Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở việt nam giai đoạn 2006 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.13 KB, 93 trang )

Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng một lần nữa lại khẳng
định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự phát triển của sáu thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế
này bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh trong đó thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ
đạo. Một trong những bộ phận quan trọng cấu thành kinh tế Nhà nước
chính là doanh nghiệp nhà nước. Để kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế thì bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải không
ngừng được hoàn thiện về tổ chức quản lý và chỉ đạo sản xuất.
Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không phải thể hiện ở số lượng
doanh nghiệp nhà nước nhiều hay ít mà chủ đạo ở chỗ là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Do đó
những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chỉ nên đầu tư vào
các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội. Ở những lĩnh vực còn lại thì phải có sự cạnh tranh bình đẳng
giữa những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Muốn
tạo được lợi thế trong cạnh tranh thì doanh nghiệp nhà nước phải nâng cao
hiệu quả hoạt động của mình thông qua việc thực hiện chuyển đổi sở hữu.
Quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được
tiến hành bắt đầu từ năm 1992. Hơn 12 năm thực hiện đã tạo ra những
doanh nghiệp năng động, nhạy bén, thích nghi với điều kiện kinh tế thị
trường. Mặc dù vậy, kế hoạch thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp
nhà nước trong thời gian qua đã không hoàn thành mục tiêu đề ra. Kết quả
là số lượng doanh nghiệp nhà nước cần phải thực hiện chuyển đổi sở hữu
còn nhiều, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục thực hiện và hoàn thành cơ bản kế
hoạch chuyển đổi sở hữu trong giai đoạn 2006 – 2010. Để có thể thực hiện
mục tiêu này thì trong kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1


Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
giai đoạn 2006 – 2010 cần phải đưa ra những giải pháp mạnh hơn, kiên
quyết hơn và khả thi hơn nữa.
Với những lý do trên và được sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS
Ngô Thắng Lợi, em đã quyết định chọn đề tài “Giải pháp thực hiện kế
hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn
2006 – 2010” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: các doanh nghiệp nhà nước hiện có ở
Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động và tình hình thực hiện kế hoạch
chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: tập trung nghiên cứu và đánh giá quá
trình thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam giai đoạn 2001 – 2005 và những nguyên nhân khiến cho kế hoạch
không hoàn thành mục tiêu đặt ra. Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích quá
trình chuyển đổi sở hữu ở Trung Quốc từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm đối với thực tế chuyển đổi ở Việt Nam.
Mục tiêu đề tài
Cung cấp những lý luận chứng minh chủ trương chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước là đúng đắn và cần phải tiếp
tục thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2010.
Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh
nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước và tại một số ngành, địa phương
điển hình.
Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010.
Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để thực
hiện nghiên cứu đối tượng.

Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 2
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
Kết cấu của bài viết gồm 3 chương
Chương I: Sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Chương II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005
Chương III: Giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 3
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾP TỤC
THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ỏ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
I. Tổng quan về doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm DNNN được hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách
tiếp cận và mục đích nghiên cứu đối tượng này. Đối với Việt Nam, khái
niệm về DNNN thay đổi qua nhiều thời kỳ, tương ứng với sự thay đổi quan
niệm về sở hữu Nhà nước và sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế.
1. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung (1960 – 1986)
Trong thời kỳ Kế hoạch hoá tập trung (1960 – 1986), tổ chức kinh tế
Nhà nước tồn tại dưới dạng các xí nghiệp (trong lĩnh vực công nghiệp),
nông trường quốc doanh (trong lĩnh vực nông nghiệp) và các công ty (trong
lĩnh vực thương mại). Khái niệm DNNN lúc này chưa xuất hiện mà chỉ có
khái niệm về xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và xí nghiệp thương mại
quốc doanh. Đặc trưng của những xí nghiệp này là: các xí nghiệp có tư
cách pháp nhân tức là những chủ thể pháp luật, chủ thể kinh tế độc lập;
toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước; các xí nghiệp phải thực hiện

các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đề ra bởi thị trường giai đoạn này chưa
hình thành đúng nghĩa nên các nhu cầu thường xuất phát từ sự hoạch định
chủ quan của các cơ quan lập kế hoạch.
2. Thời kỳ nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (1986 đến nay)
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
cách tiếp cận thành phần KTNN cũng có nhiều thay đổi. Mặt khác, để
DNNN có thể hoạt động hiệu quả hơn, cần phải có một cơ sở pháp lý vững
chắc cho loại hình doanh nghiệp được coi là có vai trò chủ đạo này. Chính
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 4
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
vì vậy, năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước thể
chế hoá nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp này. Luật doanh
nghiệp nhà nước năm 1995 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà
nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự,
tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn
do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở
trên lãnh thổ Việt Nam”.
Khái niệm về DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20-4-1995 đã
phản ánh hai tính chất đặc trưng của DNNN là tính chất kinh doanh và
công hữu. Với đặc trưng kinh doanh, DNNN được xem như là một công cụ
hay phương tiện để Nhà nước thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội
rộng lớn của mình, bởi DNNN tự chủ tài chính, dùng kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh làm cơ sở tăng trưởng và phát huy vai trò chủ đạo. Với
tính chất công hữu, lợi ích thu được từ các hoạt động của DNNN không sử
dụng để phục vụ lợi ích riêng cá nhân mà phục vụ cho lợi ích chung của xã
hội. Do đó, DNNN được xem là một chính sách hay công cụ can thiệp của
Chính phủ.

Đến Luật DNNN năm 2003, khái niệm DNNN được hiểu sâu hơn.
Điều 1 Luật DNNN năm 2003 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do
Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn”. Như vậy, về khía cạnh sở hữu, quan điểm của Đảng
và Chính phủ Việt Nam có những mặt nới lỏng và năng động hơn. Bên
cạnh những doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, còn tồn tại những doanh
nghiệp mà Nhà nước chỉ có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then
chốt và địa bàn quan trọng. Khái niệm DNNN trong Luật DNNN năm 2003
chứa đựng một số điểm mới cơ bản sau:
- Việc xác định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như
trước đây. Trước đây, chỉ những doanh nghiệp được Nhà nước thành lập và
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 5
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đầu tư vốn, hoàn toàn do Nhà nước quản lý thì mới được coi là DNNN.
Trong số đó, tiêu chí sở hữu là tiêu chí cơ bản nhất để quyết định doanh
nghiệp là DNNN.
- Thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một
DNNN. Điều này có nghĩa là có những DNNN trong đó các hình thức sở
hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật.
- Pháp luật hiện hành thừa nhận khả năng chuyển đổi DNNN thành
doanh nghiệp thông thường thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần.
Theo Luật DNNN năm 2003, tiêu chí xác định DNNN là quyền kiểm
soát và quyền chi phối chứ không dựa vào tiêu chuẩn sở hữu và quản lý
như một điều kiện cần và đủ. Nếu không sở hữu một lượng cổ phần cần
thiết thì không thể nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tiêu chí sở hữu để
xác định DNNN hoàn toàn mang tính định tính. Còn tiêu chí quyền chi
phối được áp dụng trong Luật DNNN năm 2003 là tiêu chí mang tính chất
định lượng. Tính định lượng thể hiện ở tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước
trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Như vậy, quyền kiểm soát được coi là

tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp có phải là DNNN hay không.
Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận DNNN. Do cách tiếp cận
DNNN như vậy nên hình thức pháp lý của DNNN trở nên đa dạng hơn bao
gồm: công ty nhà nước độc lập hoặc tổng công ty nhà nước, công ty cổ
phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên,
công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên, doanh nghiệp
có cổ phần hoặc vốn góp chi phối của Nhà nước, công ty Nhà nước giữ
quyền chi phối và loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ là cổ đông bình
thường.
II. Lý luận chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Chuyển đổi sở hữu là quá trình đa dạng hoá các DNNN, làm cho
doanh nghiệp đó không thuộc quyền sở hữu 100% của Nhà nước. Nói cách
khác, từ chỗ doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu thì nay doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Việc chuyển
đổi sở hữu này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, tự chủ tự
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Chuyển đổi sở hữu
được tiến hành theo ba hình thức: CPH, bán hoặc giao doanh nghiệp cho
tập thể người lao động.
1. Hình thức CPH
1.1. Mục tiêu, yêu cầu của CPH
1.1.1 Mục tiêu
Chuyển đổi những công ty Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ
100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn
của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài
để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản
lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và
người lao động trong doanh nghiệp.

1.1.2 Yêu cầu
Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục
tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát
triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
1.2. Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa
Các công ty nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ thực hiện CPH bao gồm: các Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân
hàng thương mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước); công ty nhà
nước độc lập; công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do
Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của
công ty nhà nước.
Những công ty nêu trên được tiến hành CPH khi còn vốn Nhà nước
(chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản
không cần dùng, tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài
sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí CPH.
Việc CPH đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước chỉ
được tiến hành khi:
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 7
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch
toán độc lập
- Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp
1.3. Hình thức CPH công ty nhà nước
Có ba hình thức CPH như sau:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu
cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô
và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ
phần được phản ánh trong phương án CPH.

- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu
hút vốn.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
2. Hình thức giao công ty nhà nước cho tập thể người lao động
Giao công ty cho tập thể người lao động được hiểu là việc chuyển đổi
sở hữu công ty nhà nước và tài sản nhà nước tại công ty thành sở hữu của
tập thể người lao động trong công ty có phân định rõ sở hữu của từng
người, từng thành viên với các điều kiện ràng buộc.
2.1. Mục tiêu của việc giao công ty nhà nước
Giao công ty nhà nước là biện pháp tiếp tục sắp xếp và đổi mới những
công ty nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, Nhà nước không cần nắm
giữ và không CPH được nhằm:
- Tạo điều kiện cơ cấu lại công ty nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế
và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước.
- Sử dụng có hiệu quả hơn số vốn, tài sản Nhà nước đã đầu tư vào
công ty, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh.
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 8
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
- Bảo đảm việc làm cho người lao động, thay đổi phương thức quản lý
công ty, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động.
- Giảm bớt chi phí và trách nhiệm trực tiếp kinh doanh của Nhà nước,
đảm bảo lợi ích chung cho cả Nhà nước và người lao động trong công ty.
Giao công ty nhà nước (gọi tắt là giao công ty) áp dụng đối với công
ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty
có vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán dưới 5 tỷ đồng.
2.2. Điều kiện giao doanh nghiêp cho tập thể người lao động
Tập thể người lao động trong công ty được xem xét giao công ty khi

đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Tự nguyện đăng ký nhận giao công ty
- Cam kết đầu tư thêm để phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc
làm tối thiểu từ 3 năm trở lên, đóng đầy đủ bảo hiểm cho người lao động
trong công ty theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp tự nguyện chấm
dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động và chính
sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty nhà nước).
- Kế thừa phần công nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty sau khi xử lý.
Kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với người lao động theo Bộ luật Lao động.
- Không được cho thuê, chuyển nhượng, tự giải thể công ty trong thời
gian tối thiểu 3 năm sau khi giao.
3. Hình thức bán công ty nhà nước
Bán công ty hoặc bộ phận của công ty là việc chuyển đổi sở hữu có
thu tiền toàn bộ công ty, bộ phận công ty sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc
pháp nhân khác.
3.1. Mục tiêu của việc bán công ty nhà nước
Việc thực hiện bán công ty nhà nước nhằm cơ cấu lại công ty, nâng
cao khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Thông qua đó, sử dụng có hiệu quả số vốn, tài sản của
Nhà nước và khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác cho
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 9
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
Khi tiến hành bán công ty nhà nước, người lao động sẽ được bảo đảm
việc làm, ổn định thu nhập và phát huy quyền làm chủ của người lao động.
Lúc này, Nhà nước sẽ không sở hữu hoàn toàn DNNN đã thực hiện bán nên
giảm bớt chi phí và trách nhiệm kinh doanh của Nhà nước. Do đó bảo đảm
được lợi ích của cả Nhà nước và người lao động.
3.2. Các phương thức tiến hành bán công ty nhà nước
Việc bán DNNN được tiến hành theo ba phương thức: đấu thầu, đấu

giá hoặc bán trực tiếp.
Nếu có từ hai người trở lên đăng ký mua doanh nghiệp thuộc diện phải
chuyển đổi sở hữu thì doanh nghiệp sẽ được bán theo phương thức đấu thầu.
Trường hợp công ty đã giải quyết hết số lao động hoặc đã phê duyệt
phương án giải quyết hết số lao động theo quy định mà lại có từ hai người
đăng ký mua trở lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu giá
theo Quy chế bán đấu giá do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh nghiệp sẽ được bán theo
phương thức trực tiếp.
Người đăng ký mua doanh nghiệp có quyền đến doanh nghiệp nghiên
cứu sổ sách kế toán, bảng kê tài sản và thực trạng hoạt động của doanh
nghiệp để quyết định có tiếp tục mua doanh nghiệp hay không.
Tóm lại, việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN chỉ được cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt khi có phương án sử dụng lao động trong doanh
nghiệp hợp lý. Đây chính là mục tiêu chung và quan trọng nhất của các
hình thức chuyển đổi sở hữu DNNN.
4. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở nước ta diễn ra nhanh hay
chậm, thuận lợi hay khó khăn là do sự tác động của rất nhiều nhân tố. Các
nhân tố đó có quan hệ tác động qua lại hoặc cùng chiều hoặc ngược chiều.
Nếu chúng tác động đồng thuận sẽ tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi
sở hữu diễn ra nhanh. Ngược lại, nếu chúng tác động ngược chiều nhau sẽ
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 10
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
làm chậm lại quá trình chuyển đổi. Có rất nhiều nhân tố tác động nhưng
theo em bốn nhân tố sau có tác động mạnh nhất.
4.1. Tâm lý, nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động
Khi nhắc đến chuyển đổi sở hữu là phải kể đến những người trực tiếp
tham gia chuyển đổi. Đó là cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao

động. Nếu thái độ và nhận thức của họ thông suốt, sẵn sàng tiến hành
chuyển đổi doanh nghiệp thì sẽ đẩy nhanh tiến trình chuyển sở hữu.
Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp, vẫn còn tồn tại trong họ tâm lý
bất di bất dịch “chủ nghĩa xã hội gắn liền với sở hữu nhà nước”. Nếu những
tâm lý tiểu nông ấy không được gạt bỏ thì khó có thể thực hiện chuyển đổi
sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ còn lo sợ bị mất lợi ích, lo sợ
chuyển đổi sẽ làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là rào cản của
quá trình chuyển đổi sở hữu.
Đối với người lao động, nếu họ thông suốt được vai trò và ưu thế của
việc chuyển đổi, hiểu được vì sao phải tiến hành chuyển đổi thì chắc chắn
họ sẽ là lực lượng nòng cốt của quá trình chuyển đổi. Nhận thức và tâm lý
được giải toả, người lao động sẽ sẵn sàng và quyết tâm thực hiện chuyển
đổi sở hữu DNNN.
4.2. Cơ chế chính sách liên quan đến việc chuyển đổi sở hữu
Sở hữu luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của mọi thời kỳ lịch
sử. Nó vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nó cũng tác
động trở lại đến quá trình kinh tế xã hội. Chính vì vậy, vấn đề sở hữu luôn
là mối quan tâm của các nhà chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Việc tiến hành chuyển đổi sở hữu DNNN đồng nghĩa với việc giảm sở hữu
Nhà nước, đây là vấn đề không mới nhưng chúng ta vẫn phải vừa làm vừa
“dò dẫm” và học hỏi kinh nghiệm các nước bạn. Bởi vậy, để việc chuyển
đổi sở hữu được tiến hành thống nhất trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà
nước đã không ngừng ban hành các quyết định, nghị định phù hợp với điều
kiện thực tế khi tiến hành chuyển đổi. Cơ chế chính sách được ban hành có
phù hợp với thực tiễn, có phù hợp với yêu cầu đổi mới hay không phụ
thuộc vào sự nhanh nhẹn và nhạy bén của cơ quan thường trực sắp xếp và
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 11
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đổi mới DNNN. Chỉ khi nào những cơ chế chính sách không còn là rào cản
cho quá trình chuyển đổi thì quá trình đó mới diễn ra theo đúng mục tiêu

mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Một trong những chính sách có tác động mạnh đến sự chuyển đổi sở
hữu DNNN chính là chính sách ưu đãi đối với người lao động. Niềm tin
của người lao động trong doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sở hữu về
khả năng thành công có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo chủ trương của
Đảng khi tiến hành chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần là ưu tiên
bán cổ phần cho người lao động để đảm bảo thu nhập và quyền làm chủ
của người lao động. Nếu chuyển sang hình thức giao hoặc bán thì đối
tượng nhận mua hoặc nhận giao chủ yếu là tập thể người lao động. Do vậy,
nếu không có những chính sách ưu đãi phù hợp với người lao động tạo cho
họ niềm tin về sự hiệu quả về khả năng kinh doanh có lời sau khi tiến hành
chuyển đổi sở hữu thì người lao động sẽ không chủ động tham gia vào quá
trình chuyển đổi.
Xuất phát từ mục tiêu đảm bảo thu nhập, nâng cao mức sống của
người lao động cùng với việc đẩy mạnh hiệu quả sử dụng đồng vốn kinh
doanh sau chuyển đổi là những yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho người
lao động khi tham gia chuyển đổi sở hữu. Muốn như vậy thì cơ chế chính
sách ưu đãi người lao động phải phù hợp và dễ hiểu để người lao động
không cảm thấy khó khăn khi tiếp cận chính sách pháp luật.
4.3. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện
Có được cơ chế chính sách về chuyển đổi sở hữu phù hợp đã quan
trọng thì sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước lại càng quan trọng hơn. Nó
quyết định rất nhiều đến sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển
đổi sở hữu. Bởi một Nghị định hay Quyết định được ban hành, không phải
cơ quan nào, cấp có thẩm quyền nào cũng có thể hiểu thông suốt, cũng có
khả năng tiến hành thực hiện. Việc thực hiện phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn
cụ thể của Đảng và Nhà nước. Một Nghị định được ban hành về một vấn đề
kinh tế xã hội nào đó thì kèm theo nó là một Thông tư hướng dẫn cụ thể
việc thi hành Nghị định ấy. Mà việc chuyển đổi sở hữu DNNN khá phức
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 12

Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
tạp và “đụng chạm” đến quyền lợi của nhiều người. Vì vậy, cần phải có sự
chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể thông qua Ban chỉ đạo chuyển đổi.
Ban chỉ đạo chuyển đổi bao gồm nhiều cá nhân được lựa chọn và cùng
nhau chuẩn bị các chương trình hành động, lên kế hoạch sắp xếp lại hay kế
hoạch chuyển đổi sở hữu DNNN. Ban chỉ đạo có trách nhiệm nghiên cứu
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước cũng như các Bộ, ngành có liên
quan, tham khảo ý kiến tư vấn trong trường hợp cần thiết. Ban chỉ đạo sẽ
thay mặt Đảng và Nhà nước tiến hành chuyển đổi sở hữu các DNNN cần
phải chuyển đổi. Đồng thời cũng thay mặt Nhà nước trực tiếp quản lý quá
trình chuyển đổi. Do đó, Ban chỉ đạo có tầm quan trọng rất lớn, có ảnh
hưởng không chỉ với tiến độ chuyển đổi mà còn ảnh hưởng đến khả năng
phát triển trong tương lai của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Bởi vậy, việc
lựa chọn các thành viên trong Ban chỉ đạo chuyển đổi cũng vô cùng quan
trọng. Nếu các cá nhân trong Ban chỉ đạo chỉ đưa ra những ý kiến đánh giá
nhằm duy trì quyền lợi cá nhân hay các ý kiến mang tính chủ quan, duy ý
chí thì mục tiêu hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi sẽ không thể thực
hiện được. Chính vì vậy, các thành viên phải là những người quán triệt sâu
sắc chủ trương đổi mới DNNN của Đảng và Nhà nước, có trình độ, có kinh
nghiệm, có nhiệt huyết đối với công cuộc đổi mới để “thổi những luồng gió
mới” vào quá trình chuyển đổi sở hữu. Có như thế, quá trình chuyển đổi sở
hữu DNNN mới được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
4.4. Nhân tố xuất phát từ chính trong nội tại doanh nghiệp
Quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN có tiến hành thuận lợi khi bản
thân doanh nghiệp vẫn còn tồn tại những rào cản cản trở sự chuyển đổi?
Những rào cản phải kể đến là: quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, nợ
của DNNN và giá trị tài sản của doanh nghiệp trước khi chuyển đổi.
Một là, bất cập từ quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị
doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong giá trị cổ phần của người lao động
khi thực hiện giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động, có vai trò

trong việc hình thành cơ cấu cổ phần lần đầu khi thực hiện CPH và có vai
trò trong việc xác định giá bán doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp cao hay
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 13
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
thấp có ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả chuyển đổi. Bởi sau khi tiến
hành chuyển đổi sở hữu bằng CPH, giao, bán doanh nghiệp thì phải thông
qua tỷ suất lợi nhuận vốn góp của cổ động hoặc lợi suất của tài sản để đánh
giá hiệu quả của việc chuyển đổi. Giá trị của doanh nghiệp được xác định
theo giá thực tế là tốt nhất. Nếu đánh giá quá cao sẽ tạo tâm lý e ngại không
muốn mua cổ phần hoặc không muốn mua lại doanh nghiệp. Ngược lại, nếu
giá trị doanh nghiệp được xác định ở mức thấp sẽ tạo lợi thế cạnh tranh để
loại bỏ các đối thủ khác.
Hai là, nợ tồn đọng của DNNN. Do đầu tư kém hiệu quả, nhiều doanh
nghiệp thua lỗ, không có vốn trả nợ ngân hàng, nợ tồn đọng của những năm
trước để lại còn quá lớn. Sự khó khăn về tài chính và vấn đề xử lý tài chính
như thế nào đã gây trở ngại lớn cho quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN.
Nếu nợ tồn đọng quá nhiều và doanh nghiệp không có phương án giải trình
khắc phục và đảm bảo khả năng trả nợ thì doanh nghiệp không thể tiến
hành chuyển đổi sở hữu. Bởi trong hồ sơ chuyển đổi sở hữu, DNNN cần
phải giải trình cụ thể và chi tiết số tiền bán cổ phần hay số tiền bán doanh
nghiệp sẽ được sử dụng như thế nào.
Ba là, giá trị tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi. Việc
xác định giá trị tài sản doanh nghiệp vào giá trị doanh nghiệp có đúng hay
không? Việc làm này có làm nâng cao giá trị doanh nghiệp hay không? Đối
với những tài sản cần thanh lý thì thanh lý vào lúc nào, trước hay sau khi
chuyển đổi? Bên cạnh đó, những vướng mắc về đất đai và sở hữu tài sản
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển đổi sở hữu. Nếu giá
trị tài sản của doanh nghiệp được xác định rõ ràng, quyền sở hữu tài sản và
đất đai được giải quyết dứt điểm thì việc chuyển đổi sở hữu sẽ gặp nhiều
thuận lợi và quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra nhanh hơn và đúng tiến độ.

Bốn là, tính chất kinh tế của sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho
thị trường. Những sản phẩm nào thích ứng với thị trường, đáp ứng yêu cầu
của người tiêu dùng, có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ sẽ hấp dẫn các
thành phần kinh tế khác nhảy vào. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc thực
hiện chuyển đổi sở hữu nhanh hơn và hiệu quả hơn. Ngược lại, đối với
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 14
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
những sản phẩm mà để sản xuất ra nó đòi hỏi phải có quy mô vốn đầu tư
lớn, thời gian quay vòng vốn lâu thì không hấp dẫn các nhà đầu tư nên việc
chuyển đổi sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn.
III. Sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp nhà nước ỏ Việt Nam
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã được xác định rõ từ Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần trong đó thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo. Đến Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X, quan điểm ấy vẫn không hề thay đổi mà phát
triển cao hơn thích nghi với điều kiện kinh tế - xã hội mới. Nhưng thực tế
cho thấy, trong những năm qua thành phần KTNN đặc biệt là bộ phận
DNNN hoạt động không có hiệu quả. Để có thể phát huy vai trò chủ đạo
của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì phải tiến
hành chuyển đổi sở hữu DNNN, chỉ giữ lại những doanh nghiệp mà Nhà
nước nắm 100% vốn trong các lĩnh vực kinh doanh phức tạp. Chuyển đổi
sở hữu những DNNN hoạt động không hiệu quả để thích nghi với nền kinh
tế nhiều thành phần, chuyển đổi để nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền
kinh tế và chuyển đổi để thích nghi với những yêu cầu của tình hình mới
1. Chính sách đa thành phần sở hữu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thực hiện nhất quán chính sách của Đảng về xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp phát
triển đa dạng, phong phú gồm nhiều loại hình sở hữu, nhiều quy mô, hoạt

động trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng.
Qua các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Đảng ta luôn khẳng
định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Thực tiễn đã chứng minh chủ trương đó là đúng và nhận được sự
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 15
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đồng tình nhất trí cao trong Đảng và nhân dân. Tuy nhiên việc xác định các
thành phần kinh tế cụ thể và vai trò của từng thành phần thì có nhiều ý kiến
khác nhau. Điều quan trọng là phải có chính sách khuyến khích mọi thành
phần kinh tế cùng phát triển, không phân biệt đối xử, kỳ thị, định kiến đối
với bất cứ thành phần kinh tế nào. Ở nước ta hiện nay có sáu thành phần
kinh tế khác nhau cùng tồn tại và thúc đẩy nhau cùng phát triển, đó là:
- Thành phần kinh tế Nhà nước, bao gồm các nguồn lực do Nhà nước
làm chủ sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình
sản xuất – kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Thành
phần KTNN về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc, sức mạnh của hệ
thống các DNNN.
- Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện giữa những người lao
động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể
để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề trong sản xuất – kinh doanh.
Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên
về sở hữu tập thể.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình kinh tế với các chủ thể là các hộ
sản xuất kinh doanh nhỏ, loại hình kinh tế này dựa trên sở hữu tư nhân. Các
hộ sản xuất kinh doanh ở cả phạm vi nông thôn và thành thị, với quy mô

nhỏ, chủ yếu dựa vào vốn và lao động của gia đình.
- Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Tuy đều là sở hữu tư nhân nhưng kinh tế tư bản tư nhân
phân biệt với kinh tế cá thể, tiểu chủ ở quy mô hoạt động. Kinh tế tư bản tư
nhân có quy mô sản xuất kinh doanh và quy mô sử dụng lao động lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân đại diện cho trình độ phát triển cao về kinh tế với
trình độ công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
- Kinh tế tư bản Nhà nước là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu hỗn hợp. Đó là hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước và
kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình kinh tế dựa trên vốn
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 16
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là loại hình kinh tế hỗ trợ và bổ sung quan
trọng cho các loại hình kinh tế trong nước về vốn, công nghệ và thị trường.
So với các loại hình kinh tế trong nước, loại hình này thường có trình độ
công nghệ và trình độ quản lý cao hơn. Do đó, đối với những nước như
nước ta, việc khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư
nước ngoài là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Cùng với việc xác định rõ 6 thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta, tại
Đại hội lần thứ X, quan điểm của Đảng ta về vị trí của các thành phần kinh
tế được hoàn thiện ở mức độ cao hơn. Đảng và Nhà nước ta đã xác định,
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN các thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển trong một thể thống nhất, mọi thành viên đều bình
đẳng và có quyền lợi cũng như nghĩa vụ trước pháp luật là như nhau. Trong
đó KTNN giữ vai trò chủ đạo, KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng quan trọng của nền kinh tế quốc dân và KTTN cũng có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Các thành
phần kinh tế tồn tại với vị trí quan trọng của nó và cần phải được chú trọng
phát triển.

2. Chủ trương chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước
Quyết định 155/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24
tháng 8 năm 2004 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà
nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Nhà
nước được xem là căn cứ để lựa chọn DNNN tiến hành chuyển đổi sở hữu.
Các DNNN sẽ dựa vào nội dung của Quyết định này để đánh giá xem
doanh nghiệp của mình có tiến hành chuyển đổi sở hữu được hay không.
2.1. Những công ty mà Nhà nước giữ 100% vốn
Nhà nước nắm giữ 100% vốn đối với những công ty hoạt động trong
các ngành, lĩnh vực sau:
- Những công ty hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng: Sản
xuất, cung ứng vật liệu nổ; Sản xuất, cung ứng hoá chất độc; Sản xuất,
cung ứng chất phóng xạ; Hệ thống truyền tải điện quốc gia; Mạng trục
thông tin quốc gia và quốc tế; Sản xuất thuốc lá điếu; Điều hành bay; Bảo
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 17
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đảm hàng hải; Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho
quốc phòng, an ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ
bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; Các công ty được giao
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các công ty đóng tại
địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ; In tiền, chứng chỉ có giá, sản xuất tiền kim
loại; Xổ số kiến thiết; Các nhà xuất bản; Sản xuất phim khoa học, phim
thời sự, phim tài liệu, phim cho thiếu nhi; Đo đạc bản đồ; Quản lý, bảo trì
hệ thống đường sắt quốc gia, cảng hàng không và cảng biển có quy mô lớn,
vị trí quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Quản lý, khai
thác công trình thuỷ nông đầu nguồn, công trình thuỷ nông có quy mô lớn;
Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Thoát
nước ở đô thị lớn; Chiếu sáng đô thị; Một số lĩnh vực quan trọng khác theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ

- Những công ty bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng
sâu, vùng xa.
- Những công ty đáp ứng đủ các điều kiện sau: vốn nhà nước từ 30 tỷ
đồng trở lên, mức thu nộp ngân sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ
3 tỷ đồng trở lên, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công
nghệ cao, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và hoạt động trong
những ngành, lĩnh vực sau: Chế biến dầu mỏ; Khai thác quặng có chất
phóng xạ; Đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường không; In sách, báo
chính trị; Bán buôn thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, hoá dược; Bán buôn
lương thực; Bán buôn xăng dầu; Vận tải đường không, đường sắt.
2.2. Những công ty tiến hành chuyển đổi sở hữu dưới hình thức cổ phần
hoá, giao cho tập thể người lao động hoặc bán
- Những công ty khi CPH, Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ
phần là những công ty có vốn nhà nước từ 20 tỷ đồng trở lên, mức thu nộp
ngân sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ 2 tỷ đồng trở lên, hoạt
động trong những ngành, lĩnh vực đã nêu ở trên và các ngành, lĩnh vực sau:
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 18
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
Sản xuất điện; Khai thác các khoáng sản quan trọng: than, bô xít, quặng
đồng, quặng sắt, quặng thiếc, vàng, đá quý; Sản xuất các sản phẩm cơ khí:
thiết bị kỹ thuật điện và vật liệu điện, máy công nghiệp chuyên dùng, máy
móc, thiết bị phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp, đóng và sửa chữa phương tiện
vận tải đường biển, đường sắt; Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông; Sản
xuất kim loại đen (gang, thép) trên 100.000 tấn/năm; Sản xuất xi măng
công nghệ hiện đại, chất lượng cao, có công suất thiết kế trên 1,5 triệu
tấn/năm; Sản xuất phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật; Sản xuất một số
mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm: muối ăn, sữa, bia trên 50 triệu lít/năm, cồn
và rượu trên 10 triệu lít/năm; Khai thác, lọc và cung cấp nước sạch ở các
thành phố lớn; Vận tải đường biển; Kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm; Sản xuất

giống cây trồng, vật nuôi; Dịch vụ đánh bắt hải sản xa bời; Quản lý, bảo trì
hệ thống đường bộ, đường thuỷ quan trọng; Quản lý, khai thác các công
trình thuỷ nông; Dịch vụ hợp tác lao động; Kinh doanh mặt bằng hội chợ,
triển lãm.
- Những công ty không thuộc mục kể trên khi tiến hành CPH, cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền căn cứ từng trường hợp cụ thể, quyết định việc
Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần.
- Những công ty không CPH được, thì thực hiện chuyển đổi sở hữu
dưới hình thức giao công ty cho tập thể người lao động hoặc bán công ty
theo quy định của Chính phủ.
3. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ chuyển
đổi kinh tế ở Việt Nam
DNNN là một công cụ quan trọng, một lực lượng vật chất hùng mạnh
giúp Nhà nước thực hiện ý đồ can thiệp của mình để đưa nền kinh tế vận
hành theo đúng định hướng và đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà
kinh tế thị trường thuần tuý không thể thực hiện được. Vai trò của DNNN
được thể hiện qua những khía cạnh chủ yếu sau:
3.1. DNNN là một tổ chức kinh tế có lợi thế so sánh so với các doanh
nghiệp cùng loại thuộc các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân
Lợi thế so sánh của DNNN thể hiện chủ yếu ở phương diện hiệu quả
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 19
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
xã hội. DNTN thuộc quyền sở hữu tư nhân nên mục tiêu chính của nó là
phải đem lại lợi nhuận tài chính cao cho chủ sở hữu doanh nghiệp, bất chấp
một thực tế rằng để đạt hiệu quả đó, xã hội có thể phải hy sinh hiệu quả
phân bổ nguồn lực ở một nơi nào đó trong nền kinh tế. Do đó, hiệu quả
tổng thể kinh tế - xã hội của doanh nghiệp tư nhân có thể không cao. Việc
hàng loạt DNTN hoạt động không chú ý đến những hậu quả về mặt môi
trường do mình gây ra là một thí dụ điển hình. Trái lại, DNNN thuộc quyền
sở hữu công cộng, nên mục tiêu chính của nó là phải tối đa hoá lợi ích của

chủ sở hữu, tức là nhân dân, thông qua đại diện của mình là Nhà nước.
Chính vì thế, đối với loại hình doanh nghiệp này, hiệu quả kinh tế xã hội
phải được đặt lên hàng đầu.
3.2. DNNN là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế
Điều này thể hiện rõ nét ở việc DNNN thường được trao nhiệm vụ đầu
tư vào những công trình kết cấu hạ tầng có quy mô tương đối lớn so với
năng lực của khu vực tư nhân và các loại hàng hoá công cộng khác mà tỷ
suất lợi nhuận không hấp dẫn DNTN. Đặc điểm chung của các công trình
kết cấu hạ tầng là quy mô vốn đòi hỏi tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn
lại lâu, kèm theo nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư mà bản thân DNTN
không thể kiểm soát nổi. Chính những đặc điểm này đã làm cho việc đầu tư
vào nhiều loại kết cấu hạ tầng không hấp dẫn DNTN. Bên cạnh đó, nhiều
loại hàng hoá công cộng còn có thuộc tính chung là rất khó loại trừ việc
tiêu dùng của những cá nhân “không sẵn sàng trả tiền” cho nó. Vì thế, nếu
DNTN đầu tư và thu hồi vốn thông qua việc thu phí sử dụng thì sẽ rất khó
khăn. Trái lại, một DNNN đầu tư với sự hỗ trợ vốn của Chính phủ lại có
thể giải quyết tốt vấn đề này.
Nếu coi hàng hoá công cộng do DNNN cung cấp là tiền đề cho sự phát
triển kinh tế thì tính chất tiền đề đó càng thể hiện rõ và phát huy tác dụng
trực tiếp nếu DNNN thiết lập mối quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp
thuộc các khu vực cần hỗ trợ. Bằng cách đó, DNNN sẽ góp phần tạo các
mối quan hệ xuôi chiều, ngược chiều, quan hệ mạng lưới với DNTN, trở
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 20
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
thành đối tác và là lực lượng hậu thuẫn cho sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân. Thông qua mối quan hợp tác này mà nền kinh tế sẽ đạt tốc độ
tăng trưởng vững mạnh hơn nhiều.
3.3. DNNN là một công cụ để góp phần khắc phục các khuyết tật của thị
trường

Điều này không chỉ thể hiện ở vai trò tiên phong của DNNN trong
việc cung cấp hàng hoá công cộng, mà còn thể hiện ở chỗ DNNN góp phần
điều tiết “độc quyền”, tạo ra các “ngoại ứng tích cực” và nâng cao hiệu quả
cung cấp thông tin thị trường.
Do tính chất tự nhiên của nhiều loại thị trường mà độc quyền vẫn tồn
tại như một tất yếu khách quan. Bên cạnh những tác động tiêu cực của độc
quyền như bán với giá cao, thu lợi nhuận siêu ngạch, lũng đoạn thị trường
cũng cần kể đến những tác dụng tích cực khác của nó như tăng cường tập
trung hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học công nghệ
mới, tranh thủ lợi thế kinh tế theo quy mô Vì thế, vai trò của Nhà nước
không phải là xoá bỏ độc quyền, mà là điều tiết để tranh thủ lợi ích và hạn
chế tác dụng của độc quyền.
Sự có mặt của DNNN trong những lĩnh vực kinh tế cơ bản như nghiên
cứu, triển khai, bảo vệ môi trường vừa là tiền đề cho phát triển kinh tế
bền vững, vừa tạo ra những ngoại ứng tích cực mà các thành phần kinh tế
khác cũng có thể tranh thủ được lợi ích của nó.
Cuối cùng, DNNN có thể cải thiện thông tin thị trường bằng cách cung
cấp các thông tin cạnh tranh để điều tiết giá cả thị trường hoặc trực tiếp
tham gia vào lĩnh vực thông tin tuyên truyền. Là một thành phần kinh tế
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, có khả năng chi phối một thị phần lớn,
những thông tin về giá cả do DNNN đưa ra sẽ là dấu hiệu quan trọng cho
các doanh nghiệp khác theo dõi những biến động của môi trường kinh
doanh.
3.4. DNNN góp phần cải thiện tình hình phân phối phúc lợi xã hội
Với hai đặc trưng cơ bản là “kinh doanh” và “công hữu”, thặng dư do
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 21
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
các hoạt động của DNNN tạo ra không bị phân tán cho các hoạt động tiêu
dùng và tái đầu tư tư nhân, mà được sử dụng tập trung cho khu vực công
cộng thông qua Chính phủ. Việc tự hạch toán và đóng góp cho Ngân sách

Nhà nước có vai trò tích cực nhằm giúp cắt giảm chi tiêu chính phủ và hạn
chế tăng thuế cá nhân. Tác dụng tạo công ăn việc làm và thu nhập của
DNNN cũng là một đóng góp có ý nghĩa, đặc biệt là ở những vùng sâu
vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn mà đầu tư tư nhân chưa vươn tới.
Tóm lại, những phân tích trên nói lên “vai trò tiềm năng” mà DNNN
có thể đảm nhiệm. Nhưng để biến vai trò đó thành hiện thực thì đòi hỏi bản
thân các DNNN phải tự phấn đấu vươn lên, đổi mới công tác quản lý, thực
hiện chuyển đổi sở hữu, kết hợp nhiều loại hình sở hữu khác nhau tạo điều
kiện kinh doanh có hiệu quả. Có như vậy doanh nghiệp mới thích nghi với
điều kiện cạnh tranh thị trường, thực sự giữ những vị trí then chốt trong nền
kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp nhà
nước chưa chuyển đổi và những yêu cầu mới đặt ra
4.1. Thực trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước
4.1.1. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh thấp
Theo đánh giá chung của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh
nghiệp Trung ương, số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm
40%, số doanh nghiệp chưa có hiệu quả, hoạt động sản xuất khi lỗ khi lãi
chiếm 31% và còn lại 29% số DNNN hoạt động không có hiệu quả, lỗ liên
tục trong nhiều năm liền. Cũng trong năm 2000, DNNN chỉ đóng góp cho
Ngân sách Nhà nước 39,2% tổng thu Ngân sách nhưng trong đó phần thuế
thu nhập doanh nghiệp chỉ có 13,4%. Một đồng vốn Nhà nước của doanh
nghiệp chỉ làm ra 0,095 đồng lợi nhuận trước thuế. Trong khi đó đối với
DNNN sau chuyển đổi thì tỷ lệ vốn/lợi nhuận trước thuế bằng 0,19 đồng.
Điều này đặt ra yêu cầu phải thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đến năm 2002, tỷ lệ lợi
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 22
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp

nhuận/vốn của DNNN vẫn ở mức thấp 2,9%, tỷ lệ lãi/doanh thu tiêu thụ
năm 2003 chỉ đạt 4,2% so với 13,6% của doanh nghiệp thuộc khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm
do DNNN sản xuất trên thị trường quốc tế và trong nước còn thấp. Một số
mặt hàng như sắt thép, phân bón, xi măng có mức giá cao hơn giá nhập
khẩu từ 20 - 40%, riêng mặt hàng dầu thô cao hơn 70 - 80%.
Hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của DNNN thấp là những nguyên
nhân chính dẫn đến tốc độ phát triển của DNNN không cao, thấp hơn nhiều
so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
4.1.2. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé
Xét về quy mô DNNN, các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn
chiếm tỷ trọng lớn.
Bảng 1: Quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước
S
T
T
Số lượng
DNNN
Quy mô vốn Nhà nước
<1 tỷ 1–5 tỷ
5–10
tỷ
>10 tỷ
1
Cộng tỉnh, thành phố 3833 1164 1736 469 464
Tỷ lệ (%) 100 30,35 45,37 12,20 12,08
2
Cộng các Tổng công ty 91 1224 134 527 225 338
Tỷ lệ (%) 100 10,97 43,04 18,41 27,58
3

Cộng các Bộ, ngành 553 16 95 71 371
Tỷ lệ (%) 100 2,88 17,15 12,82 55,97
4
Tổng số 5610 1314 2352 765 1773
Tỷ lệ (%) 100 23,43 42,02 13,64 20,89
Nguồn: Kinh tế Nhà nước và quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
Nxb Chính trị quốc gia, 2001
Qua bảng ta thấy, có tới 75,72% DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 23
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
đồng, còn tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Để thành phần kinh tế Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo của mình
trong nền kinh tế thì phải giảm dần số lượng các DNNN có quy mô vốn
dưới 5 tỷ đồng và tăng dần tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng.
Điều này đặt ra yêu cầu phải nỗ lực hơn nữa trong việc sắp xếp và đổi mới
DNNN đặc biệt là chuyển đổi sở hữu. Bởi thông qua việc nhiều loại hình
sở hữu cùng tồn tại trong một doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện tăng quy mô
vốn của doanh nghiệp.
4.1.3. Công nợ của các DNNN ngày càng tăng, lao động thiếu việc làm và
dôi dư còn lớn, trình độ quản lý còn yếu kém
Nợ của các DNNN đang là một gánh nặng khó khắc phục, nợ quá hạn
và nợ khó đòi ngày càng tăng. Tổng số nợ phải trả của DNNN tính đến
tháng 12 năm 2003 theo Bộ Tài chính lên đến 207,8 nghìn tỷ đồng, trong
đó 76% là vay nợ ngân hàng, còn lại là do chiếm dụng các khoản phải nộp
ngân sách hoặc chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác. Tình hình tài
chính không lành mạnh một phần là do lịch sử để lại, mặt khác là do lúng
túng, chưa có giải pháp khả thi xử lý dứt điểm. Điều này làm cho hạch toán
kế toán của doanh nghiệp bị méo mó, không minh bạch và DNNN luôn ở
trong tình trạng bị động đối với các khoản nợ khó đòi.
Lao động thiếu việc làm và dôi dư cũng là khó khăn lớn, ảnh hưởng

đến quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Không ít DNNN tuỳ tiện tăng
biên chế gián tiếp, trực tiếp quá mức khiến cho bộ máy làm việc cồng kềnh
dẫn đến chi phí tăng và năng suất lao động giảm. Bên cạnh đó, các DNNN
lại thiếu lao động trẻ có trình độ chuyên môn cao, người lao động đang làm
việc phần lớn chưa qua đào tạo hoặc làm việc trái nghề dẫn đến năng suất
lao động thấp. Năm 2000, theo báo cáo của Bộ Lao động – thương binh và
Xã hội, số lao động mất việc và không có việc làm thường xuyên ở các
DNNN là 20%, và đến năm 2002, 2003 tăng lên tương ứng là 26% và 28%.
Thêm vào đó là trình độ quản lý của lãnh đạo DNNN chưa đáp ứng
được yêu cầu của cơ chế thị trường, chưa năng động, nhanh nhạy với điều
kiện mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo hoặc đào tạo lại nên
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 24
Bùi Thị Thu Hương - Kế hoạch 44 - KTQD Luận văn tốt nghiệp
không đáp ứng được nhu cầu chuyên môn của công việc. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ quản lý sa sút về phẩm chất đạo đức, dựa vào hoạt động
sản xuất của doanh nghiệp để làm lợi cho cá nhân.
4.1.4. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu
Theo khảo sát của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tại nhiều
DNNN, thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới
10 – 20 năm, trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10%, tài sản ở dạng
thanh lý chiếm 38% và 52% đã qua bảo dưỡng, sửa chữa. Hậu quả là chưa
tạo được nhiều sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất xám cao trên cơ sở
kết hợp phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu
quả hợp tác quốc tế.
Tóm lại, với thực trạng hoạt động kém hiệu quả như trên của những
DNNN chưa chuyển đổi trong thời gian qua đặt ra yêu cầu phải thực hiện
các giải pháp mạnh mẽ và cương quyết nhằm nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của DNNN. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là thực
hiện chuyển đổi sở hữu DNNN. Có như vậy DNNN mới phát huy tác dụng
trong việc nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực KTNN.

4.2. Những yêu cầu mới đặt ra
4.2.1. Gắn kết lợi ích của người lao động, lợi ích của người quản lý với lợi
ích của Nhà nước
Trong các DNNN chưa có sự xác định thực sự mối quan hệ giữa chủ
sở hữu và người điều hành. Do đó không xác định rõ trách nhiệm trong
quyền điều hành hoạt động của DNNN. Bản thân yếu tố sở hữu được quan
niệm là Nhà nước nhưng tồn tại một cách chung chung, thiếu cụ thể về
người đại diện. Điều hành các DNNN là ban giám đốc, ban quản lý nhưng
thiếu những yếu tố ràng buộc trách nhiệm và hạn chế cả về quyền hạn nên
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ từ phía chủ sở hữu và thiếu tính tích cực chủ
động sáng tạo trong điều hành của bộ máy quản lý. Vì vậy, các doanh
nghiệp này thường chậm đổi mới về mọi mặt, kém năng động trên thị
trường, né tránh thách thức và ít mạnh dạn trong hoạt động kinh doanh, bỏ
lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và phát triển.
Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 25

×