Trong giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ tiêt kiệm
và tỷ lệ đầu tư là 14,7% và 22,3% thì tỷ lệ tăng trưởng là tăng lên mạnh mẽ là 8,2%.

Trong giai đoạn 1996-2000 thì tỷ lệ đầu tư là 33,2% tốc độ tăng trưởng GDP giảm
nhẹ xuống còn 7%. Đặc biệt giai đoạn 2001-2009 tỷ lệ đầu tư là 38,8% thì tỷ lệ tăng
trưởng trung bình là 7,62%, sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1998-
2003 bị sụt giảm một phần là do khủng hoảng kinh tế một phần là do cơ chế chính
sách ngày càng không theo kịp tình hình mới làm cho hiệu quả đầu tư giảm sút
nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư tăng nhanh trong khi tốc độ tăng trưởng GDP vẫn chưa
phục hồi so với thời kỳ trước khủng hoảng.
1.1.3.2 ĐTPT tác động đến chuyển dịch kinh tế.
Có hai nhân tố quan trọng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
vốn đầu tư và lao động. Trong đó, vốn đầu tư giữ vai trò quyết định. Kinh nghiệm
của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh là
tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp, khu vực dịch
vụ. Đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp, do những hạn chế về đất đai, về khả năng
sinh học nên để đạt được tốc độ tăng trưởng trên 6% là tương đối khó khăn. Như
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ NKT.
Cơ cấu đầu tư theo ngành là cơ cấu đầu tư theo từng ngành kinh tế quốc dân
cũng như từng tiểu ngành, thể hiện thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính
sách đầu tư đối với từng ngành theo mục tiêu nhất định. Nghiên cứu đầu tư theo 3
nhóm ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, mục đích là phân tích đánh giá
tình hình đầu tư, thực hiện đường lối CNH-HĐH của Đảng trong đó, ưu tiên phát
triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý phát triển nông nghiệp vì nước ta vẫn là nước
chiếm tỷ lệ lớn về nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển.
Ngoài ra, ĐTPT còn tác dụng chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ. Cơ cấu đầu tư
hợp lý sẽ giải quyết nhũng mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãng thổ.
Vai trò của cơ cấu đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-
HĐH ở Việt Nam. Đầu tư có tác dụng đến chuyển dịch kinh tế. Đầu tư góp phần

làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
nước ta trong từng thời kỳ, tạo sự phát huy nội lực kinh tế, trong khi vẫn coi trọng
yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu
tư từng ngành nhiều hay ít, việc sự dụng hiệu quả cao hay thấp…đều ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất từng ngành tạo tiền đề
vật chất cơ sở để phát triển các ngành mới…do dó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư giải quyết những mất cân đối về phát triển
giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng thoát ra khỏi vùng yếu kém, phát huy tối
đa về lợi thế tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng
phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển.
Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế Việt Nam chủ yếu tập trung vào kĩnh vực
dịch vụ và công nghiệp- xây dựng, tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư vào 2 ngành
này khá cao và duy trì ở mức 40-50 %, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực nông- lâm, ngư
nghiệp vẫn còn thấp chỉ ở mức trên dưới 10% những năm gần đây lại có xu hướng
sụt giảm. Để thấy rõ hơn tác động của yếu tố vốn đến tăng trưởng kinh tế chúng ta
đi vào tìm hiểu vai trò của vốn đối với từng lĩnh vực kinh tế cụ thể.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Biểu 1.1 Biểu cơ cấu vốn đầu tư Việt Nam 2000-2007
Nguồn: Thời báo kinh tế việt nam
Do có sự thay đổi tích cực trong cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành, nên cơ
cấu ngành kinh tế nước ta năm 2007 tiếp tục có dấu hiệu chuyển dịch theo xu thế
tích cực. Có thể theo dõi xu hướng này qua bảng sau:
Bảng 1.1: Cơ cấu đầu tư và cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2000 – 2007(%)
Năm Cơ cấu GDP
NN CN DV
Cơ cấu vốn đầu tư
NN CN DV
2000 24,53 36,73 38,73 13,8 39,3 46,9

2001 23,24 38,13 38,63 9,6 42,2 48,0
2002 23,03 38,49 38,48 8,8 42,3 48,9
2003 22,54 39,47 37,99 8,5 41,3 50,3
2004 21,81 40,21 37,98 7,9 42,7 49,4
2005 20,97 41,02 38,01 7,5 42,6 49,9
2006 20,4 41,52 38,08 7,5 41,1 51,4
2007 20,0 41,8 38,5 6,5 43,5 50,0
Nguồn: tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục thống kế VN
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo xu hứớng tăng tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp cả theo GDP và lao động. Tỷ
trọng khu vực công nghiệp trong GDP liên tục tăng lên; nếu như năm 2000 khu vực
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 36,7% thì đến năm 2006 đã tăng lên là 41,5%
và năm 2007 lại tiếp tục tăng lên 41,8%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ sau nhiều năm
giảm sút đã tăng trở lại từ năm 2005, đến năm 2007 đã chiếm 38,5%. Ngược lại, tỷ
trọng khu vực nông nghiệp đã giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,4% năm
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
2006 và năm 2007 chỉ còn 20%. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp tục thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và phân bố lại dân cư.
Có được sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo đúng xu thế nói trên là do từng khu
vực, từng ngành kinh tế đều có xu hướng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
tăng cường các mối liên kết kinh tế trực tiếp giữa các ngành kinh tế với nhau; gắn
kết sản xuất với thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, thích ứng ngày càng
nhiều với các đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn
diện nền kinh tế. Cụ thể:
(i) Trong ngành công nghiệp: Cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm đều có
những bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí
chế tạo và tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng lên. Số sản phẩm cạnh tranh
được trên thị trường ngày càng nhiều. Năng suất lao động ngành công nghiệp tăng

lên khá nhanh.
(ii) Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tăng hiệu quả và nâng cao trình độ công nghệ thông qua ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến, đặc biệt là trong lĩnh vực thủy sản. Liên
kết công, nông nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn, cho phép nâng cao đáng kể giá trị
nông sản hàng hóa, nhất là nông sản hàng hóa xuất khẩu. Các ngành nghề phi nông
nghiệp ở nông thôn tiếp tục phát triển đa dạng, tập trung vào những ngành nghề có
giá trị gia tăng cao. Ngành Thủy sản năm 2007 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị
tăng thêm khá cao (9,9%)
(iii) Khu vực dịch vụ đã tiếp tục tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có
tiềm năng để phát huy ưu thế và khả năng cạnh tranh như du lịch, vận tải biển, tài
chính, ngân hàng, chứng khoán. Phát triển mạnh mẽ thương mại, bảo đảm hàng hóa
lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hôi tăng trưởng khoảng 22,5% so với năm
2006. Mở rộng mạnh mẽ các loại thị trường, cả thị trường thành thị và thị trường
nông thôn, thị trường miền núi. Phát triển du lịch Việt Nam trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh
thái, truyền thống văn hóa lịch sử. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam namư 2007
tăng khoảng 25% so với 2006 (4,3 – 4,5 lượt người).
Do đó, cần đầu tư vào những vùng kém phát triển để đưa những vùng đó
thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời ĐTPT phải phát huy những lợi thế so
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
sánh về tài nguyên thiên nhiên, kinh tế chính trị xã hội của những vùng có khả năng
phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.1.3.3 Vai trò của ĐTPT đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội.
Mục tiêu cuối cùng của đầu tư phát triển cũng như mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế là cải thiện các chỉ tiêu xã hội, đầu tư làm tăng trưởng kinh tế dẫn đến
tăng mức sống của nhân dân, GDP trên người tăng lên. Các đầu tư phát triển xã hội

như cở sở hạ tầng, đường xá trường học, bể nước sạch ở các vùng khó khăn, dự án đầu
tư phát triển nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói. Đầu tư nâng cao vật chất và dân trí của nhân
dân, vì thế đầu tư phát triển có ý nghĩ rất lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội.
Ngoài ra ĐPPT nắm giữ vai trò không thể thiếu trong việc hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô của các chính phủ. Giữa biến số đầu tư và các mục tiêu kinh tế vĩ
mô có mối quan hệ chặt chẽ. Quy mô tốc độ đầu tư thay đổi sẽ tác động trực tiếp
đến sản lượng kinh tế quóc dân, thất nghiệp lạm phát Chính sách kinh tế vĩ mô
của chính phủ cần kiểm soát mối quan hệ này để ổn định NKT.
Dưới tác động trực tiếp của các chính sách tài chính tiền tệ, việc tăng hay
giảm khối lượng đầu tư đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến NKT. Một mặt,
tăng khối lượng đầu tư sẽ khích thích sản xuất phát triển, tăng năng lực sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác, do
tăng cầu về các yếu tố cơ bản cảu sản xuất nên giá tăng. Giá tăng đến một chừng
mực nào đó sẽ dẫn đến lạm phát. Ngược lại, giảm khối lượng đầu tư làm cho sản
xuất chững lại, tình trạng thất nghiệp gia tăng, có thể kéo theo giảm phát. Điều này
làm cho đời sống nhân dân giảm, tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng. Do vậy Nhà nước
cần có các biện pháp, cơ chế và những chính sách phù hợp để phát huy tối đa mặt
tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực do việc tăng giảm đầu tư mang lại.
1.2 Khái niệm và nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển:
1.2.1 Khái niệm vốn đầu tư phát triển:
Vốn ĐTPT là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu
động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư, mặt bằng dân trí và
bảo vệ môi trường sinh thái trong thời giai nhất định.
Vốn đầu tư phát triển gồm: Vốn đầu tư cơ bản; vốn lưu động bổ sung và vốn
đầu tư phát triển khác.
Nội dung của 3 bộ phận cấu thành nên vốn đầu tư phát triển toàn xã hội:
a. Vốn đầu tư cơ bản là số vốn đầu tư để tạo ra tài sản cố định. Nó bao gồm
vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ. Vốn đầu tư xây
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
11

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
dựng cơ bản là một thuật ngữ đã được sử dụng khá quen thuộc ở nước ta với nội
dung bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại
hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế.
Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng
thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm 2 bộ phận
hợp thành: vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta quen gọi là
vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ.
Về nội dung chỉ tiêu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn
TSCĐ bao gồm:
- Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng chuẩn bị cho đầu tư.
- Chi phí thiết kế công trình, chi phí xây dựng
- Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc
nguồn vốn đầu tư XDCB;
- Chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết bị, sửa
chữa lớn các TSCĐ khác.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của vốn đầu tư cơ bản được sử
dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như đã nêu trên.
b. Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản
lưu động trong kỳ nghiên cứu của toàn xã hội. Đây là một nội dung phức tạp rất
khó khăn trong việc thu thập thông tin. Bởi lẽ, đối với khu vực kinh tế tư nhân
người ta thường không ghi chép những khoản đầu tư bổ sung cho vốn lưu động.
Vì thế việc đánh giá mức độ đầu tư phát triển hàng năm của từng địa phương và
toàn quốc gặp rất nhiều khó khăn và tất nhiên không thể tránh khỏi sai sót. Ngành
Thống kê đã tiến hành điều tra mẫu để suy rộng cho từng thành phần kinh tế. Song
việc thu thập thông tin rất phức tạp, độ chính xác còn hạn chế, nhất là khu vực
kinh tế tư nhân mà đặc biệt là kinh tế hộ gia đình.
c. Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư của xã hội
nhằm tăng năng lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội ngoài yếu tố làm
tăng TSCĐ, TSLĐ còn phải làm tăng nguồn lực khác như: nâng cao dân trí; hoàn

thiện môi trường xã hội; cải thiện môi trường sinh thái; hỗ trợ cho các chương trình
phòng chống tệ nạn xã hội và các chương trình phát triển khác. Như vậy, nội dung
của "vốn đầu tư phát triển khác" rất phong phú. Nó bao gồm tất cả các khoản đầu
tư tăng thêm cho:
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
- Chi phí cho công việc thăm dò; khảo sát, thiết kế quy hoạch ngành, quy
hoạch vùng lãnh thổ;
- Chi phí cho việc triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia
nhằm nâng cao sức khoẻ cộng đồng như: chương trình tiêm chủng mở rộng; chương
trình nước sạch nông thôn; chương trình phòng chống và thanh toán bệnh phong,
bệnh lao; chương trình sử dụng muối iốt, ;
- Chi phí cho việc thực hiện chương trình bảo vệ môi trường: chương trình phủ
xanh đất trống đồi núi trọc; chương trình trồng 5 triệu ha rừng; chưng trình bảo vệ
rừng đầu nguồn; chương trình bảo vệ động thực vật quý hiếm, Chi phí cho việc thực
hiện các chương trình phòng chống tệ nạn xã hội.
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình phổ cập giáo dục;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai, đào tạo
và bồi dưỡng nguồn nhân lực;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình kế hoạch hoá gia đình;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo
Việc đặt tên cho các chỉ tiêu một cách khoa học là điều cần thiết song việc
xác định chuẩn xác nội dung của từng chỉ tiêu lại là điều cần thiết hơn. Theo
chúng tôi vốn đầu tư để tăng TSCĐ và TSLĐ nên gọi là vốn đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư phát triển cộng với các loại vốn khác nên gọi là tổng vốn đầu tư -
hoặc tổng vốn đầu tư xã hội hoặc vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Việc xác định vốn đầu tư còn phụ thuộc vào phạm vi nghiên cứu. Trên giác
độ doanh nghiệp hoặc các đơn vị sản xuất kinh doanh thì các khoản đầu tư nào
đó của doanh nghiệp nhằm đem lại kết quả trong tương lai (lợi nhuận), chẳng

hạn như việc đầu tư vào mua sắm tài sản đã qua sử dụng; đầu tư vào bất động
sản; đầu tư vào cầm cố, thế chấp hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán thuộc
về vốn đầu tư nhưng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì nó lại không
thuộc về vốn đầu tư phát triển. Bởi vì, xét trên phạm vi toàn xã hội thì những
hoạt động này không làm tăng tổng vốn của quốc gia. Nó chỉ là sự chuyển dịch
từ đơn vị này sang đơn vị khác.
Tùy theo mục đích nghiên cứu, vốn ĐTPT có thể phân theo thành phần kinh
tế, ngành kinh tế, nguồn vốn, cấp quản lý và phân theo khoản mục đầu tư.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư phát triển
Vốn ĐTPT của một địa phương hay một quốc gia được hình thành từ
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Hai nguồn: trong nước và nước ngoài. Trong đó, nguồn vốn trong nước giữ vai trò
quyết định. Vốn nước ngoài đóng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của
địa phương hay NKT của quốc gia. Trước thực trạng: tốc độ tăng trưởng chưa cao,
thu nhập bình quân đầu người thấp và nguồn tiếp kiệm so với GDP còn hạn hẹp mà
nhu cầu về vốn ĐTPT ngày càng tăng, việc nghiên cứu đầy đủ các nguồn vốn ĐTPT
sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng những giải pháp huy động sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn vốn cho ĐTPT.
1.2.2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Bao gồm vốn đầu tư thuộc sở hữu nhà nước và vốn đầu tư của khu
vực ngoài quốc doanh.
a.Nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước:
Nguồn vốn này bao gồm: vốn ĐTPT thuộc ngân sách nhà nước (NSNN), tín
dụng ĐTPT của nhà nước và vốn ĐTPT của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
-Vốn ĐTPT thuộc NSNN: là một trong những nguồn vốn quan trọng trong
chiến lược phát triển KTXH của mỗi địa phương và của quốc gia. NSNN được hình
thành từ các khoản như: thu thuế và lệ phí, phát hành trái phiếu chính phủ, cho thuê
hoặc nhượng bán tài sản quốc gia, thu lợi tức cổ phần, thu về hợp tác lao động và

các khoản thu khác. Trong đó khoản thu từ thuế chiếm tỷ trọng cao nhất. Nguồn
vốn này thường được sử dụng cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội( KTXH); quốc phòng an ninh; hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước, nguồn vốn này còn được dùng để chi
cho công tác lập và thẩm định và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển
KTXH vùng lãnh thổ; quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nước ta không
ngừng gia tăng nên chi cho ĐTPT từ ngân sách cũng tăng lên đáng kể. Trong giai
đoạn 2001-2005 chi NSNN cho ĐTPT của cả nước là 274,4 nghìn tỷ đồng chiếm
khoảng 28% tổng chi NSNN.
- Tín dụng ĐTPT: đây là nguồn vốn có tác dụng tích cực trong quá
trình xóa bỏ bao cấp thực tiếp về vốn của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị
sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tác hoàn trả cả gốc lẫn lãi vay. Do đó,
chủ đầu tư phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, tìm các phương án sử dụng vốn một cách
hiệu quả nhất. Tín dụng ĐTPT của nhà nước còn được xem như công cụ quản lý và
điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư. Nhà nước khuyến khích
phát triển vùng, địa phương ngành và lĩnh vực theo định hướng chiến lược của
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Việc sử
dụng và phân bổ vốn tín dụng ĐTPT còn khuyến khích phát triển vùng kinh tế khó
khăn và giải quyết các vấn đề xã hội; đồng thời nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước còn có tác động tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giai đoạn 2001-2005 nguồn vốn ĐTPT của nước ta đạt khoảng 138,7 nghìn
tỷ đồng tương ứng với 12,6% trong tổng vốn đầu tư xã hội.
- Vốn đầu tư cảu DNNN; được xác định là thành phần kinh tế chủ
đạo nên các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Giai đoạn
2001-2005, vốn đầu tư của DNNN liên tục gia tăng về lượng nhưng tỷ trọng trong

tổng vốn đầu tư xã hội đã giảm. Tính chung cho cả 5 năm, nguồn vốn đạt 164,6
nghìn tỷ đồng và chiếm 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Với chủ trương tiếp tục đổi mới và sắp xếp lại DNNN của chính phủ, hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế này ngày càng rõ rệt. Vì
vậy, tích lũy của các DNNN cũng ngày càng gia tăng. Đây là nguồn vốn bổ sung
quan trọng vào tổng vốn đầu tư xã hội.
b. Nguồn vốn khu vực ngoài quốc doanh:
Nguồn vốn của khu vực ngoài quốc doanh được hình thành từ: phần tiết
kiệm của dân cư, phần tích lũy của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hợp tác
xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện đang nắm giữ một
khối lượng vốn tiềm năng rất lớn(tồn tài dưới dạng vàng, ngoại tệ, nội tệ) mà chưa
được huy động triệt để. Thực tế khi phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu của
một số ngân hang thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy
động được hàng nghìn tỷ đồng và hang chục triệu USD từ khu vực tư nhân.
Thực hiện chính sách đổi mới và cơ chế mở nhằm huy động mọi nguồn lực
cho đầu tư, trong những năm gần đây, các loại hình doanh nghiệp
này đóng góp ngày càng lớn vào tổng quy mô vốn đầu tư toàn xã hội. năm 2005,
vốn đầu tư của khu vực quốc doanh nước ta đạt 107,6 nghìn tỷ đồng( tăng 2,5 lần so
với năm 2001 và chiếm 33% tồng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm). Nguồn vốn
này đã đóng góp một phần rất lớn vào việc thực hiện thành công các mục tiêu phát
triển KHXH của đất nước.
1.2.2.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam hiện nay bao gồm ba
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
nguồn chính: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn hỗ trợ phát triển chính thức và
nguồn vốn tín dụng từ các ngân hang thương mại.
a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn rất quan trọng, đặc biệt là đối với các quốc gia đang

phát triển như Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ
bản khác với nguồn vốn nước ngoài là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát
sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi xuất trên vốn đầu tư nhà đầu tư sẽ
nhận được phần lợi nhuận khi dự án đầu tư hoạt động hiệu quả. FDI mang theo toàn
bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành
nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần
nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn FDI có tác động to lớn đối với quá trình CHN-HĐH,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cà đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông Á cho thấy rằng, đầu
tư trực tiếp nước ngoài đống vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của quốc gia
này. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn FDI tùy thuộc rất nhiều vào cách thức huy động,
quản lý sử dụng tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không chỉ là ý đồ của chủ đầu tư.
Đối với Việt Nam, cho đến nay các hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Tổng vốn đầu tư trực
Tiếp nước ngoài thực hiện giai đoạn 2001-2005 đạt 14,3 tỷ USD, tăng 40% so với 5
năm trước. Lượng vốn này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 82%,dịch vụ 13%, nông nghiệp 5%. Đây không những là nguồn bổ sung vốn
ĐTPT quan trọng, mà FDI còn đóng vai trò đáng kể vào NSNN, góp phần bù đắp
thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
b. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Nguồn vốn này bao gồm: viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi.

ODA không hoàn lại: là khoản viện trợ mà các chính phủ, các tổ chức tài
chính và tổ chức KTXH của các nước trợ giúp các quốc gia chậm phát triển thong
qua chương trình viện trợ không hoàn lại. Nguồn vốn này được ưu tiên sử dụng cho
các chương trình và các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực như: y tế, dân số, kế
hoạch hóa gia đình, giáo dục đào tạo và các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái, các công trình nghiên cứu, dự án phát triển, hỗ trợ ngân sách, hỗ trợ nhà nước
và một số lĩnh vực khác theo quy định của thủ tướng chính phủ.
ODA không hoàn lại có ưu điểm là không phải trả nợ nhưng nó thường đi

kèm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

ODA cho vay ưu đãi: là khoản cho vay của các chính phủ nước ngoài, các
tổ chức phát triển của liên hợp quốc như: chương trình phát triển của liên hợp
quốc(UNDP), quỹ nhi đồng liên hợp quốc(UNICEP), quỹ dân số liên hợp
quốc(UNFPA); các tổ chức chính phủ: EU, OECD; các tổ chức tài chính quốc tê,
ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB); các tập đoàn, công ty nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ (NGOs).
Tính chất ưu đãi của khoản vay này thể hiện ở việc: lãi xuất cho vay thấp hơn so với
lãi xuất thị trường, thời gian ân hạn dài. Ở nước ta, nguồn vốn ODA cho vay ưu đãi
được sử dụng cho các công trình xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng KTXH thuộc
các lĩnh vực như năng lượng, giao thong vận tải thông tin liên lạc, thủy lợi, cơ sở hạ
tầng khu công nghiệp và các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, y tế, cấp thoát nước.
Nguồn vốn ODA là sự hỗ trợ quan trọng mà cộng đồng quốc tế dành cho các
nước chậm phát triển, nó khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư đồng thời giúp nâng
cao khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển KTXH ở các quốc gia
này. Trong những năm qua, chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng nguồn vốn ODA bởi
tính ưu việt của nó. Năm 2005 đạt 3,75 tỷ USD đến nay 2009 đạt 5.015 USD điều này
thể hiện sự đồng tình và ủng hộ của các nước tài trợ, các tổ chức quốc tế và các tổ chức
phi chính phủ nước ngoài với đường lối và chính sách phát triển của Việt Nam.
c. Tín dụng thương mại quốc tế:
Tín dụng thương mại quốc tế là khoản tiền của các ngân hang thương
mại, các công ty, các cá nhân người nước ngoài cho chính phủ hoặc công ty trong
nước vay với lãi xuất thị trường. Hình thức này có đặc điểm là người vay được toàn
quyền sử dụng vốn vay mà không bị rang buộc bởi điều kiện chính trị, xã hội. Tuy
nhiên thủ tục vay đối với nguồn vốn này tương đối khắt khe, thời gian hoàn trả
nghiêm ngặt, mức lãi xuất rất cao. Chính vì vậy, nguồn vốn này cần được sử dụng

hết sức thận trọng, thường thích hợp với những dự án co khả năng sinh lãi cao và
thời giai thu hồi ngắn. Ở nước ta, nguồn vốn này còn hạn chế.
Tóm lại, để phát triển kinh tế đất nước thì nhất thiết phải có vốn đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư bao gồm cả vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trên cơ sở
nghiên cứu nguồn vốn này, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng những giải
pháp cơ bản nhằm khai thác triệt để, kết hợp hài hòa và sử dụng thật hiệu quả mọi
nguồn vốn ĐTPT.
1.3 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển
1.3.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Xã hội luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu
ngày càng tăng của con người với sự hạn chế của các nguồn lực đáp ứng. Điều đó
có nghĩa là tổng nhu cầu xã hội luôn cao hơn khả năng đáp ứng của NKT. Vì vậy,
cần có những giải pháp sử dụng tối ưu các nguồn lực có giới hạn trong từng thời kỳ
để tạo ra một khối lượng sản phẩm với cơ cấu và chủng loại hợp lý, nhằm thoải mãn
tốt nhất nhu cầu xã hội, điều này thể hiện rõ nét trong lĩnh vực ĐTPT. Quá trình
CNH-HĐH đất nước làm cho nhu cầu về ĐTXD ngày càng tăng và luôn vượt khả
năng đầu tư của NKT. Trước thực tế đó, một vấn đề đặt ra là phải sử dụng sao cho
có hiệu quả các nguồn vốn ĐTPT nhằm thoải mãn tối đa nhu cầu phát triển của toàn
xã hội.
Hiệu quả NKT nói chung, hiệu quả sử dụng vốn ĐTPT nói riêng là một
phạm trù kinh tế khách quan tồn tại do sự giới hạn của các nguồn lực. Yêu cầu sử
dụng hiệu quả vốn ĐTPT càng trở nên bức thiết hơn trong điều kiện thiếu vốn, thiếu
công nghệ diễn ra phổ biến ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Theo các nhà kinh tế, “Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư biểu hiện mối quan hệ
so sánh giữa các lợi ích thu được, bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội với khối
lượng vốn đầu tư bỏ ra”.
Lợi ích kinh tế của vốn đầu tư: biểu hiện mức độ hoàn thành các mục tiêu

kinh tế đã đặt ra nhằm đem lại lợi ích cho người bỏ vốn cũng như thỏa mãn nhu cầu
vật chất cảu xã hội. Do đó, nó thể hiện cụ thể thay đổi về khối lượng, chất lượng và
cơ cấu sản phẩm đồng thời biểu hiện sự thay đổi cán cân thương mại, mức lợi
nhuận thu được và chi phí sản xuất bỏ ra.
Lợi ích xã hội của vốn đầu tư: thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu khác
như: sự thay đổi về môi trường sống, điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe, giáo
dục, đào tạo, văn hóa thể thao và các mục tiêu chính trị an ninh,
quốc phòng và bảo vệ sinh thái….
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở tầm vĩ mô, các nhà quản
lý, các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
1.3.2.1 Các chỉ tiêu tài chính
- Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư (Hi): biểu diễn mối quan hệ so sánh
giữa mức tăng tổng sản phẩm quốc nội với vốn bỏ ra trong kỳ.
Hi =∆GDP/ I
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Trong đó: Hi : hiệu xuất vốn đầu tư trong kỳ
∆GDP: mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ
I : vốn đầu tư trong kỳ
Hi phản ánh tổng hợp hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng bỏ
vốn đầu tư bỏ ra trong kỳ sẽ mang lại bao nhiêu đồng tổng sản phẩm quốc nội tăng
lên trong kỳ. Tuy nhiên nhược điểm cơ bản của chỉ tiêu này là sự hạn chế về tính so
sánh được giữa tử số và mẫu số do mối quan hệ trực tiếp giữa mức tăng tổng sản
phẩm quốc nội và vốn đầu tư trong cùng thời kỳ là thiếu chặt chẽ. Vì vậy độ tin cậy
nó không cao.
Để hạn chế nhược điểm này, khi tính toán người ta tính Hi bằng tỷ lệ giữa
mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ với tổng số vốn đầu tư của kỳ trước.
Do đó ta có: Hi =∆GDPt / I(t-1)

- Hệ số gia tăng vốn – sản phẩm (ICOR): cho biết số vốn đầu tư cần thiết để
tạo ra một đơn vị tổng sản phẩm quốc nội tăng lên trong kỳ.
ICOR được xác định theo công thức:
k =∆K / ∆GDP
Trong đó: ∆K = Kt – K(t-1)
∆GDP là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ
Mặt khác, mục đích của đầu tư là tạo vốn sản xuất. Do đó, vốn sản xuất tăng thêm
sẽ được tính bằng vốn ĐTPT trong kỳ. ta sẽ có: It = ∆K
Do vậy ICOR= I/ ∆GDP
Trong đó: ICOR : tỷ lệ vốn ĐTPT và ∆GDP trong cùng một thời kỳ
I: vốn ĐTPT bỏ ra trong kỳ nghiên cứu
∆GDP: mức tăng tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ
Với ICOR không đổi có thể dẽ dàng xác định được tổng vốn đầu tư
Trong kỳ để đạt được mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội. ngược lại, với
số vốn đầu tư dự kiến thực hiện có thể biết mức tăng GDP trong tương lai.
Từ công thức trên ta cũng suy ra:
ICOR = I/ GDP/g
Với g là tỷ lệ tăng trưởng, nghĩa là muốn GDP tăng lên 1% thì cần bao
nhiêu phần trăm GDP dành cho đầu tư.
Hệ số ICOR đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn ĐTPT và xây dựng các kế hoạch kinh tế cho từng thời kỳ phát triển. Tuy nhiên
hệ số này cũng có nhiều hạn chế nhất định: thứ nhất, ICOR không tính đến độ trễ
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
thời gian của vốn đầu tư. Thứ hai, chưa xét ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào khác
như lao động, đất đai… và ảnh hưởng của các yếu tố ngoại ứng. Mặt khác, hệ số
ICOR phụ thuộc nhiều vào cơ chế chính sách của từng quốc gia cũng như từng
ngành, phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật và thay đổi theo quá
trình tăng trưởng kinh tế của mỗi thời kỳ. Do đó, khi sử dụng ICOR để đánh giá

hiệu quả đầu tư ở tầm vĩ mô cần lưu ý đến những đặc điểm quan trọng này.
-Hệ số huy động tài sản cố định (Hu): là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư quan trọng, nó phản ánh mối quan hệ giữa giá trị tài sản cố định hoàn
thành và đưa vào sử dụng trong kỳ với tổng số vốn đầu tư trong kì
Hu =FA /I
Trong đó: Hu hệ số thực hiện vốn đầu tư
FA: giá trị tài sản cố định hoàn thành và đưa vào sử dụng trong kỳ
I : tổng số vốn đầu tư trong kỳ
Hệ số này cho biết: một đồng vốn đầu tư trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng
giá trị tài sản cố định hoàn thành trong kỳ. Hu càng lớn thể hiện hiệu quả sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư càng cao.
-chuyển dịch cơ cấu kinh tế: được đánh giá thông qua tác động của việc sử
dụng vốn đầu tư tới sự thay đổi tỷ trọng trong cơ cấu giữa các ngành kinh tế theo
yêu cầu của từng thời kỳ với định hướng và hiệu quả đầu tư
trong từng ngành.
-Chỉ tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu: đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng
vốn đầu tư đến mức tăng giá trị xuất khẩu hang hóa mà các dự án đầu tư sản xuất ra.
- Chỉ tiêu tăng thu ngân sách: chỉ tiêu này sẽ đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư đối với vấn đề tăng thu NSNN trên địa bàn.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu xã hội
- Chỉ tiêu giải quyết việc làm cho người lao động: chỉ tiêu này nhằm đánh giá
tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đối với vấn đề thu hút thêm lao động và giảm
thất nghiệp trong xã hội.
- Các chỉ tiêu xã hội khác: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đối với sự phát triển
KTXH còn được đánh giá thông qua sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ
tầng sẵn có và bổ sung năng lực phục vụ mới nhờ ĐTXD thêm cơ sở hạ tầng. Đồng
thời, hiệu quả sử dụng vốn ĐTPT cũng được đánh giá thông qua việc thực hiện mục
tiêu giáo dục đào tạo, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống
nhân dân…
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B

20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
1.3.2.3 Các chỉ tiêu môi trường
Đó là các chỉ tiêu về tỷ lệ dùng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ được thu gom chất
thải, tỷ lệ che phủ rừng. Chỉ tiêu này nhằm đánh giá tac động của sử dụng vốn đầu
tư đến các vấn đề về môi trường.
Trên đây là hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ỏ
cả tầm vĩ mô và vi mô. Tùy theo mục đích nghiên cứu, việc đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư sẽ được lựa chọn ở cấp độ phù hợp. Trong khuôn khổ báo cáo này,
em chỉ nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô. Đó là cơ sở quan trọng để nghiên cứu và đề xuất
ra các giải pháp thích hợp nhất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển
1.3.3.1 Các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước:
Đây là nhóm nhân tố tác động rất mạnh mẽ tới hiệu quả sử dụng vốn
ĐTPT. Nó bao gồm nhiều chính sách định hướng phát triển như chính sách phát
triển công nghiệp, nông nghiệp, thương mại dịch vụ,các chính sách đầu tư… và các
chính sách điều tiết NKT như chính sách thuế, trợ cấp, lãi xuất, tỷ giá hối đoái…
Trong điều kiện NKT thị trường có sự điều tiết vĩ mô nhà nước, nếu có một
hệ thống chính sách hợp lý, đồng bộ sát với thực tế là tiền đề thuận lợi để xây dựng
cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phù hợp, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng đồng
thời hạn chế tới mức thấp nhất các hiện tượng tham ô, lãng phí, thất thoát vốn đầu
tư. Ngược lại, tính không đồng bộ, thiếu nhất quán cảu các chính sách sẽ gây cản
trở rất lớn tới các quá trình đầu tư, vì vậy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đạt thấp là
điều khó tránh khỏi.
1.3.3.2 Công tác tổ chức quản lý đầu tư và xây dựng:
Tổ chức quản lý ĐTXD là công việc phức tạp nhưng rất cần thiết.
Công việc này bao gồm nhiều nội dung quan trọng nhằm: (i) huy động tối đa và sử
dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn vốn cho ĐTPT, chống mọi hành vi tham ô, lãng
phí trong sử dụng vốn ĐTPT và khai thác các kết quả của đầu tư. (ii) thực hiện đúng
quy định pháp luật và yêu cầu kinh tế kỹ thuật trong lĩnh vực đầu tư, đảm bảo

ĐTXD theo đúng quy hoạch và kế hoạch được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ
quan. Áp dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng với chi
phí hợp lý.
Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn của nhà nước thì việc tổ chức
quản lý cần phải chặt chẽ và khoa học theo đúng trình tự, thủ tục ĐTXD. Hiện nay,
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
nhà nước quy định trình tự ĐTXD thành văn bản mang tính pháp chế để các cơ
quan, đơn vị, các tổ chức cá nhân liên quan đến quá trình đầu tư phải thi hành
Công tác tổ chức, quản lý ĐTXD bao gồm nhiều nội dung như: xây dựng cơ chế,
chính sách về quản lý quy hoạch, tiêu chuẩn và quy định về chất lượng công trình, kế
hoạch hóa đầu tư, phân loại dự án đầu tư, công tác chuẩn bị đầu tư, đấu thầu xây dựng,
quản lý thi công, kiểm tra giám sát công trình, thanh quyết toán vốn đầu tư.
Chất lượng của quá trình tổ chức quản lý ĐTXD ảnh hưởng rất lớn tới hiệu
quả sử dụng vốn ĐTXD. Thực tế cho thấy những yếu kém và thiếu sót trong công
tác quản lý ĐTXD là nguyên nhân chính dẫn đến thất thoát, lãng phí một khối
lượng vốn ĐTPT lớn, để lại hậu quả nặng nề, khó khắc phục cho NKT. Vì vậy, việc
nâng cao chất lượng công tác quản lý ĐTXD phải được quan tâm thích đáng. Đây là
trách nhiệm chung của toàn xã hội, của mọi tổ chức và cá nhân liên quan tới các quá
trình ĐTXD.
1.3.3.3 Chất lượng cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng, kỹ năng và
trình độ chuyên môn của người lao động:
Trong NKT nói chung và hoạt động ĐTPT nói riêng, con người vừa đóng vai
trò chủ thể, vừa là mục tiêu phát triển. với vai trò đó, con người đưa ra các chính
sách, biện pháp ĐTPT đồng thời trực tiếp tham gia vào việc thực hiện các biện pháp
đó nhằm đạt được mục tiêu của mình. Chính vì vậy, chất lượng của nguồn nhân lực
và hoạt động ĐTPT có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại với nhau. Ở đây,
nguồn nhân lực bao gồm cả đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trực tiếp. Nếu
có các nhà quản lý kinh tế, quản lý đầu tư giỏi, trình độ chuyên môn cao,người lao

động trực tiếp có kỹ năng thành thục đồng thời có thái độ và tác phong làm việc tốt
thì quá trình quản lý, thực hiện đầu tư cũng như vận hành khai thác kết quả đầu tư
sẽ đem lại hiêuh quả cao và ngược lại. Mặt khác, để có được nguồn lực như vậy thì
phải cần chú trọng công tác ĐTPT giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ.
Trên đây là những nhân tố cơ bản mang tính chủ quan tác động đến hiệu quả sử
dụng VĐT. Nghiên cứu những nhân tố này, các nhà quản lý, chủ đầu tư sẽ có những biện
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư một cách đồng bộ, phù hợp và khả thi.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Chương 2:
THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ Ở THANH HÓA
2.1 Tổng quan về điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Thanh Hóa
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lý
Tỉnh Thanh Hóa nằm ở cực Bắc Trung Bộ Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội
150km về phía nam cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km. Thanh hóa nằm trong
vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và những
tác động của các vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ, Nam Bộ. Vị trí địa lý của tỉnh
có những thuận lợi như sau:
- Đường sắt và quốc lộ 1A chạy qua vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Thanh
Hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu với các tỉnh và thành phố khác trong
nước. Đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và
miền núi trong nội tỉnh và các miền trong cả nước.
- Hệ thống sông ngòi của tỉnh Thanh Hóa phân bố khá đều với 4 hệ thống sông
chính, 5 cửa lạch thông ra biển và cảng Lễ Môn. Đặc biệt, việc xây dựng cảng nước
sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải 5 vạn DWT được xem như bước
đột phá làm thay đổi các luồng vận tải hàng hóa xuất khẩu trong toàn quốc.
- Sân bay Sao Vàng có khả năng mở rộng kết hợp dịch vụ dân dụng và sân
bay quốc tế đang được dự kiến mở thêm sát biển phục vụ cho khu kinh tế Nghi Sơn

và khách du lịch.
-Toàn bộ đặc điểm vị trí địa lý nêu trên trong bối cảnh phát triển dài hạn có
tác động hết sức mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh
Hóa trên các mặt sau:
- Tạo cơ hội và động lực quan trọng để phát triển trên cơ sở tạn dụng mạng
lưới kết cấu hạ tầng phát triển, sự hỗ trợ về đào tạo và chuyển giao
công nghệ từ các thành phố lớn.
- Tạo thuận lợi trong việc tiếp cận các thị trường tiêu thụ lớn, đặc biệt là thị
trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm, các sản phẩm công nghiệp…
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, Thanh Hóa cũng phải đối mặt với
thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ của các địa phương vốn có nền kinh
tế phát triển hơn Đà Nẵng…
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
Với những đặc điểm đó, để có thể hội nhập nhanh trên cơ sở phát huy cao độ
những giá trị truyền thống và tiềm năng sẵn có của tỉnh cùng với sự nỗ lực cao của
toàn thể cán bộ và nhân dân trong tỉnh.
2.1.1.2. Khí hậu và thời tiết
Thanh Hóa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai mùa rõ
rệt là mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa.
Chế độ nhiệt: Thanh hóa có chế độ nhiệt tương đối cao, nhiệt độ trung bình
23,7°C nhưng có sự khác biệt giữa các vùng. Vùng đồng bằng ven biển nhiệt độ cao
hơn vùng núi từ 0,5-1,5°C. Tổng tích ôn cả năm khoảng 8600 - 8700°C ở vùng
đồng bằng ven biển, giảm xuống còn 8000° và thấp hơn các vùng núi phía tây. Số
giờ nắng cao, trung bình 1310 – 1460 giờ/năm. Tháng có số giờ nắng cao nhất
(tháng 6) là 225 giờ. Tháng có số giờ thấp nhất (tháng 12) là 46 giờ.
Chế độ gió: Thanh Hóa chịu ảnh hưởng của 2 chế độ gió chính là gió mùa
đông bắc và gió phơn tây nam. Gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện vào mùa đông,
bình quân mỗi năm có khoảng 30 đợt gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh,

khô làm nhiệt độ giảm xuống từ 5 - 10°C so với nhiệt độ trung bình năm. Gió phơn
Tây Nam là một loại hình thời tiết đặc trưng cho mùa hè ở vùng Bắc Trung Bộ. Gió
phơn Tây Nam gây ra khí hậu khô, nóng và hanh, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và
đời sống nhân dân.
Chế độ mưa: Lượng mưa ở Thanh Hóa khá lớn, trung bình năm từ 1590-
2080 mm, nhưng phân bố rất không đều giữa hai mùa và lớn dần từ Bắc vào Nam
và từ Tây sang Đông. Mùa khô (từ tháng 11-4 năm sau) lượng mưa rất ít chỉ chiếm
15-20% lượng mưa cả năm, khô hạn nhất là tháng 1, lượng mưa chỉ chiếm 4-5mm/
tháng. Ngược lại mùa mưa (từ tháng 5-10) tập trung tới 80-85% lượng mưa cả năm.
Mưa nhiều nhất vào tháng 8, có 15-19 ngày mưa với lượng mưa lên tới 440-
677mm. Ngoài ra trong mùa này thường có giông bão, kèm theo mưa lớn trên diện
rộng gây úng lụt.
Tóm lại, là một tỉnh có diện tích rộng, có đủ các dạng địa hình nên Thanh
Hóa có khí hậu khá đa dạng và phân hóa mạnh theo không gian và thời gian. Lượng
mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sang dồi dào là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản
xuất nông lâm ngư nghiệp. Song các yếu tố khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là hạn hán,
bão lụt, gió nóng…ở đồng bằng ven biển phía Đông và lũ quét, lạnh giá và sương
muối…ở vùng phía Tây cũng gây trở ngại không nhỏ cho sự phát triển chung nhất
là sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển
2.1.1.3 Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất: Thanh hóa có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha,, gồm 10
nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau. Theo số liệu thống kê năm 2007, diện tích
đất sử dụng của Thanh Hóa là 958.513 ha, chiếm 85,19% diện tích tự nhiên, trong đó
đất đã sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp
553,999 ha; đất nuôi trồng thủy sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha, chiếm
13,81% tổng diện tích đất tự nhiên, với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây
lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. Hiện nay, đất nông

nghiệp chưa sử dụng còn nhiều. Đây là tiềm năng để phát triển sản xuất nông nghiệp
trên cơ sở cải tạo đất và giống để tăng năng suất cây trồng. Khai thác triệt để nguồn
tài nguyên này là điều kiện quan trọng để Thanh Hóa phát huy được thế mạnh nông
nghiệp, qua đó góp phần tích cực vào phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn.
- Tài nguyên rừng: Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng
lớn với diện tích đất có rừng 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hang
năm có thể khai thác 50.000- 60.000 m3. Rừng Thanh Hóa có nhiều loại gỗ quý
hiếm như lát, sa mu, lim xanh, táu, sén, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ…Diện tích luồng,
tre, nứa lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha, trữ lượng trên tỷ cây,
riêng luồng là 60 triệu cây.
- Tài nguyên biển: Thanh hóa có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài từ
cửa Đáy (tỉnh Ninh Bình) đến Đông Hồi (huyện Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng
lớn diện tích 1,7 vạn km2, có trữ lượng khoảng 100.000-120,000 tấn hải sản, với
nhiều loại hản sản có giá trị kinh tế cao. Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ, trong
đó 5 cửa lạch chính là: lạch Sung, lạch Trường, lạch Bạng, lạch Hới và lạch Ghép,
tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thủy, cho tàu đánh cá ra vào, là bến đậu, là
nơi tụ điểm giao lưu kinh tế, đã và đang trở thành cụm điểm, nhữn trung tâm nghề
cá của tỉnh. ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hang ngàn ha để nuôi
trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn song và sản xuất muối. Diện tích nước mặn
ở vùng biển đảo Mê, Biên Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng
chục ngàn ha nước mặn ven bờ để nuôi nhuyễn thể vỏ cứng ( ngao, sò)
Đây là sự ưu đãi lớn của tạo hóa giành Thanh Hóa, cần phát huy triệt để thế
mạnh tự nhiên để phát triển kinh tế.
- Tài nguyên nước ngọt: Thanh Hóa có nguồn tài nguyên nước phong phú.
Nguông nước mặt do bốn hệ thống sông chính (sông Mã, sông Bạng, sông Yên,
sông Hoạt) tạo ra với tổng diện tích lưu vực là 39.756 km2, tổng lượng nước trung
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
25

×