Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản ở việt nam hiện nay - phương hướng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.29 KB, 67 trang )

1
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt
động sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con người, là
phương tiện quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi
dân tộc ở mọi thời đại. Mặt khác, từ khi xã hội loài người phân chia thành giai
cấp thì xuất bản không chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật
chất của con người mà còn mang tính giai cấp ngày càng rõ rệt, là nguồn lực
và vũ khí sắc bén của đấu tranh giai cấp.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta
luôn thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nước Việt
Nam và một loạt các điều luật, hệ thống văn bản dưới luật lần lượt ra đời
nhằm xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trường thuận lợi
cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng, trên nền táng luật pháp. Tuy
nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống
pháp luật nhiều năm tồn tại đã dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, chưa
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn đã chứng minh việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt
động xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hoá - tư
tưởng, đồng thời cũng chính là điều chỉnh hoạt động văn hoá - tư tưởng trong
cơ chế thị trường. Bài viết sau đây có thể phần nào khái quát về pháp luật xuất
bản ở Việt Nam, một lĩnh vực hoạt động đa dạng và hết sức phong phú.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học quản lý,
đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo TS.Bùi Đức Thọ đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ
em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề.
2
3
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm có hạn


nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp và phê bình của các thầy cô.
Hà nội, tháng 4 năm 2008
3
4
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
BẰNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN
1. Nhận thức chung về xuất bản
Để có những nhận thức chung và thống nhất về xuất bản, mà ở đó các
quan hệ xã hội được hình thành, tạo nên đối tượng điều chỉnh của pháp luật
xuất bản, phần này được trình bày khái quát từ khái niệm, đến vị trí, vai trò và
đặc điểm của xuất bản.
1.1. Khái niệm
Trong quá trình tiến hoá, con người đã phát minh ra các phương tiện để
phản ánh, lưu truyền các giá trị của đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần
của mình. Sách là một phát minh kỳ diệu, trở thành phương tiện quan trọng
trong các hoạt động văn hoá tinh thần của loài người.
Từ thời Cổ đại, những phát kiến về triết học, hoa học, văn học, nghệ
thuật đã được con người ghi, chép trên vỏ cây (chỉ thảo, vách đá và chính trên
da thịt mình, sau đó là thẻ tre, da thú, đất nung, v.v Đó là hình thức sơ khai
về sách mà con người đã sáng tạo ra. Việc ghi chép và lưu truyền trong cộng
đồng các hình thức ban đầu đó của sách, đã hình thành nghề xuất bản sơ khai.
Vào đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên, tại Trung Quốc người ta đã chế tạo ra
giấy, và khắc chữ trên các tấm ván gỗ để in. Tới thể kỷ XV, từ 1436 đến 1444
Johannes Gutenberg người Đức đã dùng khuôn đồng mô chế tạo ra chữ rời
bằng hợp kim chì thiếc đồng, làm ra mực và in sách trên máy in bằng gỗ.
Cuốn sách đầu tiên được Gutenberg in tại Mainz từ năm 1452 là cuốn Phúc

âm, với số lượng 200 bản. Người ta còn gọi là cuốn Phúc âm 42 dòng, vì mỗi
4
5
cột có 42 dòng. Đây là bước phát triển mới vượt bậc về in, dẫn đến một thời
kỳ phát triển mới của xuất bản. Đúng như Ăngghen đã đánh giá về nghề in
trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”: “Nghề in ra đời, đó là một bước
ngoặt vĩ đại nhất trong tất cả các bước phát triển từ trước đến nay của thời đại
chúng ta”.
Là hoạt động do con người sáng tạo ra, và chính nó phục vụ lợi ích của
con người, xuất bản đã ứng dụng và phản ánh sự phát triển nhiều mặt của xã
hội loài người, chính vì vậy xuất bản đã không ngừng phát triển. Từ chỗ chỉ là
hoạt động của từng nhóm người có ảnh hưởng trong phạm vị hẹp, nó đã được
xã hội hoá. Từ chỗ sản phẩm sách ở trình độ thô sơ, mộc mạc, tiến tới đa
dạng, phong phú về hình thức, loại hình và nội dung. Sản phẩm của ngành
xuất bản không chỉ có sách, mà còn bao gồm các loại hình khác đó là tranh,
ảnh, bản đồ, địa đồ, khẩu hiệu, bưu ảnh v.v Nghề làm sách từ chỗ đơn giản,
thủ công qua nhiều bước phát triển, đã đạt tới trình độ tự động hoá. Lao động
biên tập ở nhà xuất bản đã ứng dụng tiến bộ của công nghệ tin học, trong hoạt
động sáng tạo và xử lý bản thảo, hoàn chỉnh bản mẫu để in hàng loạt. Hoạt
động phổ biến, sau này gọi là phát hành sách với các cửa hàng tự chọn được
quản lý bằng camera, và máy vi tính, với các loại xe chuyên dụng bán sách
lưu động, bán sách đặt trước qua bưu điện, bán sách khuyến mại.
Ngày nay xuất bản đã trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển. Bất
cứ quốc gia nào cũng tận dụng khả năng của nó để nâng cao dân trí, phục vụ
kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, giao lưu văn hoá với các nước trên thế
giới. Nhiều nước phát triển có những tập đoàn xuất bản - báo chí mạnh, đạt
hiệu quả kinh tế cao. ở Nhật có tới 5000 nhà xuất bản, chiếm 1/200 tổng số
giá trị sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Mỹ, ngành xuất bản
đứng vị trí thứ 3 về tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản phẩm.
5

6
ở Việt Nam xuất bản sách xuất hiện từ thời Cổ trung đại. Cơ sở đầu tiên
của nghề xuất bản là sự ra đời của ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Hán là thứ văn
tự đầu tiên du nhập vào Việt Nam từ thời Triệu Đà (207-137 TCN). Chữ Nôm
xuất hiện sau chữ Hán. Tới thế kỷ XVIII, XIX chữ Nôm phát triển cực thịnh,
ở mức độ nào đó đã lấn át chữ Hán với “Truyện Kiều”, “Chinh Phụ Ngâm”,
“Hịch Tây Sơn”
Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sách báo
Macxit, sự nghiệp xuất bản Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Xuất bản
được phân chia thành nhiều khuynh hướng với những mục đích, quy mô và
phương thức hoạt động khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất bản đã phát triển và đạt trình độ mới. Các
nhà xuất bản chuyên lo việc tổ chức, hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu đưa in.
Các nhà in lo việc tiếp nhận công nghệ mới, để thoả mãn nhu cầu về số lượng
và chất lượng việc in nhân bản các ý tưởng của tác giả, của nhà xuất bản
thành xuất bản phẩm. Phát hành là người chuyển tải các ý tưởng chứa đựng
trong những xuất bản phẩm đến tay người sử dụng, thông qua hoạt động
thương nghiệp.
Vậy xuất bản là gì?
Theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản,
in và phát hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các
nguồn lực xã hội trong việc sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các tác phẩm, phổ
biến đến nhiều người nhằm đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội.
Hoạt động xuất bản còn là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá tư tưởng,
thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người,
không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. Hoạt động xuất bản nhằm
mục đích phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, pháp luật; giới thiệu di sản văn hoá
6
7

dân tộc, tinh hoa văn hoá thế giới; nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá vớicác nước, góp phần vào
sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bằng xuất
bản phẩm của mình, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi
ích quốc gia, phá hoạ nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt
Nam.
Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác động
vào quá trình sáng tạo của tác gải để có bản thảo tác phẩm, xử lý và hoàn
chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhằm phục vụ nhiều
người.
1.2. Vị trí của xuất bản trong đời sống xã hội
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt
động sản xuất vật chất. Về phương diện văn hoá tư tưởng, sách và các xuất
bản phẩm do hoạt động xuất bản mang lại là sản phẩm tinh thần. Nó là kết
quả lao động sáng tạo của con người, cho con người và vì con người. Các giá
trị xã hội chứa đựng trong sách thể hiện và thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong
phú về nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó là một bộ phận rất quan trọng phản
ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc, ở mọi thời đại. Nội
dung chính trị - xã hội, pháp luật văn học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ
chứa đựng trong sách là ý tưởng của tác giả, nhà xuất bản nhằm truyền bá, bồi
dưỡng và nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân,
mở rộng giao lưu văn hoá với các nước. Giá trị cơ bản của sách nói riêng,
xuất bản phẩm nói chung là giá trị văn hoá tinh thần, do lao động tinh thần
của con người tạo ra. Mục đích chủ yếu, lý do tồn tại của nó là văn hoá, tư
tưởng. ở Việt Nam, các nhà xuất bản là phương tiện, cong cụ của cơ quan
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Vì vậy, hoạt
động xuất bản là hoạt động văn hoá, tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng.
7
8
Về phương diện sản xuất vật chất, các giá trị tinh thần, do lao động tinh

thần của con người mang lại chỉ trở thành sách và các xuất bản phẩm khác
thông qua hoạt động sản xuất. Từ việc thừa nhận sách là sản phẩm tinh thần,
trí tuệ, mọi người phải thừa nhận sách là sản phẩm vật chất, bởi nó là kết quả
do lao động vật chất tạo ra. Cấu trúc của nó do chính các yếu tố vật chất tạo
thành. Đó là các loại vật liệu chuyên dùng như: giấy, mực in, chỉ, thép, hồ
dán, vải, ximili, caton, v.v Thông qua quá trình sản xuất vật chất của nghề
in, những vật liệu rời rạc đó cấu thành sản phẩm sách - cái “vỏ vật chất”
chuyển tải nội dung tinh thần, trí tuệ của con người. Khi đã trở thành sản
phẩm hoàn chỉnh và vào lưu thông, xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó
mang đủ các thuộc tính của hàng hoá; chịu sự tác động của quy luật giá trị,
giá cả, cung cầu, v.v Những người mua ở đây là mua cái giá trị chứa đựng
trong “cái vỏ vật chất”. Là người bán, nhà xuất bản cũng bán cái giá trị tinh
thần bên trong, nhưng không chỉ thế mà còn quan tâm đến các vật liệu đã đầu
tư. Vì vậy, sách là một loại hàng hoá đặc biệt xét về giá trị. Mặt khác, không
phải ai cũng đọc sách và đọc bất kỳ sách nào, vì sách bao giờ cũng có đối
tượng riêng. Người tiêu dùng sách, thưởng thức sách khác người tiêu dùng
các sản phẩm vật chất khác ở yêu cầu có văn hoá. Tuỳ theo văn hoá cao, thấp,
chuyên môn sâu, rộng của mình mà người tiêu dùng lựa chọn sách phù hợp.
Tóm lại hoạt động xuất bản là hoạt động văn hóa tinh thần có ảnh
hưởng nhiều đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, dân trí, vì vậy nó thuộc
thượng tầng kiến trúc, chịu sự chi phối của các quy luật phát triển văn hoá.
Mặt khách hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất vật chất khác có vai trò
quan trọng trong việc tạo thành, chuyển tải, nhân bản các giá trị tinh thần, trí
tuệ, ý đồ của tác giả, nhà xuất bản thành xuất bản phẩm, vì vậy nó đồng thời
chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế, nó thuộc hạ tầng cơ sở.
1.3. Vai trò của xuất bản
8
9
Vai trò thứ nhất: xuất bản - “bà đỡ” của các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, công trình khoa học công bố dưới hình thức xuất bản phẩm.

Các văn nghệ sĩ, nhà khoa học bằng lao động của mình đã sáng tạo ra
các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học. Song, các thành tựu
đó chỉ là những sản phẩm đơn chiếc. Việc phổ biến nó chỉ dừng lại ở phạm vi
hẹp. Trong khi các tác giả muốn truyền bá ý tưởng sáng tạo của mình cho cả
cộng đồng thưởng thức, áp dụng vào đời sống. Công chúng muốn được tiếp
nhận nhanh và thuận tiện các giá trị chứa đựng trong các tác phẩm. Cùng với
các hoạt động văn hoá khác, xuất bản đã ra đời để áp ứng yêu cầu khách quan
đó của xã hội. Xuất bản phẩm nói chung, sách nói riêng là thể vật chất đã xã
hội hoá các giá trị lao động của văn nghệ sĩ, trí thức từ tác phẩm của họ.
Là sản phẩm do lao động của tác giả tạo thành, các tác phẩm được xuất
bản “đón rước, nâng niu”, được lao động biên tập góp phần hoàn thiện, nâng
cao giá trị, các lao động chuyên môn khác tham gia vào quá trình vật chất hoá
thành các loại hình xuất bản phẩm cụ thể. Vì vậy, người ta đã ví lao động biên
tập -xuất bản như “bà đỡ” cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và
công nghệ công bố dưới hình thức xuất bản phẩm.
Vai trò thứ hai: xuất bản - Phương tiện phản ánh đời sống tinh thần của
nhân loại, và mỗi quốc gia, bảo tồn và lưu truyền các sản phẩm văn hoá
Loài người từ khi sinh ra đã phải lao động và chống chọi với thiên
nhiên để sinh tồn. Chính trong lao động, đấu tranh chinh phục thiên nhiên, và
sau này đấu tranh giai cấp khi xã hội có giai cấp, họ đã sáng tạo ra các giá trịn
tinh thần. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể hưởng thụ các giá
trị văn hoá tinh thần. Vì vậy, khi nó tới văn hoá là nói tới con người, tới việc
phát huy những năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện và hướng
con người tới chân, thiện, mỹ.
9
10
Văn hoá tinh thần của loài người, xét về cấu trúc là toàn bộ các giá trị
do con người sáng tạo ra về khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống,
pháp luật, tôn giáo, v.v Các giá trị đó được thể hiện dưới các hình thức nhất
định. Theo sự phát triển của xã hội, các hoạt động văn hoá được hình thành

nhằm sản xuất, bảo toàn và lưu truyền các giá trị tinh thần.
Vai trò thứ ba: xuất bản - công cụ quan trọng trong việc nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Xã hội được thay thế và chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thực chất của sự chuyển giao đó là sự thay thế lao động. Vì lao động là động
lực phát triển xã hội loài người. Con người không chỉ nhận thức thế giới mà
còn phải cải tạo thế giới, khó hơn hết không phải ở khám phá, nhận thức thế
giới mà chính là việc cải tạo thế giới vì mục đích của con người. Muốn thế
con người phải được đào tạo liên tục. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, công
nghệ mới luôn luôn được chuyển giao, thay thế bởi tiến bộ không ngừng của
khoa học. Việc hưng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc rất nhiều vào nhân lực
được đào tạo, vào trình độ dân trí và nhân tài.
Các quốc gia trên thế giới, đều coi trọng giáo dục và thết kế sách phù
hợp nhằm nâng cao dân trí,đào tạo người lao động. Con người sau khi sinh ra
một số năm đều phải tới trường để tiếp thu những tri thức phổ thông, cơ bản.
Sách là người thầy, người bạn đưa con người bước qua các nấc thang kiến
thức, đạt tới các trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau. Trong số đó
không ít người có học vị, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học. Như vậy, nguồn
nhân lực của quốc gia luôn được bổ sung, thay thế. Thế hệ người lao động sau
có trình độ cao hơn thế hệ trước, bởi tri thức được làm giàu do sách mang lại.
Vai trò thứ tư: xuất bản- vũ khí đấu tranh giai cấp.
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp, xuất bản không chỉ
đóng vai trò là “bà đỡ” của các sản phẩm văn hoá tinh thần, phản ánh đời
10
11
sống vật chất, tinh thần của xã hội, góp phần đào tạo nguồn lực mà nó đã trở
thành vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp.
Xuất bản đã tham gia có hiệu quả vào việc giác ngộ giai cấp vô sản về
vai trò lịch sử của mình, và đã tổ chức quần chúng thực hiện sứ mệnh lịch sử
đó. Khi bàn về những uỷ ban đẳng cấp ở Pơrútxi, C. Mác đã viết: “ xuất bản

là chiếc đòn bẩy mạnh mẽ của văn hoá và của việc giáo dục tinh thần cho
nhân dân. Xuất bản biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tư
tưởng, cuộc đấu tranh của những nhu cầu, những nhiệt tình; cuộc đấu tranh
của lý luận, lý trí và hình thái”
Ngày nay trong điều kiện tiến bộ không ngừng của khoa học và công
nghệ, đã kéo theo sự phát triển không ngừng của văn hoá. Với sự đa dạng về
phương thức, phương tiện, loại hình và sản phẩm văn hoá, việc phổ biến
nhanh nhạy của các phương tiện thông tin đại chúng, đã làm cho không ít
người băn khoăn về việc tồn vong của xuất bản. Nhưng với vai trò như trình
bày trên, xuất bản vẫn sẽ tồn tại và phát triển cùng xã hội loài người. Nó sẽ
tiếp nhận các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đa dạng hoá xuất bản phẩm,
đa năng hoá xuất bản phẩm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của
bạn đọc.
1.4. Đặc điểm của xuất bản
Phần này chỉ trình bày những đặc điểm cơ bản liên quan đến việc điều
chỉnh của pháp luật.
Đặc điểm thứ nhất: xuất bản vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng vừa là
hoạt động kinh tế
Là một bộ phận của văn hoá, xuất bản chịu sự chi phối của các quy luật
phát triển văn hoá. Lao động xuất bản trong đó trung tâm là biên tập, một loại
lao động khoa học; tổ chức nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn học, nghệ
thuật. Nó là lao động chất xám. Trong tác phẩm “Lao động sáng tạo” Nhà văn
11
12
M.X Goorki đã viết: “Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm của mình không thể như
người công nhân dùng đe, búa để rèn lưỡi hái, họ làm việc bằng cái đầu chứ
không bằng cơ bắp”.
Xét về phương diện mục đích và hiệu quả thì xuất bản hướng tới việc
cảm hoá con người, cải tạo con người, để cải tạo thiên nhiên và xã hội vì mục
đích của con người. Nó là một hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ và vì trí

tuệ. Song khi các sản phẩm của trí tuệ là sách đã “nhiễm” vào con người thì
nó không thể chỉ là dạng tinh thần, mà đến “cái ngưỡng” nhất định nó sẽ
chuyển hoá thành lực lượng chất. Khi đó nói như Lê nin, chính lực lượng vật
chất sẽ đánh đổ lực lượng vật chất. Mọi cuộc cách mạng đều được chuẩn bị về
tinh thần, tư tưởng, sau đó mới là tổ chức. Khi đã thành tổ chức, có nghĩa là
nhận thức, tư tưởng và tình cảm đã được chuyển hoá. Đúng như Ăng ghen đã
viết trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”. “Văn hoá, khi đã trở thành
một lực lượng xã hội thì có một sức mạnh ghê gớm có thể làm đảo lộn cả một
xã hội, đánh đổ cả một chế độ như cách mạng dân chủ tư sản Pháp”
Nhưng hoạt động văn hoá - tư tưởng không thể xã hội hoá, không thể
chuyển tải các ý tưởng của mình tới công chúng khi không có các điều kiện
vật chất nhất định, không thông qua hoạt động sản xuất. Vì vậy, xuất bản còn
là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế. Từ sự phân tích trên, chính
lao động của biên tập viên đã là lao động vật chất. Họ đã vật chất hoá các ý
tưởng của nhà xuất bản của nhà văn, nhà khoa học thành các bản thảo, với
công cụ, đối tượng lao động đặc thù. Nhưng như vậy, lao động đó mới chỉ là
lao động sáng tạo ra bản gốc, bản mẫu. Nó phải qua quá trình vật hoá các giá
trị tinh thần thành các xuất bản phẩm cụ thể. Quá trình này được thực hiện với
sự hỗ trợ của các phương tiện và kỹ thuật của công nghiệp in. Tác phẩm văn
học, nghệ thuật, công trình nghiên cứu khoa học, sau khi được nhà xuất bản
hoàn chỉnh, được đưa in thành hàng loạt. Các tiêu hao về lao động sống lao
12
13
động quá khứ thể hiện khá rõ ở công đoạn này. Một khi trở thành xuất bản
phẩm, như mọi sản phẩm khác, xuất bản phẩm là một thực thể vật chất. Khi
qua lưu thông, tiêu dùng để thực hiện mục đích cuối cùng của xuất bản phẩm,
và của sản xuất vật chất, thì xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đầy
đủ các thuộc tính của hàng hoá. Chịu sự tác động của các quy luật giá trị, giá
cả, cung cầu v.v
Nghiên cứu đặc điểm này để thấy rõ sự tác động qua lại hệ thống quy

luật phát triển vh và quy luật kinh tế trong xuất bản. Từ đó giải quyết mối
quan hệ tác động giữa chúng, tiến tới xử lý thoả đáng mối quan hệ về hiệu
quả kinh tế - hiệu quả xã hội - hiệu quả chính trị của hoạt động xuất bản, và
của từng xuất bản phẩm cụ thể. Các chế định của luật, các quy phạm pháp luật
phải thể hiện được đặc trưng rất riêng biệt này. Có như vậy, pháp luật mới có
sức sống điều chỉnh, tạo lập môi trường lành mạnh để hoạt động xuất bản
phát triển, đạt hiệu quả cao.
Đặc điểm thứ hai: xuất bản phẩm là kết quả của quá trình tư duy và quy
trình sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghề, và nó trở thành một ngành kinh tế kỹ
thuật đạt lợi nhuận cao ở các nước phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt
động sản xuất vật chất đặc biệt. Tính đặc biệt do đòi hỏi của sản phẩm sách
quy định. Toàn bộ quy trình sản xuất hàng hoá sách là một quá trình của lao
động tư duy, lao động trí óc. Đây là nhu cầu khách quan của việc sản xuất sản
phẩm vh tinh thần. Bởi vì chỉ có tư duy và tư duy sáng tạo mới “đẻ” ra những
“đứa con tinh thần”. Từ đó thông qua một quy trình sản xuất đặc thù, giá trị
tinh thần do tư duy mang lại được vật hoá thành xuất bản phẩm.
Đặc điểm thứ ba: xuất bản phẩm là một loại hàng hoá đặc biệt
Là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất vật chất, xuất bản phẩm
nói chung, sách nói riêng cũng như mọi sản phẩm khác, nó là kết quả của lao
13
14
động sống và lao động quá khứ được vật hoá. Vì vậy, xuất bản phẩm cũng có
giá trị và giá trị sử dụng. Khi vào lưu thông nó trở thành hàng hoá. Và chính
từ thị trường trao đổi, mới có thể thực hiện giá trị của nó. Nhưng sách là một
loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt ở đây là do tính đặc biệt của giá trị và giá
trị sử dụng của sách quy định.
Về giá trị xuất bản phẩm:
Xuất bản phẩm nói chung, sách nói riêng là sản phẩm được kết tinh từ
lao động xuất bản, bao gồm lao động sống và lao động quá khứ. Các tiêu hao

về chất xám, về lao động trí óc được lượng hoá và cụ thể hoá thông qua các
đơn vị đo lường như mọi sản phẩm vật chất thuần tuý khác. Nhưng dù việc
lượng hoá, cụ thể hoá đạt tới cấp độ cao mấy đi chăng nữa, dù thước đo hiện
đại và chính xác cao thì vẫn không thể phản ánh được những hao phí của lao
động sáng tạo ra các giá trị tinh thần. Mà chính nó lại là giá trị đích thực của
xuất bản phẩm. Vì vậy, khi nói đến giá trị xuất bản phẩm là nói đến giá trị nội
dung, tinh thần mà nó chuyển tải.
Tuy vậy, lao động xuất bản còn là lao động vật hoá cái vỏ bên ngoài
của xuất bản phẩm, để bao chứa cái nội dung bên trong của nó. Nhưng hao
phí này thuần tuý là hao phí vật chất. Nó bao gồm nguyên liệu chuyên dùng
như giấy, mực, phim, caton, ximili, vàng, nhũ, vải, thép, chỉ, hồ dán, keo dán
v.v và sự chuyển dịch từ xăng, dầu, điện nước, máy móc, thiết bị vào hàng
hoá xuất bản phẩm qua khấu hao. Chính các nguyên, nhiên vật liệu, thiết bị,
máy móc đó và lao động của ngành in đã in nhân bản các giá trị nội dung tinh
thần theo bản gốc, bản mẫu của nhà xuất bản thành xuất bản phẩm. Đến lúc
này, chính cái vỏ vật chất đó đã vật hoá lao động sáng tạo của nhà văn, nhà
xuất bản phẩm. Thông thường nội dung tác phẩm tốt, có giá trị lâu dài, được
in trên giấy và các vật liệu quý.
14
15
Như vậy, khi nói tới giá trị của xuất bản phẩm ngoài việc thừa nhận cái
giá trị thông thường như mọi sản phẩm vật chất thuần tuý, phải đề cập tới cái
giá trị là thuộc tính của các sản phẩm văn hoá nói chung, xuất bản nói riêng.
Đó là giá trị nội dung, tinh thần chứa đựng bên trong cái vỏ bao chứa, chuyển
tải nó. Xem xét từ góc độ thực hiện giá trị của xuất bản phẩm, ta thấy đầu vào
của chúng tương đối nhỏ, nhưng đổi lấy đầu ra có giá trị xã hội rất lớn.
Về giá trị sử dụng của xuất bản phẩm:
Khi vào lưu thông, qua trao đổi giá trị của xuất bản phẩm được thực
hiện. Cái thuộc tính về giá trị của xuất bản phẩm là cái mà người mua cần.
Đương nhiên họ phải chấp nhận mua cả cái vỏ bao chứa nó. Giá cả ở đây

cũng biểu hiện giá trị của hàng hoá. Một cuốn sách có nội dung tốt có thể bán
giá cao. Néu lại được in trên giấy tốt, trình bầy đẹp người mua chấp nhận các
chi phí đó ở giá bán. Ngược lại, một cuốn sách nội dung bình thường, dù là in
trên giấy tốt cũng sẽ ít người mua, thậm chí bị ế.
Khi xét tới giá trị sử dụng của xuất bản phẩm, ta có thể thấy một số
thuộc tính sau:
- Trong tiêu dùng giá trị của xuất bản phẩm không những không mất đi
mà còn được nhân lên. Người đọc sách không chỉ thoả mãn tức thời, như
uống nước khi khát, mà cái giá trị nội dung tiếp nhận được còn tích lũy lâu
dài trong nhận thức. Đọc một cuốn sách hay có khi nhớ cả đời. Người đọc
sách còn truyền cho người khác qua việc kể lại nội dung. Một cuốn sách đâu
chỉ một người đọc, mà được truyền tay nhau để đọc Đặc biệt khi ở trong thư
viện thì vòng luân chuyển của sách lại càng cao. Trong khi một ấm trà chỉ có
một số ít người uống, và khi uống xong là hết.
M. I. Calirin (1875-1946) đã từng nói: “Theo tôi, sách tốt là cuốn sách
mà dưới tấm bìa của nó, cuộc sống sôi nổi, rộn ràng như máu chảy dưới da, là
15
16
cuốn sách khiến người ta đọc nhớ rất lâu nếu như không phải là nhớ mãi mãi,
là cuốn sách mà ai ai cũng muốn được đọc lần nữa”.
- Người tiêu dùng sách sẽ hài lòng khi được tiếp thu giá trị của nó, và
không chỉ có vậy, mà cái tiếp nhận được sẽ giúp người tiêu dùng có những
quyết định đúng đắn trong cuộc sống, đưa họ tới những hoạt động không phải
chỉ ở dạng tinh thần mà còn sáng tạo ra các sản phẩm vật chất, các giá trị mới.
Các giá trị tinh thần của xuất bản phẩm được tiêu dùng không những
không mất đi, mà còn chuyển hoá thành lực lượng vật chất, để con người có
hành động tích cực cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính mình.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, dù là vật liệu cấu thành tốt đến
đâu đi chăng nữa, thì sách cũng phải rách nát trong quá trình tiêu dùng.
Nhưng đời sống của cái vỏ vật chất đó vẫn dài hơn so với một số hàng hoá

như quần áo, ấm chén v.v Dù là có chuyển hoá, và mất đi thì cũng chỉ mất
đi cái vỏ bên ngoài còn cái giá trị tư tưởng, khoa học và nghệ thuật trong sách
vẫn còn lưu lại trong người đọc. Điều đó có nghĩa chu kỳ tuổi thọ của các sản
phẩm vật chất thuần tuý có thể tính toán được, còn đối với xuất bản phẩm thì
không thể nào tính nổi. Những tác phẩm của Mác- Ăng ghen, Lênin, Tolstoi,
Banzắc, những tác phẩm nổi tiếng như “Tây du ký”, “Tam quốc diễn nghĩa”,
“Truyện Kiều”, v.v còn lưu truyền mãi mãi.
2. Hiệu quả và những đặc trưng cơ bản về quản lý Nhà nước bằng
pháp luật về xuất bản
2.1. Hiệu quả của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản
Thứ nhất: hiệu quả chính trị của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật
về xuất bản.
- Là bộ phận nhạy cảm với chính trị, xuất bản cùng với báo chí là
phương tiện lợi hại trong cuộc đấu tranh giai cấp. Là một bộ phận hoạt động
thuộc thượng tầng kiến trúc, xuất bản gắn liền với hình thái chính trị - xã hội.
16
17
Sự tác động của nó là trực tiếp tới các lợi ích giai cấp. Vì vậy, thông qua pháp
luật, giai cấp thống trị mà đại diện là đảng cầm quyền kiểm soát chặt chẽ hoạt
động xuất bản. Các điều cấm đoán về nội dung xuất bản là quy phạm điển
hình với các chế tài nghiêm khắc, nhằm ngăn chặn, và xử lý kịp thời các chủ
thể có hành vi vi phạm, các xuất bản phẩm chứa đựng các nội dung cấm xuất
bản.
Bằng những xuất bản phẩm của mình, ngành xuất bản chuyển tải tới
công chúng các ý tưởng cao cả của giai cấp công nhân, về việc xây dựng một
xã hội tưong lai, với bộ máy chính quyền vững mạnh, xã hội công bằng văn
minh và thịnh vượng. Thông tin, và giải đáp kịp thời các vấn đề của quốc gia
và quốc tế. Vì vậy xuất bản góp phần giữ vững ổn định chính trị, định hướng
xã hội chủ nghiã.
- Xuất bản góp phần nâng cao vai trò và chất lượng lãnh đạo của đảng

cầm quyền, vai trò và năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế
văn hoá,xã hội, khoa học, ngoại giao, an ninh, quốc phòng v.v đều được in
thành xuất bản phẩm phục vụ rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Từ đó, tạo niềm
tin của dân với Đảng và chính quyền, làm cơ sở cho các hoạt động của dân
biến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội thành hiện thực.
- Xuất bản góp phần phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, hội
nghề nghiệp; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong việc lãnh đạo và quản
lý xã hội, và trong hoạt động xuất bản.
- Xuất bản góp phần mở rộng giao lưu quốc tế, trao đổi văn hoá với các
nước. Bằng xuất bản phẩm của mình, xuất bản góp phần để bạn bè hiẻu về
một Việt Nam văn hiến, đang phát triển theo đường lối đổi mới, để tiếp thu
tinh hoa văn hoá thế giới, khoa học và công nghệ mới nhằm công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước.
17
18
Thứ hai: Hiệu quả kinh tế của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản.
Xuất bản là hoạt động văn hoá tư tưởng, đồng thời là hoạt động sản
xuất vật chất. Mặt sản xuất vật chất, trong điều kiện kinh tế thị trường, tất yếu
phải dẫn tới sản xuất kinh doanh. Như vậy, quản lý Nhà nước bằng pháp luật
về xuất bản đạt hiệu quả ổn định chính trị là tiền đề dẫn đến hiệu quả kinh tế
trong hoạt động xuất bản, và hiệu quả kinh tế nói chung.
Đối với xuất bản, hiệu quả kinh tế thể hiện trên các mặt sau:
- Quản lý xuất bản bằng pháp luật là giải phóng lực lượng sản xuất
trong ngành xuất bản. Bởi vì bằng pháp luật đã tách biệt chức năng quản lý
Nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Sự tách biệt này tạo quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh xuất
bản khai thác các nguồn lực để mở rộng và nâng cao hiệu quả.
- Quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là tạo lập môi trường

bình đẳng cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản cạnh tranh và thi đua
đạt hiệu quả cao về kinh tế. Pháp luật đã tạo lập hành lang, điều đó có nghĩa
pháp luật đã tạo ra các cơ hội bình đẳng để các chủ thể hoạt động xuất bản tự
do kinh doanh.
- Quản lý Nhà nước bằng pháp luật, là bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia hoạt động xuất bản; bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tác giả
bằng lao động của mình đã sáng tạo ra các tác phẩm hoặc văn học - nghệ
thuật, khoa học - công nghệ hoặc chính trị- xã hội.
Luật pháp từ chỗ thừa nhận các hình thức sở hữu khác nhau, đã đưa ra
các chế tài răn đe nhằm ngăn chặn những hành vi xâm hại, và xử phạt đối với
các hành vi đã xâm hại gây hậu quả.
- Quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật, không những khuyến
khích các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản đạt hiệu quả kinh tế cao, còn
18
19
ngăn chặn các hoạt động xuất bản bất chấp hậu quả về chính trị, tư tưởng văn
hoá, chạy theo xu hướng thương mại hoá. Điều này có nghĩa không thể đổi sự
mất mát về chính trị, tư tưởng và văn hoá lấy đồng tiền. Lợi nhuận của hoạt
động xuất bản trong cơ chế thị trường cũng phải trở thành mục tiêu hoạt động,
song không thể tách rời mục tiêu chính trị, tư tưởng và văn hoá. Giữa chúng
có quan hệ biện chứng, trong đó chính trị, văn hoá, tư tưởng là mục tiêu hàng
đầu.
- Quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng xuất bản phẩm. Ngoài lợi ích về tinh thần, tình cảm, tri thức do xuất
bản phẩm mang lại cho người tiêu dùng, được pháp luật bảo vệ với các điều
khoản nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo sự vô hại, pháp luật còn bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng ở phương diện kinh tế. Đó là việc đảm bảo chất lượng kỹ
thuật, mỹ thuật xuất bản phẩm theo tiêu chuẩn Nhà nước, việc in giá bán lẻ
trên xuất bản phẩm và việc niêm yết giá bán tại cửa hàng, để đảm bảo sự công
khai, ngăn chặn những hành vi lợi dụng.

Thứ ba: Hiệu quả xã hội của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản.
Hiệu quả xã hội là tất yếu của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật
xuất bản, vì các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Từ việc ổn định chính trị, kinh tế phát triển dẫn đến xã hội ổn định, có
trật tự và chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Bằng hoạt động của mình
thông qua các loại hình xuất bản phẩm, xuất bản đã góp phần đáng kể cho
thành quả đó. Kinh nghiệm từ Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu
chứng tỏ rằng, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đã tận dụng vai trò
lợi hại của báo chí, xuất bản gây mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, dấn
đến sự sụp đổ và tan vỡ Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng. Từ bài
học xương máu đó, Việt Nam đã khai thác triệt để hoạt động xuất bản, báo chí
19
20
phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội thịnh vượng, công bằng, văn minh và
dân chủ.
Các giá trị xã hội được khẳng định, phục hồi, và phổ biến thông qua
xuất bản phẩm theo quy địnhcủa luật pháp. Đây là hiệu quả đặc trưng của
hoạt động xuất bản.
- Hiệu quả xã hội của việc quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp
luật còn thể hiện ở việc khai thác được khả năng sáng tạo của đội ngũ văn
nghệ sĩ, trí thức đẻ có tác phẩm phục vụ bạn đọc. Ngăn chặn kịp thời những
tác phẩm có nội dung vi phạm pháp luật, đặc biệt là việc vi phạm các điều
cấm.
Quản lý Nhà nước bằng pháp luật là tiền đề quan trọng dẫn đến hiệu
quả chính trị, kinh tế, xã hội nói chung và trong xuất bản nói riêng. Hiệu quả
chính trị là cơ sở dẫn đến hiệu quả kinh tế xã hội. Vì nền chính trị xó vững
vàng, hệ thống chính trị ổn định, thì xã hội mới phát triển, kinh tế mới tăng
trưởng. Mọi tiềm năng được phát huy trong không khí thanh bình, triển vọng.
Nếu không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có sự đầu tư mở mang sản

xuất, kinh doanh, các thế lực tranh giành quyền lực, phân rẽ quần chúng, lôi
kéo họ vào các cuộc cạnh tranh quyền lực. Trong trường hợp đó không loại
trừ khả năng xảy ra các cuộc ẩu đả, các cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Lẽ ra
họ phải là các chủ thể kinh tế, thì họ lại trở thành người lính bất đắc dĩ, là nạn
nhân của cuộc tranh giành quyền lực. Như vậy, hiệu quả kinh tế, xã hội là
hiệu quả tất yếu bắt nguồn từ hiệu quả chính trị. Cũng có thể nói hiệu quả
chính trị là nguyên nhân quan trọng dẫn đến các hiệu quả kinh tế, xã hội.
Nhưng chính sự ổn định của kinh tế, kinh tế tăng trưởng, và sự ổn định của
các giá trị xã hội, sẽ củng cố và tăng cường sự ổn định chính trị, chế độ chính
trị và hệ thống chính trị. Đó là sự tác động tích cực trở lại của hiệu quả kinh
tế, xã hội đối với hiệu quả chính trị.
20
21
2.2. Những đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống
các công cụ chủ yếu gồm pháp luật, kế hoạch chính sách Trong đó với tư
cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt
quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển năng động của xã hội. Trong
điều kiện đổi mới, Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò hàng đầu của pháp
luật. Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong xuất bản có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt, xuất phát từ các đặc trưng cơ bản là thuộc tính của các quan hệ xã
hội về văn hoá, xuất bản. Nhưng ý chí của Nhà nước về quản lý xuất bản “để
lên thành luật” phải “bắt nguồn trong các quan hệ vật chất” về xuất bản. Sau
đây là các đặc trưng chính trong quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp
luật.
Đặc trưng thứ nhất: quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là mở
đường cho hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa

học để công bố dưới hình thức xuất bản.
Nhà nước quản lý hoạt động của tư duy sáng tạo trong xuất bản bằng
pháp luật, không kìm hãm và khống chế các ý tưởng sáng tạo; khuyến khích
tài năng và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa học và nghệ thuật. Chính từ
cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi đánh giá công minh các tác
phẩm. ở đó, công chúng với tư cách là người tiêu dùng, họ là thước đo về
năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
Hơn bất kỳ phương tiện nào, pháp luật lả phương tiện chứa đựng trong
mình sự kết hợp giữa năng động sáng tạo và kỷ cương, kỷ luật, giữa thuyết
phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ. Chính vì vậy nó tạo ra sự ổn
21
22
định cho tự do sáng tạo, bảo vệ các hoạt động tự do sáng tạo, kiểm soát các
hoạt động tự do sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những hành vi xâm hại tới
quyền tự do sáng tạo.
Đặc trưng thứ hai: Quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là bảo
tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc, hiện đại nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn
hoá và tiến bộ về khoa học - công nghệ của nhân loại.
Văn minh của loài người được nhân loại đánh giá ở các nền văn hoá có
bản sắc, ở các cuộc cách mạng khoa học đã diễn ra trong lịch sử. Mỗi dân tộc
có cội nguồn và truyền thống riêng được phản chiếu lên tấm gương văn hoá.
Nó là gia sản quá khứ tạo nên dòng chảy cho hiện tại và tương lai dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần là động lực và mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhu cầu giao lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hoá của
nhân loại, là nhu cầu của bản thân nền văn hoá dân tộc. Mặt khác trong thời
đại bùng nổ thông tin, với sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ,
thì việc tiếp nhận và xử lý thông tin, ứng dụng các tiến bộ mới của khoa học
là đòi hỏi bức thiết. Mỗi dân tộc phải biêt làm giầu bởi tri thức của nhân loại.
Nhưng điều đó chỉ được thực hiện khi nhà nước trao cho các chủ thể được xác

định các quyền và nghiã vụ trong các quan hệ quốc tế về xuất bản.
Như vậy, Nhà nước với công cụ hàng đầu để quản lý xã hội là pháp
luật, đã tạo ra cơ chế và thiết chế nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá, khoa học và công nghệ mới, tiến bộ của
nhân loại. Các chủ thể xuất bản, chủ thể quản lý với địa vị pháp lý, với các
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, góp phần đảm bảo cho ý chí của
Nhà nước được thực hiện trong thực tế về việc xây dựng một nền văn hoá
mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; loại trừ và ngăn chặn những độc hại về
văn hoá. Là phương tiện điều chỉnh có hiệu lực, pháp luật tạo môi trường
22
23
thuận lợi cho các hoạt động văn hoá phát triển theo định hưỡng xã hội, loại
trừ khả năng hoà tan và đổi mầu trong quá trình hoà nhập.
Đặc trưng thứ ba: Quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là
quản lý hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá -tư tưởng, đồng thời là hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Với thuộc tính là hoạt động văn hoá - tư tưởng và hoạt động sản xuất
kinh doanh, xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật
phát triển văn hoá và hệ thống các quy luật kinh tế. Vì vậy, xuất bản chứa
đựng tập trung các lợi ích giai cấp không thể điều hoà, trước tiên là sự đấu
tranh về ý thức hệ biểu hiện ở phương diện văn hoá - tư tưởng, sau đó và suy
cho đến cùng là các quan hệ kinh tế. Do tính chất phức tạp đó, yêu cầu quản
lý bằng pháp luật được đặt ra bức thiết hơn. Nhưng pháp luật không thể là ý
muốn chủ quan, duy ý chí. Nhà nước chỉ đặt ra hoặc thừa nhận các quy phạm
pháp luật hàm chứa những gì phổ biến, tất yếu của sự phát triển, loại trừ các
yếu tố ngẫu nhiên, cá biệt. Việc quy phạm hoá các quy luật phát triển, vừa
phải thể hiện ở phương diện văn hoá tư tưởng, vừa phải thể hiện ở phương
diện kinh tế của hoạt động xuất bản. Như vậy, pháp luật phải mở đường cho
tự do sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại do xuất bản gây ra đối với
văn hoá - tư tưởng; phải định hướng cho xuất bản phát triển, theo quy luật

kinh tế thị trưởng., làm ảnh hưởng đến định hướng tư tưởng- văn hoá.
Như vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xuất bản là
điều chỉnh hoạt động kinh tế trong văn hoá - tư tưởng, đồng thời điều chỉnh
hoạt động văn hoá- tư tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một
vấn đề phải được thể chế hoá phù hợp, đảm bảo cho xuất bản hoạt động đúng
quy luật, phát triển theo trật tự của pháp luật.
23
24
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ XUẤT BẢN
1. Pháp luật - phương tiện quản lý Nhà nước về xuất bản
1.1. Pháp luật - phương tiện tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bình
đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản
Với đặc trưng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động
sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nói riêng thì nhu cầu về
tự do sáng tạo, bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi
hỏi khách quan. Xã hội luôn phát triển bởi các dự báo tương lai, và việc phản
ảnh thực trạng tình hình từ suy nghĩ độc lập của các nhà khoa học, đội ngũ
văn nghệ sĩ, khi Nhà nước biết khai thác, phát huy. Nhưng tự do và bình đẳng
trong sáng tạo phải vì lợi ích xã hội và của cộng đồng, kihông thể có thứ tự do
vô bờ bến, tự do vô Chính phủ. Vì vậy, tự do và bình đẳng trong hoạt động
sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm là tự do trong khuôn khổ pháp luật. ở
đó, các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản sẽ được làm tất cả những gì pháp
luật cho phép. pháp luật cũng ấn định những gì được phép làm, đối với các cơ
quan Nhà nước, nhằm ngăn chặn các hành vi lạm dụng, xâm hại đến quyền tự
do, bình đẳng. Đồng thời với các quyền, pháp luật còn đề ra các nghĩa vụ
tương ứng cho các chủ thể hoạt động sáng tạo và quản lý. Như vậy, thông qua
pháp luật, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho tác
giả và các tổ chức tự do sáng tạo, bình đẳng trong hoạt động xuất bản.
1.2. Pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra

tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học
Hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần, sản phẩm văn hoá tinh thần,
được xã hội đánh giá cao và xếp loại lao động đặc biệt. Các quốc gia trên thế
giới đều coi các sản phẩm của trí tuệ là tài sản. Vì vậy, các tác giả được bảo
hộ quyền sở hữu. Công ước Berne là công ước quốc tế đầu tiên về quyền tác
24
25
giả, dưới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ra
đời từ năm 1886, (là tổ chức của Liên hợp quốc từ 1974) để bảo vệ quyền tác
giả thuộc 90 quốc gia thành viên.
ở Việt Nam, pháp luật là phương tiện tạo lập môi trường tự do và bình
đẳng cho hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm, đồng thời pháp
luật là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người bằng lao động
của mình đã sáng tạo ra tác phẩm. Các quy định về quyền của người sáng tạo,
người quản lý và các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ các quyền đó, cùng với
các quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ
quyền sở hữu tác phẩm. Các tác giả được Nhà nước tạo phương tiện để đấu
tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tranh chấp về quyền tác gỉa,
các hành vi xâm hại lợi ích vật chất và tinh thần của tác giả được tài phán tại
toà án dân sự. Như vậy, thông qua việc bảo hộ quyền tác giả, Nhà nước tiếp
tục khuyến khích năng lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để có nhiều sản
phẩm văn hoá tinh thần có giá trị phục vụ xã hội
1.3. Pháp luật đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
xuất bản
Với vai trò đặc biệt trong đời sống xã hội, cùng với báo chí, xuất bản
luôn gắn với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia. Là một bộ phần của kinh tế thị
trường, xuất bản phát triển trong năng động, sáng tạo. Nhưng mặt trái của cơ
chế thị trường sẽ đẩy hoạt động xuất bản vào tình trạng vô chính phủ, không
chỉ tác hại trong kinh tế mà nghiêm trọng hơn là sự tác động tiêu cực về chính
trị, tới các giá trị đạo đức, xã hội, truyền thống tốt đẹp.

Như vậy, việc hình thành các chuẩn mực pháp luật trong những tình
huống, hoàn cảnh, điều kiện nhất định của các quan hệ xã hội là tạo hành lang
hoạt động an toàn để xuất bản góp phần đảm bảo ổn định chính trị, an ninh,
quốc phòng, kinh tế, xã hội và tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Trong
25

×