Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Chính sách kinh tế mới của Lênin Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.45 KB, 24 trang )















LUẬN VĂN:

Chính sách kinh tế mới của Lênin -
Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam














A. Mở bài

Chính sách kinh tế mới của V.I Lênin đã làm cho kinh tế nước Nga từ bị tàn phá
kiệt quệ trong nội chiến trở nên phát triển nhanh chóng. Nó đã củng cố liên minh giai cấp
công nông, tạo tiền đề ban đầu cho việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tế hiện nay của nước ta tuy không giống hoàn toàn như nước Nga hồi đầu
những năm 20 (thế kỷ XX) nhưng cũng không ít điểm chung đó là chúng ta cũng đang
thực hiện quá độ thực hiện nền kinh tế hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện thành công mục tiêu, chủ trương mà Đảng, Nhà nước ta đề ra đó thì
không thể không tham khảo kinh nghiệm của các nước XHCN đi trước để rút ra lý luận,
con đường cho riêng mình và thực tiễn đã chứng minh rằng: việc vận dụng sáng tạo chính
sách kinh tế mới (NEP) của Lênin vào hoàn cảnh nước ta là việc làm cần thiết, kết quả
của nó là nền tảng cho chúng ta thực hiện thành công CNXH. Nội dung của nó (thuế
lương thực, tư bản nhà nước, lưu thông hàng tiền, kinh tế nhiều thành phần ) rất phù hợp
với điều kiện hiện nay ở trong nước cũng như xu thế chung của thế giới (hợp tác hoá, đa
phương hoá ). Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “ Chính sách kinh tế mới của Lênin. Sự
vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”.
B. Nội dung

I/ Hoàn cảnh ra đời và nội dung của NEP.
1. Hoàn cảnh ra đời.
Cuối năm 1920, đất nước Xô Viết ra khỏi chiến tranh và chuyển sang giai đoạn xây
dựng trong hòa bình từ những điều kiện cực kỳ khó khăn. Nền kinh tế bị thiệt hại và sa
sút rất nghiêm trọng biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực sau:
* Nông nghiệp.
Diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản
lượng nông nghiệp năm 1920 chỉ bằng 60% năm 1913. Dân số là 137 triệu người bình
quân ngũ cốc đầu người năm 1920 là 246kg còn trước chiến tranh là 405kg.




* Công nghiệp.
Tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 so với năm 1917 giảm đi hơn 4 lần, số
người làm việc giảm gần 1/2. Do đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế
năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. So sản lượng năm 1920 với 1918
thì khai thác than đá giảm từ 731 triệu pút xuốn 476 triệu pút; đúc ngang giảm từ 31,5
triệu xuống 7 triệu pút; sản xuất thép mactanh giảm từ 24,5 xuống 10 triệu put Nguyên
liệu, vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp giảm xuống
tới 12,8% còn công nghiệp giảm xuống tới 44,1%.
Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp (từ 24,2% đến 52,3%).
* Giao thông vận tải.
Bị tàn phá nghiêm trọng; 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá cùng với 4.000
chiến cầu và các ga kho tàng. So với trước chiến tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920
chỉ còn 20%.
* Tài chính – Tín dụng.
Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1901 con
số bội chi lên tới 21.937 tỷ rúp. Mức dự trữ vàng của ngân hàng giảm sút nghiêm trọng.
Nếu năm 1914 mức đảm bảo vàng cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông là 98,2% thì
năm 1917 chỉ còn 6,8%. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả.
Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hơn 21 triệu lần so với năm 1913. Do đồng
rúp mất giá nhanh nên các địa phương đã tự tạo ra vật ngang giá khác nhau. Đồng thời,
xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần lên.
Do sản suất và lưu thông sa sút, nên đời sống nhân dân lao động càng thêm khó
khăn so với hồi chiến tranh.
Tiền lương thực tế của công nhân trước chiến tranh là 22 rúp đã giảm xuống 8,3 rúp
năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh nên tỷ lệ công nhân
mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà
máy đóng cửa sổ người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp
của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra.




Trong thời kỳ nội chiến, “chính sách cộng sản thời chiến” gây thiệt hại cho lợi ích
nông dân, tuy vậy, sự thiếu thốn khó khăn trong đời sống của nông dân và công nhân
trong thời kỳ ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần, vì quần chúng lao động sẵn sàng
lao động quên mình để góp vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và giữ vững
chính quyền nhân dân. Nhưng sau chiến tranh khi những hi vọng trông chờ vào việc cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất
mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lợi dụng lừa dối quần
chúng tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô Viết non trẻ.
Trước khi cách mạng thành công và thiết lập chuyên chính vô sản lần đầu tiên trên
trái đất thì tư tưởng mác – xít mới xem xét những vấn đề của thời kỳ quá độ về mặt lý
luận. Nhưng lúc này, sau khi thiết lập chuyên chính vô sản, người cộng sản vừa phải bắt
tay vào giải quyết những mâu thuẫn khách quan do điều kiện lịch sử ra đời của chủ nghĩa
xã hội ở nước Nga vừa giải quyết những sai lầm chủ quan trong lãnh đạo quản lý:
* Mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời của chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga trong đó chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời lại
không hoàn toàn giống như học thuyết C.Mác đã phân tích về mặt lý luận. Đặc điểm của
nước Nga là sự lạc hậu tương đối về kinh tế là quyên đặt giữa tư bản độc quyền hiện đại
với những tàn tích phong kiến. Lênin đã chỉ ra đặc điểm đó như sau: “ chế độ ruộng đất –
lạc hậu nhất cùng với tình trạng nông thôn thối nát nhất và một bên là chủ nghĩa tư bản
công nghiệp và tài chính tiên tiến nhất”
1
.
* Những sai lầm chủ quan của những người cộng sản cũng là một thực tế phái giải
quyết đồng thời với việc giải quyết mâu thuẫn khách quan.
Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng chính sách “cộng sản thời chiến” đã
hình thành quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp lên CNXH. Đã đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp vượt quá sức và đốt cháy giai đoạn:
- Nhanh chóng thực hiện “quốc doanh hoá”.

- Xoá bỏ thương nghiệp tư nhân.

1
V.I Lênin toàn tập T.16



- Phân phối cưỡng bức mọi nguồn nhân lực và tổ chức lao động tập trung kiểu quân
sự hoá.
- Nhà nước quản lý toàn bộ sản phẩm kể cả sản phẩm thừa
Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp trên mà không xem xét đến
đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do sự chi
phối của quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội nên tình trạng khủng hoảng
ngày càng nghiêm trọng: sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ
cung cấp của nhà nước tăng nhanh trong khi mức lương thực cung cấp ngày càng ít, thấp.
Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền
mặt càng tăng càng phải in và càng phải phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền càng
giảm. Số lượng giai cấp công nhân đã giảm hơn 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về
nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với chính sách của Đảng. Sai lầm trong
lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: liên minh công nông đứng
trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được củng cố, vai trò lãnh đạo của
Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn xã hội ngày càng xấu. Đại hội phải
có sự thay đổi cơ bản chính sách kinh tế. Và chính sách kinh tế mới của Lênin đã ra đời.
2. Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới.
a. Chính sách về thuế lương thực.
Trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi
sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn rất lớn
mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lương thực
là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời
sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Thực hiện thuế lương thực,

xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính
thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó. Việc bỏ
chế độ trưng thu lương thực bằng việc đặt ra thuế lương thực làm cho mỗi người nông
dân ai cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt mức đó. Nhà nước
thu thuế dễ dàng, thuận lợi; nông dân được khuyến khích sản xuất.
Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá độ từ "chủ nghĩa cộng
sản thời chiến" - chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng khốn cực độ, tình trạng



hoang tàn và chiến tranh để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường và
chế độ này lại là một trong những hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội với
những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên sang chủ
nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa “cộng sản thời chiến” có điều này đặc biệt là thực tế chúng ta lấy ở nông
dân tất cả những lương thực thừa của họ và có khi những thứ không phải là thừa mà là
một phần những sản phẩm cần thiết cho sự sinh sống của họ, để cung cấp cho nhu cầu
của quân đội và để nuôi sống công nhân.
Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một
nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm
công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách thuế lương thực mới
phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản , chỉ có chính sách đó mới có thể tăng cường
được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến chỗ toàn thắng.
Việc thay chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực ổn định, việc
cho nông dân quyền tự do lựa chọn hình thức sử dụng ruộng đất, kể cả rút ruộng đất ra
khỏi công xã nông thôn, việc cho phép mặc dù còn có những hạn chế nhất định, thuế
ruộng đất và thuế sức lao động – tất cả những cái đó đã tạo điều kiện để tăng cường tính
tích luỹ kinh tế ở nông thôn, là đòn neo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau
chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế.
b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp

thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông
nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào một nền nông
nghiệp hàng hoá. ý nghĩa và tác dụng cần có thuế lương thực không thể phát huy được
trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp vì số nông sản thừa tăng lên một mức độ nào đó
nếu không có trao đổi thì có mất tác dụng kích thích.
Cơ chế kinh tế hàng hoá sẽ đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng
của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá thúc đẩy quá trình phân công lao
động trong nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ
đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển.



Kinh tế hàng hoá là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách
vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân lợi hơn,
nên vừa mở rộng diện tích canh tác vừa thâm canh nhờ đầu tư thêm vốn và lao động.
Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp làm sống động lại các ngành
kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Để thực hiện được cơ chế
hàng hoá trong nông nghiệp thì phải giải quyết 2 vấn đề:
- Lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân?
- Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới thực hiện
được chính sách kinh tế mới nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng tư
bản chủ nghĩa.
Lênin đã có quan điểm về vấn đề này như sau:
+ Sự phát triển của trao đổi tư nhân của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không
tránh được. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng. Nhưng
không được coi thường buông lỏng sự kiểm tra; kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng
tư bản chủ nghĩa. Muốn vậy phải sử dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin còn đề xuất là phải nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự
củng cố khu vực kinh tế nhà nước có hiệu quả.

c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và
nông dân.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công
nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Để thực hiện điều đó quá trình khôi
phục sản xuất công nghiệp cần theo các hướng sau:
- Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ. Đây là một tất yếu khách quan vì
điều kiện rất khó khăn lúc bấy giờ.
- Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cần đối với nguồn tài chính, nguyên liệu
và nhiên liệu.
Đến cuối năm 1992, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc
hữu hoá trước kia số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô nhượng.
Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí nghiệp tiên



tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kết quả trong thời
gian 1921 – 1924, tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh đã tăng hơn 2 lần, sớm phát
huy vai trò của nó trong nền kinh tế.
- Bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp: Trước hết là khôi phục công nghiệp
nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu
và tiêu thụ sản phẩm.
- Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế
theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.
Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
những hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhượng trong công nghiệp,
hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà
nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu
rừng. Thực chất của các hình thức đó là những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia tưởng từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội.

d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới.
Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị
trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên có cân nhắc và được xây dựng
trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường
và lưu thông tiền tệ.
Như vậy từ năm 1921, quan điểm đổi mới lĩnh vực lưu thông hoàn toàn khác với
quan điểm trong thời kỳ trước là quan điểm đòi xoá bỏ thương nghiệp và lưu thông hàng
hoá.
Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển nền kinh
tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và
bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó nội thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm
vững trong dây chuyền quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế.
Mục đích cao nhất của chính sách kinh tế mới ở bước ngoặc cách mạng là thiết lập
liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp



lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng
chục triệu nông tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công
nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động thương nghiệp thì không
thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông.
e. ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô - viết.
Công tác tài chính được thực hiện theo các biện pháp như: Kiểm kê và kiểm soát có
tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của xí nghiệp; Kiểm soát việc chi tiêu, hạn
chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy. Nhà nước chủ trương tổ chức tài chính
quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiết lập quan hệ kinh tế mới giữa thành thị và nông thôn.
Chính sách tài chính quốc gia thống nhất dựa trên quan điểm tập trung tài chính, tập
trung lực lượng của quốc gia cho cuộc cải cách vì lợi ích của người lao động.
Quan điểm về tập trung tài chính của Lênin không mâu thuẫn với yêu cầu phát huy
quyền chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của các tổ chức Xô Viết địa

phương.
Nhà nước tiến hành đổi đơn vị tiền tệ.
Lần thứ nhất vào đầu năm 1922, với tỷ lệ 1 rúp mới năm 1922 bằng 10 nghìn rúp
cũ. Đến lần thứ hai vào năm 1923 là 1 rúp bằng 100 rúp năm 1922. Qua hai lần đổi tiền
đã nâng đồng rúp lên 1 triệu lần đồng thời mở rộng phát hành tín phiếu. Bên cạnh việc
đổi tiền tháng 10/1922 nhà nước phát hành giấy bạc ngân hàng, gọi là đồng “checvônet”
được bảo đảm không dưới 25% bằng vàng và bằng ngoại tệ.
Đồng “checvonét” nhanh chóng được chấp nhận và có vị trí vững chắc trong lưu
thông, bởi vì một mặt nó được bảo đảm bằng vàng mặt khác nó còn có vật tư và hàng hoá
của các tổ chức kinh tế quốc doanh bảo đảm giá trị. Nhờ đó, nó trở thành một đồng tiền
mạnh, đủ đẩy vàng và ngoại tệ ra khỏi lưu thông. Nó trở thành cơ sở tiền tệ ổn định làm
thước đo giá trị cho việc thực hiện hạch toán kinh tế, xác định giá thành giá cả cho việc
thanh toán giữa các tổ chức kinh tế với nhau.
II/ Sự vận dụng chính sách kinh tế mới của VI.Lênin ở Việt Nam.
1.Thực trạng kinh tế Việt Nam.



Sau khi dành được độc lập (1945) nước ta phải đương đầu với một nền kinh tế lạc
hậu, nông nghiệp yếu kém. Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm diễn ra khắp nơi.
Nhân dân chết đói (2 triệu năm 1945), ruộng đất bị bỏ hoang. Nền tài chính non yếu, Nhà
nước ta chưa có đồng tiền riêng. Cộng với chế độ quan liêu bao cấp hách dịch cửa quyền
( trong những năm 70- 80), đã làm cho nền kinh tế nước ta trong mỗi thời kỳ có những
khó khăn riêng đòi hỏi phải có sự thay đổi, cải tiến vận dụng các chính sách kinh tế đã
được ứng dụng thành công ở các nước XHCN đi trước.
Qua mỗi giai đoạn, nền kinh tế nước ta có những khó khăn riêng. Chiến tranh chống
Mỹ làm cho chúng ta không có điều kiện để đầu tư phát triển kinh tế. Hoà bình lập lại
(1975) thì có các chính sách hành chính chưa phù hợp. Nhiều cơ quan nhà nước nhũng
nhiễu dân chúng, quan liêu, xa rời nhân dân. Các chính sách kinh tế chỉ tồn tại trên giấy
tờ với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thâm hụt

vào vốn. Do không thừa nhận các quy luật kinh tế vốn có nên nền kinh tế nước ta trước
đổi mới (1986) rất trì trệ, yếu kém. Đó là một nền kinh tế công nông nghiệp lạc hậu, lực
lượng sản xuất chưa theo kịp quan hệ sản xuất. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta
phải nhập lương thực, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn. Do đó việc áp dụng chính
sách kinh tế mới đã thành công ở nước Nga nước có một số đặc điểm giống Việt Nam là
điều hết sức cần thiết.
2. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam.
a. áp dụng NEP trong giai đoạn 1960 – 1975.
* Trong giai đoạn này nước ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (miền Bắc).
Công cuộc cải tạo cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cải tạo những quan
hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó
mẫu chốt là cải tiến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở
đường cho sức sản xuất phát triển. ở miền Bắc nước ta, công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa bao gồm cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân, cải tạo nông nghiệp, cải
tạo thủ công nghiệp và cải tạo tiểu thương, trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính
vì nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng, nông dân lao động là một lực lượng sản
xuất to lớn.



Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chúng ta dùng con đường
hợp tác hoá nông nghiệp kết hợp cải tạo quan hệ sản xuất với cải tiến kỹ thuật và giáo
dục tư tưởng, đi từ tổ đội công đến hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã sản xuất bậc cao, từ
hợp tác xã nông nghiệp quy mô nhỏ đến hợp tác xã quy mô lớn để biến nông dân cá thể
thành nông dân tập thể. Trong việc cải tạo công thương tư bản tư nhân, căn cứ vào điều
kiện cụ thể của nước ta, chúng ta chủ trương cải tạo hoà bình công thương nghiệp tư bản
tư nhân theo chủ nghĩa xã hội: dùng chính sách sử dụng, hạn chế và cải tạo, chính sách
chuộc lại và trả dần đối với tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thông qua các hình thức
gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác;

kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính giáo dục.
Con đường hợp tác hoá thủ công nghiệp của ta là thông qua các hình thức tổ hợp
tác, hợp tác xã cung tiêu sản xuất và hợp tác xã sản xuất, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo
quan hệ, sản xuất với việc cải tiến sức sản xuất. Còn đối với thương nghiệp nhỏ, chúng ta
chủ trương dùng các hình thức hợp tác như tổ hợp tác mua bán, tổ hợp tác vừa mua bán
vừa sản xuất, cửa hàng hợp tác… và chuyển dần bộ phận lớn những người buôn bán nhỏ
sang sản xuất. Đến cuối năm 1960 Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã căn
bản được hoàn thành: 85,5% số hệ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp theo hình
thức thấp và quy mô nhỏ (33 ha ruộng đất và 68 hộ một HTX) gần 100% số hộ tư sản
thuộc diện cải tạo đã được cải tạo; 87,9% thợ thủ công đi vào con đường làm ăn tập thể;
45,6% số tiểu thương vào HTX, chuyển được 11.000 người sang sản xuất và một số ít
người được tuyển vào làm nhân viên mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán.
Thắng lợi trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa lịch sử to lớn: quan
hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa được xác lập một cách phổ biến (nhưng chủ yếu mới thay
đổi được quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất); chế độ người bóc lột người đã căn bản bị
xoá bỏ, lực lượng sản xuất đã được giải phóng và đang trên đà phát triển. Giai cấp nông
dân tập thể được hình thành, khối công nông liên minh được củng cố, chuyên chính vô
sản được tăng cường.
Tuy nhiên, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã có những biểu
hiện chủ quan nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh
chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; một số nơi gần như cưỡng bức nông



dân đi vào hợp tác xã, khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất vừa được
chia.
* Thực hiện một bước công nghiệp hoá XHCN.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nước ta. Chủ trương công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội
Đảng lần thứ Iii đề ra như: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện

đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có
công nghiệp hiện đại”
Để thực hiện chủ trương trên, nhà nước đã dành 48% số vốn đầu tư xây dựng cơ
bản để xây dựng công nghiệp, trong đó tới 78% dành cho công nghiệp nặng. Với số vốn
đó ta đã xây dựng được một số công trình lớn của kế hoạch này: khu ngang thép Thái
Nguyên, nhà máy điện uông bí, hoá chất Việt Trì, Supe phot phát Lâm Thao.
Các phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ta rầm rộ và sôi nổi ở
khắp các ngành, các địa phương như “thi đua một người làm việc bằng hai”, “gió đại
phong”, phong trào “ba tốt” trong thương nghiệp.
Do đó trong giai đoạn này giá trị sản lượng công nghiệp và nông nghiệp đều có
bước tăng trưởng vưọt bậc, chi viện cho tiền tuyến.
b. áp dụng NEP vào Việt Nam giai đoạn 1975 –1986.
Trước hết là vấn đền củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền Bắc. Do có sự
khủng hoảng của mô hình tập thể hoá nông nghiệp trong giai đoạn 1976 –1980 nên tháng
1-1981 Ban bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm
va người lao động.
Sự ra đời của chỉ thị 100 rất phù hợp với thực tiễn khách quan, bởi vì vào cuối
những năm 70 nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn gay gắt:
năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm; sản xuất không đủ tiêu dùng; thu nhập và
đời sống của xã viên bị bấp bênh và giảm sút; trên 70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc
loại trung bình và yếu kém; nhiều hợp tác xã nằm trong tình trạng bị tan rã; nông dân bỏ



ruộng đồng; không thiết tha gắn bó với hợp tác xã. Trước tình hình đó, ở một số địa
phương, có hợp tác xã đã phải khoán “chui” đối với hộ gia đình dưới các hình thức khác
nhau.
Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động là một hình thức quản lý

tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu còn là thủ công và là hình thức
biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tíh chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Chỉ thị 100 đã có tác dụng gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của người lao động với
sản xuất phẩm cuối cùng. Còn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã phát huy được tốt hơn
khả năng lao động, tạo ra những khí thế lao động sôi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn
và vật tư, chú trọng các biện pháp thâm canh, tăng năng suất, tăng thu nhập, giải quyết tốt
việc kết hợp ba lợi ích; cho nên chỉ thị đó nói chung đã là một động lực đối với việc phát
triển sản xuất nông nghiệp.
Đồng thời với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
nông nghiệp ở miền Bắc, Đảng và nhà nước còn tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp ở miền Nam.
Sau giải phóng 1975, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến đổi sâu sắc, đại bộ phận
ruộng đất đã về tay nông dân, quan hệ sản xuất phong kiến không còn là trở lực lớn trên
con đường tiến lên của xã hội miền Nam. Do đó, ở đây chúng ta không cần tiến hành cải
cách ruộng đất như ở miền Bắc mà chủ yếu là việc xoá bỏ những tàn dư thực dân và
phong kiến về ruộng đất. Sau đó tiến hành công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp ở miền
Nam được tiến hành.
Một vấn đề quan trọng trong quá trình tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp ở miền
Nam là hợp tác hoá đi đôi với thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đó là điều khác với miền Bắc
– hợp tác hoá di trước cơ giới hoá.
Trong thời kỳ này Đảng và nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển công
nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH công cuộc công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa vẫn được tiếp tục đẩy mạnh. Nội dung chính của vấn đề nông
nghiệp coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất
lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành



công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp với nông nghiệp và công nghiệp trong một cơ cấu

công nông nghiệp hợp lý.
c. áp dụng NEP từ 1986 đến nay. Một số giải pháp.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam
đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặc quan trọng trong công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới đó là một cuộc cách mạng, mỗi bước đi của nó là
một sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm cơ sở lý luận nền tảng cho sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ này, trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN chính sách kinh tế mới và những tư tưởng
cơ bản của Lênin đã được chúng ta nhìn nhận lại với hoàn cảnh lịch sử cụ thể cuả mình.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước phong kiến với nền nông nghiệp
lạc hậu, lực lượng sản xuất yếu kém thì chưa thể xây dựng quan hệ sản xuất XHCN lớn
ngay được. Chính vì vậy cần phải có một thời gian quá độ để xây dựng cơ sở hạ tầng, vật
chất tiên tiến, lực lượng sản xuất tiến bộ. Và chính sách kinh tế là một cơ sở lý luận là
công cụ thực hiện quá độ có vai trò rất quan trọng đã được Đảng ta vận dụng.
Đại hội Đảng VI đã chỉ rõ nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng, chủ quan duy
ý chí của chủ trương ‘tiến nhanh tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội trong những năm trước
đổi mới ở nước ta. Khi đó, với mục đích đúng đắn là nhanh chóng nâng cao hiệu quả của
sản xuất nông nghiệp; song biện pháp và bước đi lại quá vội vàng, chúng ta đã quá vội
tiến hành hợp tác hoá và xây dựng các hợp tác xã bậc cao, bất chấp quy luật phát triển
khách quan của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của
nước ta và do vậy kết quả mang lại đã không được như ý muốn. Chúng ta đã thiếu quan
tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và có lẽ phần nào đã không đánh
giá đúng một luận điểm quan trọng của VI. Lênin trong chính sách kinh tế mới – luận
điểm về tính không khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu quả của việc
làm đó không chỉ ở chỗ, sản xuất nông nghiệp không phát triển mà còn ở chỗ sản xuất
nông nghiệp không phát triển, mà còn ở chỗ, niềm tin của người nông dân vào con đường
làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút do lợi ích kinh tế của hệ không được đáp ứng đời




sống của họ ít được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và lĩnh vực sản xuất khác, tình
hình cũng diễn ra một cách tương tự như vậy.
Thực tiễn cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy
kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đối phó với tình hình. Bởi vậy, đổi mới tư duy,
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là bước chuyển
có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển rút ngắn với hình
thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước XHCN trước đây cho
thấy rõ, chính sách kinh tế mới là mẫu mực về giải pháp tình thế và đối với nước ta.
Chính sách kinh tế mới còn là đường lối mang tính chiến lược là cái đem lại cho chúng ta
cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy, những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới nói
chung, quan niệm của ông về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nướ, thi hành chế độ hợp
tác xã, cho phép tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở
điều tiết nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nói riêng vẫn giữ nguyên
giá trị và ý nghĩa lớn lao của nó trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã
khẳng định là phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ
nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ những nấc thang trung gian đa
dạng, phù hợp với hoàng cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một
cách vững chắc.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII một lẫn nữa khẳng định đường lối đổi
mới mà chúng ta đã thực hiện trong 10 năm qua và cụ thể hoá đường lối đó, Đảng đã chỉ
rõ định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc cây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước

ta hiện nay là: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá



nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài cho công nghiệp háo hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ
đổi mới tư duy mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta ngày càng ý thức rõ vị trí,
vai trò và ý nghĩa quan trọng của chính sách kinh tế mới trong giai đoạn thực hiện bước
quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội tiểu nông với chính sách kinh tế mới chúng ta đac
nhận ra rằng nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm đã mắc phải trong việc lãnh đạo và
quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới là đã xa rời những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin
về chính sách kinh tế mới ở một mức độ nhất định nào đó. Rằng đó là những sai lầm do
chủ quan, duy ý chí, bất chấp và coi thường quy luật khách quan. Nhưng sai lầm đó hoàn
toàn có thế tránh được, có thể sửa chữa được một khi nắm vững những tư tưởng cơ bản
của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới.
Trong bối cảnh hiện nay việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa là
một tất yêú khách quan.
Vận dụng mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà một trong những
nhiệm vụ cụ thể trước mắt là giải quyết một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ qua lại
giữa nhà nước và nông dân trong bối cảnh của nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn
coàn là sản xuất nhỏ, lạc hậu, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông
nghiệp nhằm củng cố liên minh kinh tế công nông đã được hình thành từ lâu trong tiến
trình phát triển cách mạng ở nước ta, tạo điều kiện để nâng cao dần mức sống và chất
lượng sống cho quần chúng nhân dân.
Vận dụng chính sách kinh tế mới đòi hỏi phải sử dụng đúng đắn quy luật giá trị,
quan hệ hàng tiền, tạo hành lang pháp lý, tự do buôn bán và kinh doanh tư nhân trên cơ

sở thiếp lập sự điều tiết của nhà nước ở mức độ hợp lý. Thêm vào đó, về mặt phương
pháp lãnh đạo và quản lý kinh tế, chúng ta cần dứt khoát từ bỏ phương pháp lãnh đạo và
quản lý theo lối mệnh lệnh hành chính, từ bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp để
chuyển sang phương pháp hạch toán kinh tế là chủ yếu, lấy hiệu quả kinh tế làm chính,



trên cơ sở kết hợp giải quyết một cách có căn cứ lý luận và thực tiễn những vấn đề cấp
bách với những vấn đề mang tính chiến lược lâu dài.
Khẳng định quan điểm vận dụng một cách sáng tạo và phát triển hơn nữa những tư
tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới nhằmg mục đích sáng tạo ra nhiều
hình thức quá độ, những nấc thang trong gian đa dạng, phù hợp với bối cảnh của công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã tiến hành
thảo luận dân chủ nghiêm túc trên cơ sở khái quát lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
và đi đến quyết định thực hiện chủ trương.
* Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở
thành nền tảng tạo điều kiện kinh tế pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên
tâm đầu tư, làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà
nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. áp dụng phổ biến các hình
thức kinh tế tư bản nhà nước.
Trong bối cảnh mở cửa, giao lưu, hợp tác khu vực và quốc tế ngày càng mở rộng và
có chiều sâu; sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản nhà
nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chẳng những giúp chúng ta đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng tụt hậu về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động nước ta và góp phần cải thiện đời sống của họ.
Chiến lược phát triển lấy công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực, thiết nghĩ không thể không phát triển kinh tế tư
bản nhà nước.

* Ngoài hình thức kinh tế tư bản nhà nước chúng ta có thể áp dụng quan hệ hàng
hoá tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trình độ sản xuất hàng hoá không đồng đều trải rộng từ trình độ trao đổi giản đơn ở
nông thôn đến trình độ sản xuất lớn của xí nghiệp ở thành thị. Sản xuất hàng hoá nhỏ
đang chiếm ưu thế so với sản xuất hàng hoá lớn. Sản xuất hàng hoá nhỏ trong công
nghiệp và nông nghiệp đang đáp ứng 80 - 90% nhu cầu hàng hoá của xã hội. Ngay trong



các thành phố lớn và hàng xuất khẩu, sản xuất hàng hoá nhỏ vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn.
Đặc điểm này đòi hỏi chú ý vận dụng các hình thức quan hệ hàng - tiền thúc đẩy sản xuất
hàng hoá nhỏ phát triển và hình thành hệ thống phân công lao động và quan hệ trao đổi
sản xuất hàng hoá lớn. Hiện nay lưu thông hàng hoá còn chiếm ưu thế so với sản xuất
hàng hoá. Do điểm xuất phát là nền nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tự cung tự cấp còn lớn,
nên sự phát triển của lưu thông và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hoá là hợp quy
luật, phát triển ngoại thương để thúc đẩy kinh tế trong nước là tính quy luật phát triển
nước ta.
* Cuối cùng, vấn đề vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay là cần phải
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước vững mạnh, có
hiệu quả.
Đây cũng là yêu cầu để phát huy năng lực sáng tạo, tính chủ động của quần chúng
nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, động viên họ tham gia trực tiếp
vào công tác quản lý, về sự khắc phục triệt để mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu
trong các tổ chức Đảng và chính quyền trong những năm thực hiện chính sách kinh tế
mới hiện vẫn là cơ sở để chúng ta khẳng định tính đúng đắn của sự kết hợp đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nhưng tư tưởng đó
của V.I.Lênin cho thấy rõ, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính có quan hệ biện chứng,
có sự tác động qua lại lẫn nhau, là tiền đề, là điều kiện của nhau và do đó ngay từ đầu
giữa chúng phải có sự kết hợp chặt chẽ, trong đó đổi mới kinh tế phải được coi là trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

III/ Một số thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, với 2 kế hoạch 5 năm từ 1986
đến nay nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng
cụ thể như:
1. Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định.
Đặc biệt 5 năm (1991 - 1995) lần đầu tiên hoàn toàn thành vượt mức nhiều mục tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm:
Bảng nhịp độ tăng trưởng GDP (%).




1986 4,0 1991 6,0
1987 3,9 1992 8,6
1988 5,1 1993 8,1
1989 8,0 1994 8,8
1990 5,1 1995 9,5
Tính chung trong 5 năm, GDP tăng hàng năm 4,9% (thời kỳ 1986 -1990) và 8,2%
(thời kỳ 1991 - 1995) - kế hoạch đề ra là 5,5 - 6,5%.
Cũng trong 5 năm (1991 -1995) hàng năm nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp
13,5%, kim ngach xuất khẩu tăng 20%. Nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2
thế giới.
2. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ trong GDP đã tăng từ 22,6% (1990) lên
30,3% (1995) tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 42,5%, tỷ trọng nông nghiệp đã giảm từ
40,6% (năm 1990) xuống còn 36,2% (năm 1994). Cơ cấu các thành phần kinh tế trong
GDP cũng có sự chuyển đổi từ quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng vai trò
chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường: tỷ trọng kinh tế quốc doanh trong
GDP từ 29,4% (năm 1990) lên 40,4% (năm 1994).
3. Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát.

Trong những năm 1986 -1988 nạn lạm phát đã tăng với 3 con số giảm xuống còn 2
con số (riêng năm 1993 xuống một con số) trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá
cao.
Bảng: tăng trưởng kinh tế và lạm phát (%).
Chỉ tiêu 198
6
198
7
1988 1989 1990 1991 199
2
199
3
199
4
199
5
Tăng
trưởng
4 3,9 5,1 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5



Lạm phát 774,
7
223,
1
393,8 34,7 67,4 67,6 17,6 5,2 14,4 12,
7
Đến nay nạn lạm phát được kiềm chế ở mức tương đối ổn định.




C. Kết luận

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử, là thời kỳ diễn ra những
cải biến cách mạng sâu sắc và toàn diện đòi hỏi chúng ta phải trải qua những bước
đi trung gian, quá độ khác nhau. Thực tiễn của hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước đã cho chúng ta thấy rõ từ một nước nông nghiệp lạc hậu không thể
quá độ thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta cần thực hiện tốt kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các quy luật của hàng
hoá tiền tệ. Đẩy mạnh hình thức kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước nhằm thu
hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Đổi mới tư duy kinh tế, trau dồi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng là vấn đề không kém phần quan trọng. Bài học kinh nghiệm xương máu của
việc tiến hành "công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa" trong nhiều năm trước đổi mới
cũng cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Chính vì vậy trong thời đại ngày nay con đường đưa nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội một cách vững chắc không thể là con đường nào khác ngoài việc vận dụng và
tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư
tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, nhằm sáng tạo ra nhiều hình thức quá
độ, nhiều nấc thang trung gian phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta.
Việc vận dụng và phát triển chính sách kinh tế mới một cách sáng tạo cần phải được
coi là cơ sở lý luận của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước, của giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày nay.



Tài liệu tham khảo


1. C.Mác - Tư bản quyển 1. tập 3. Nxb Sự thật 1982.
2. Lên nin - Lênin toàn tập. Bàn về thuế lương thực
3. Lênin - Kinh tế chính trị trong thời kỳ cách mạng vô sản.
4. Văn kiện Đại hội Đảng III, V, VI, VII, VIII, IX (dự thảo).
5. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
6. Giáo trình kinh tế chính trị: Nxb Giáo dục 1998.
7. Nguyễn Tiến Long. Bài giảng kinh tế chính trị.
8. Tập thể tác giả: Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay. Viện Triết học 1990.
9. GS - TS Nguyễn Trí Dĩnh. Lịch sử kinh tế quốc dân. Nxb Giáo dục 1999.
10. Tạp chí cộng sản số 8 - 1987.
11. Ambaroxunop: Chính sách kinh tế mới qua lăng kính của thời đại hiện
nay. Nxb Sự thật, Hà Nội 1989.
12. I. Bungdalop: NEP: cái quá khứ và cái cần thiết cho chúng ta hiện nay.
(Bản dịch Viện Thông tin Khoa học hội 3/90).
13. Tạp chí Triết học số 3 tháng 6/1996. Những luận chứng của Lênin cho
chính sách kinh tế mới.
14. Trần Ngọc Hiên: Chính sách kinh tế mới của Lênin. Sự vận dụng ở nước
ta.



Mục lục

Trang
A. Mở bài.

B. Nội dung.
I. Hoàn cảnh ra đời và nội dung của NEP.
1. Hoàn cảnh ra đời.

2. Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới.
a. Chính sách về thuế lương thực.
b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.

c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu
của nông nghiệp và nông dân.

d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới.
e. ổn định tiền tệ củng cố nền tài chính Xô Viết.
II. Sự vận dụng chính sách kinh tế mới của VI. Lênin ở Việt Nam.
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam.
2. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam.
a. áp dụng NEP trong giai đoạn 1960 - 1975.
b. áp dụng NEP vào Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986
c. áp dụng NEP từ 1986 đến nay.
III. Một số thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới.
1. Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định.
2. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
3. Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát.



C. Kết luận.
Tài liệu tham khảo



×