Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.89 KB, 71 trang )

Lời nói đầu
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến đổi to lớn.
Cột mốc đánh dấu sự thay đổi lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam chính là việc Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO trong
năm 2007 sau quá trình chuẩn bị 11 năm với hơn 200 cuộc đàm phán. Gia nhập vào
WTO cũng có nghĩa là Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào
sân chơi chung của thế giới, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Một
trong những thách thức to lớn mà Việt Nam sẽ gặp phải đó là sức ép cạnh tranh của
các doanh nghiệp nước ngoài trên một sân chơi bình đẳng theo qui định chung khi gia
nhập vào ngôi nhà WTO. Đứng trước tình hình sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh
khi hội nhập, khối doanh nghiệp Việt Nam nói chung và hệ thống các doanh nghiệp
nhà nước nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém như: công nghệ lạc hậu, tài sản
manh mún, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao
động sa sút.... Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước
như: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp chuyển lại các doanh
nghiệp Nhà nước theo mô hình công ty mẹ-con, công ty trách nhiệm hữu hạn hay
thực hiện các hình thức bán khoán, cho thuê, hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả... trong đó cổ phần hoá được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng
mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như cho nhiều bộ phận xã hội khác.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, đòi
hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị , như vậy
sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Công cuộc chuyển đổi doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp nhà nước nói riêng là điều kiện bắt buộc không chỉ để có thể cạnh tranh được
với các doanh nghiệp nước ngoài mà còn để có thể tham gia sân chơi theo đúng điều
lệ từ WTO. Việc cải cách hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với qui định của
WTO là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Do đó bộ luật doanh


nghiệp Việt Nam đã được ban hành vào các năm 1999, 2003 và 2005 đã có những tác
động to lớn trong công cuộc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, công
1
cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là cổ phần hóa diễn ra dù đã đạt
được những thành tựu nhất định xong vẫn còn diễn ra chậm và khó có thể hoàn thành
theo đúng mốc thời gian khi luật doanh nghiệp nhà nước năm 2005 sẽ hết hiệu lực
vào ngày 1-7-2010 trong khi vẫn còn khoảng 1507 doanh nghiệp nhà nước đang tồn
tại. Đứng trước khó khăn đó chính phủ đã ban hành nghị quyết chuyển đổi những
doanh nghiệp đang tồn tại sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên để
giải tỏa áp lực về mặt thời gian. Sau đó khối doanh nghiệp vẫn được hướng đến mục
tiêu cổ phần hóa như đã định. Chính vì vậy thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước đã trở thành một mục tiêu vô cùng quan trọng và cần thiết đối
với nền kinh tế Việt Nam trong thời điểm này.
Với những lí do nêu trên em xin mạnh dạn trình bày những quan điểm, nghiên
cứu trong chuyên đề thực tập với đề tài: “Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.”
Chuyên đề thực tập của em gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước.
Phần II: Thực trạng cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Phần III: Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam.
Trong khuôn khổ bài viết, mặc dù đã cố gắng tìm hiểu, sưu tầm tài liệu và
nghiên cứu về đề tài trên xong em vẫn không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Vì
vậy em rất mong có được sự chỉ bảo của thầy cô để chuyên đề thực tập của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn cùng các cô bác, anh
chị trong ban cải cách và phát triển doanh nghiệp thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế trung ương đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành
chuyên đề thực tập này.
2

Phần I: Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước
I. Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
1. Cổ phần hóa
Cho đến nay, trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển
kéo theo hạn chế là sự cạnh tranh khốc liệt và bất bình về mặt xã hội tăng lên. Để
giảm bớt và kìm hãm những hạn chế trên, đồng thời thực hiện chức năng quản lý của
mình, Nhà nước sử dụng một công cụ hữu hiệu là bộ phận kinh tế Nhà nước, mà
trung tâm là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc lạm dụng quá mức sự can thiệp
của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế. Từ đó vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển xã
hội đồng thời vai trò quản lý của Nhà nước vẫn được giữ vững.
Một hiện tượng kinh tế nổi bật trên toàn thế giới trong những năm 1980 là sự
chuyển đổi sở hữu Nhà nước : Chỉ tính từ năm 1984 đễn năm 1991, trên toàn thế giới
đã có trên 250 tỷ USD tài sản Nhà nước được đem bán.Chỉ riêng năm 1991 chiếm
khoảng 50 tỷ USD. Đến nay đã có hàng trăm nước phát triển trên thể giới đều xây
dựng và thực hiện cổ phần hoá một cách tích cực. Do đó, việc cổ phần hoá được coi
như là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự yếu kém trong kinh doanh của bộ
phận doanh nghiệp Nhà nước.Vậy cổ phần hoá là gì, vai trò, đặc điểm của nó ra sao,
mà nhiều nước trên thế giới sử dụng nó trong công tác quản lý kinh tế như vậy.
Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là
quá trình Tư nhân hoá. Tư nhân hoá theo như định nghĩa của Liên Hợp Quốc là sự
biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một
nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ các chính sách, thể chế, luật
lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế tế cơ sở, giành cho thị
trường vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hoá

giá cả, tự do lựa chọn đối tác và nghành nghề kinh doanh.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc Nhà
nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân hay tổ chức
3
kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính
doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trường
chứng khoán để hình thành lên các Công ty TNHH hay Công ty Cổ phần.
Như vậy cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu
-chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước thành
công ty Cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp
với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái
niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là: việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở
hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa
sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước
sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp.
2. Nội dung của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
2.1. Đối tượng cổ phần hóa
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những doanh nghiệp Nhà nước
hội tụ đủ 3 điều kiện: có quy mô vừa và nhỏ; không thuộc diện Nhà nước giữ 100%
vốn đầu tư; có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn
nhưng triển vọng tốt.
Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 (doanh nghiệp không thuộc diện Nhà
nước giữ 100% vốn đầu tư) được coi là quan trọng nhất bởi những doanh nghiệp Nhà
nước giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là đòn bẩy kinh
tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng XHCN.
2.2. Về lựa chọn hình thức tiến hành Cổ phần hóa
Theo quy định thì có 4 hình thức Cổ phần hoá, Ban cổ phần hoá sẽ lựa chọn
một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và người lao động. Các

hình thức đó là: giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp; bán một phần giá trị
thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp; tách một bộ phận của doanh nghiệp để
cổ phần hoá; bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để
chuyển thành công ty cổ phần.
2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp
4
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức nhất
trong quá trình Cổ phần hoá. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được đưa
ra, đó là:
Giá trị thực tế là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm
cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và
người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại
các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường chứng
khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm
toán( đã diễn ra trên thị trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác
định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải
trả.
Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế
toán của doanh nghiệp tại thời điểm Cổ phần hoá và giá trị thực tế của tài sản tại
doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật,
nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm Cổ phần hoá.
Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá trị
doanh nghiệp.
Thực tế việc Cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp đăng
ký Cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp giá trị doanh nghiệp, thông qua việc
khai báo không chính xác như khai thấp giá trị TSCĐ của doanh nghiệp, khai không
đúng lượng vốn…từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh nghiệp và gây
thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn

giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần.
2.4. Về việc xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần
Các đối tượng được phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó cná bộ công
nhân viên tại các doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần.
Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau:
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp
nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ
phần của doanh nghiệp.
5
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt:
Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10%
tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp Nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn chế số lượng cổ
phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông
tối thiểu theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ
phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ
phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ
phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với mức
giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi năm làm việc tại doanh
nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với người lao động nghèo trong doanh
nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền
mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này sẽ trả dần trong
10 năm không phải trả lãi.
3. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
3.1. Khái niệm về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một trong những trọng tâm và là lĩnh vực
cải cách nhạy cảm, khó khăn nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Đó là vì đây không phải là vấn đề kinh tế mà

còn là vấn đề mang tính tư tư tưởng, chính trị, xã hội và tâm lý. Đổi mới doanh
nghiệp nhà nước thường có 2 nội dung chủ yếu là giảm qui mô khu vực doanh nghiệp
nhà nước và cải cách thể chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt sử dụng vốn nhà nước đầu
tư vào doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
còn lại.
Có hai cách tiếp cận trong công tác tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Cách thứ nhất đó là tư nhân hóa nhanh chóng hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và
cách thứ hai đó là vừa tiến hành từng bước quá trình cổ phần hóa, đa dạng hóa sở
hữu, vừa chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty hiện
đại. Đây cũng chính là cách thức mà Việt Nam đang tiến hành áp dụng. Việc chuyển
đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại đã được chính phủ
thông qua trong nghị định số 95/2006 và theo qui định của luật doanh nghiệp năm
2005 các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải chuyển đổi thành công ty TNHH 1 thành
viên hoạt động theo luật doanh nghiệp.
6
Có thể hiểu khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển
doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty trong đó
không thay đổi bản chất sở hữu mà chỉ thay đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp
nhà nước. Vốn của các doanh nghiệp này vẫn do nhà nước nắm giữ 100% nhưng
doanh nghiệp được chủ động hơn, quyền hạn, nghĩa vụ, tổ chức, quản lý sau chuyển
đổi sẽ tương tự như các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp. Việc chuyển
đổi doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty không chỉ là giải pháp để giải tỏa
sức ép chuyển đổi doanh nghiệp mà còn là phương tiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động và phát triển khu vực doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, hoạt động theo thị
trường để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững và nâng cao hiệu quả
của toàn bộ nền kinh tế.
3.2. Các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
3.2.1. Chuyển đổi DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con
Công ty mẹ- công ty con là loại hình liên kết mới mang bản chất đầu tư hoặc
liên kết tài chính giữa các doanh nghiệp sau khi cơ cấu lại các đơn vị thành viên tổng

công ty, hoặc cơ cấu lại các đơn vị thuộc các công ty nhà nước độc lập quy mô lớn,
hoặc doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Kết quả của quá trình này là các
công ty tự đầu tư, góp vốn mua cổ phần của nhau hoặc của các doanh nghiệp khác
ngoài tổng công ty, dẫn đến hình thành loại doanh nghiệp chi phối doanh nghiệp
khác. Hiện nay hầu hết các tổng công ty đều đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa sở
hữu các đơn vị thành viên, có tổng công ty đã cổ phần hóa hơn 50% đơn vị thành
viên của mình. Trong cơ cấu của tổng công ty này có loại hình công ty nhà nước qui
mô lớn( là công ty mẹ) nắm giữ quyền chi phối công ty khác( là công ty con). Bên
cạnh đó cũng có các doanh nghiệp độc lập ngoài tổng công ty, thậm chí doanh nghiệp
thành viên của tổng công ty cũng thực hiện các hoạt động đầu tư, góp vốn mua cổ
phần tương tự và trở thành công ty mẹ- công ty con.
Hiện nay có hai con đường để các tổng công ty và công ty nhà nước độc lập
chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Một số doanh nghiệp
chuyển đổi theo đề án do Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp đã hoạt động theo mô hình này một cách thực chất, không bằng giải pháp
hành chính chuyển đổi mà thông qua nhiều biện pháp kinh tế khác nhau như đầu tư
vào các doanh nghiệp, cổ phần hóa và đa dạng hóa đơn vị sở hữu thành viên, mua cổ
phần hoặc góp vốn, trong đó tổng công ty hoặc công ty nhà nước độc lập giữ cổ
phần, vốn góp chi phối.
7
Đến nay có 70 DNNN là tổng công ty, công ty nhà nước độc lập hoặc là thành
viên của tổng công ty được chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ -
công ty con. Trong đó, có 52 DNNN chuyển đổi theo đề án của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt và 18 doanh nghiệp do các Bộ, UBND cấp tỉnh phê duyệt, mà thực chất
trong số đó nhiều doanh nghiệp trên thực tế đã hình thành cơ cấu công ty mẹ - công
ty con.
Mô hình công ty mẹ-công ty con không còn giới hạn trong khu vực DNNN mà
đã mở rộng ra khu vực kinh tế tư nhân, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mô hình
này đã tạo ra hướng liên kết hoàn toàn mới, bền chặt hơn bằng đầu tư, góp vốn giữa
các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, phù hợp với

việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Liên kết bằng
vốn đầu tư này là hoàn toàn tự nguyện, phụ thuộc vào năng lực tài chính của các công
ty tự đầu tư vào nhau này. Những nhược điểm cố hữu của mô hình tổng công ty nhà
nước đang được khắc phục, nhất là nhược điểm về liên kết và tính đơn điệu trong cơ
cấu đơn vị thành viên.
3.2.2. Chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên
Các doanh nghiệp thuộc đối tượng chưa chuyển đổi sở hữu, nhà nước còn nắm
giữ 100% vốn sẽ được chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên hoạt động
theo luật doanh nghiệp. Cho đến nay có khoảng 200 doanh nghiệp chuyển đổi theo
hình thức này và nhiều công ty TNHH một thành viên được thành lập mới từ vốn nhà
nước. Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 qui
định các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn sẽ phải chuyển sang công ty
TNHH một thành viên trong thời hạn tối đa là 4 năm. Như vậy, số 1800 doanh nghiệp
mà Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn theo kế hoạch đến cuối năm 2006, kể cả tổng
công ty, các công ty mẹ, sẽ phải chuyển dần sang công ty TNHH một thành viên và
hoàn thành chuyển đổi vào thời điểm ngày 1 tháng 7 năm 2010.
Việc chuyển công ty nhà nước sang công ty TNHH một thành viên không chỉ
là sự chuyển đổi về hình thức pháp lý mà quan trọng hơn là thông qua sự chuyển đổi
tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước phát huy
đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bình đẳng với các doanh
nghiệp khác về quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức quản lý và môi trường hoạt động
kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, tiến dần đến việc các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đều hoạt động theo một quy luật chung.
8
3.2.3. Chuyển đổi cơ chế quản lý đối với DNNN
Đối với các DNNN mà Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn, dù đã chuyển
đổi sang công ty TNHH một thành viên hay chưa chuyển đổi, vẫn phải tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và
cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp

luật. Đối với những DNNN đã chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, thì
hoạt động hoàn toàn theo luật doanh nghiệp bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Những DNNN chưa chuyển đổi theo nghị quyết TW3(khóa IX) cần xóa bao cấp,
đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh
vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển, trừ những bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với
những ngành, lĩng vực, sản phẩm quan trọng. Nghị quyết TW9 (khóa IX) đã phát
triển thêm một bước về cơ chế quản lý là yêu cầu kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ
bất hợp lý, sớm khắc phục bao cấp bao gồm khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp
vốn tín dụng ưu đãi tràn lan, yêu cầu khẩn trương xóa đặc quyền và độc quyền kinh
doanh của DNNN theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như
luật DNNN năm 2003, 2005, các Nghị định, quyết định và các văn bản hướng dẫn
nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của công
ty nhà nước, ngăn chặn khả năng kém hiệu quả của DNNN ngay từ khi thành lập, ban
hành cơ chế quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN, thành lập công ty mua bán
nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, ban hành chính sách đối với lao động dôi
dư do sắp xếp lại DNNN… Yêu cầu đối với DNNN phải không ngừng được đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả, lấy suất sinh lời trên vốn là một trong những tiêu
chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả. Sau khi ban hành luật DNNN và Nghị định
31/2005/ ND-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, không còn loại
DNNN chuyên sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước bắt đầu
khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những
sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần mà pháp luật không cấm và chuyển sang
đặt hàng và đấu thầu sản phẩm công ích.
Cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo
luật DNNN được đổi mới cơ bản, theo hướng tiến tới sự ngang bằng về quyền tự chủ
so với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp phải sản xuất
kinh doanh với các nguyên tắc thị trường, giảm thiểu tình trạng lãng phí nguồn lực
nhà nước đầu tư, phải đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích cùng với các
9

thành phần kinh tế khác, chuyển dần sang cơ chế thuê giám đốc, có thể thuê cả người
nước ngoài… Công ty nhà nước có các quyền chiếm hữu và sử dụng đối với vốn và
tài sản như các loại hình doanh nghiệp khác.
3.2.4. Chuyển đổi quyền chủ sở hữu
Đây là vấn đề đề khó khăn nhất của chuyển đổi DNNN, mặc dù là nội dung
quan trọng và được đề cập nhiều trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Từ Đại
hội Đảng VII và các Đại hội Đảng tiếp theo, cũng như trong nhiều nghị quyết Trung
ương của các kỳ Đại hội Đảng đã đưa ra các chủ trương như: xóa bỏ chế độ chủ
quản, cấp hành chính chủ quản, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, chuyển
sang thực hiện chế độ quản lý công ty đối với DNNN, đầu tư vốn qua các công ty đầu
tư tài chính nhà nước, thành lập các công ty đầu tư tài chính nhà nước; Hội đồng
quản trị là đại diện trực tiếp sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp; Chính phủ thống
nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN, chính
phủ ủy quyền cho các bộ, phân cấp cụ thể cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của
nhà nước phù hợp với các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước, bảo đảm ở đâu có
vốn của nhà nước thì phải có tổ chức hoặc cá nhân được giao quyền đại diện nhà
nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ
rang, không phân biệt DNNN do Trung ương hay địa phương quản lý…
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước
1. Các nhân tố chủ quan
1.1. Xây dựng và phê duyệt phương án chuyển đổi
Một trong những thủ tục mà doanh nghiệp cần phải làm khi chuyển đổi thành
mô hình công ty là xây dựng điều lệ công ty sau chuyển đổi. Tuy nhiên, do vướng
mắc về mô hình tổ chức (đa số doanh nghiệp mong muốn chọn phương án Chủ tịch
công ty kiêm Tổng giám đốc nhằm tạo sự đơn giản, gọn nhẹ về bộ máy và tiết kiệm
chi phí), nhưng chưa có quy định cụ thể có cho phép hay không cho phép Chủ tịch
kiêm Giám đốc công ty, nên việc xây dựng, phê duyệt phương án chuyển đổi và xây

dựng, phê duyệt điều lệ bị kéo dài. Một số địa phương và doanh nghiệp tự quyết định
chọn phương án kiêm nhiệm giữa 2 chức danh này.
Bên cạnh đó, việc kết hợp tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp (trong cùng một
ngành, lĩnh vực) với quá trình chuyển đổi cũng dẫn đến quá trình chuyển đổi bị kéo
10
dài tại một số tỉnh. Hoặc, việc chưa hướng dẫn cụ thể xác định vốn điều lệ của các
công ty đặc thù như các công ty thủy nông (trong thực tế chỉ được giao quản lý và sử
dụng tài sản nhà nước) cũng gây khó khăn, tùy tiện trong xác định vốn điều lệ, kéo
dài thời gian chuyển đổi (có địa phương xác định vốn điều lệ bằng tổng giá trị tài sản
nhà nước giao cho công ty quản lý và sử dụng, nhưng cũng có địa phương xác định
vốn điều lệ bằng 30% tổng giá trị tài sản nhà nước giao cho công ty quản lý và sử
dụng).
Ngoài ra, những vướng mắc về cơ chế hoạt động xảy ra trong thực tế ở một số
doanh nghiệp đã chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới nỗ lực của các doanh nghiệp đang chuẩn bị chuyển đổi;
chưa tạo ra sự thống nhất và đồng thuận giữa cấp phê duyệt với cán bộ quản lý và
người lao động trong doanh nghiệp.
1.2. Hoạt động đăng ký kinh doanh
Hoạt động đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên chuyển đổi từ công ty nhà nước vẫn còn một số vấn đề phát sinh, tạo tâm lý
không tốt cho doanh nghiệp về môi trường hoạt động sau chuyển đổi.
Thực tế này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do chưa quy định rõ ràng
và cụ thể, thiếu nhất quán trong nhận thức giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và doanh
nghiệp chuyển đổi,... Cụ thể là:
- Chưa quy định, nhận thức rõ về sở hữu vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên nên đã dẫn đến tình trạng cán bộ đăng ký kinh doanh tại một số địa
phương yêu cầu doanh nghiệp phải có quyết định chia vốn điều lệ cho các thành viên
Hội đồng thành viên nắm giữ, sở hữu như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên; yêu cầu doanh nghiệp phải ghi thêm lời giải thích vào ngành nghề đăng ký
trong khi ngành, nghề này đã được ghi rõ trong quyết định chuyển đổi.

- Tuy luật doanh nghiệp qui định doanh nghiệp có quyền chủ động lựa chọn ngành
nghề, địa bàn kinh doanh đầu tư, nhưng vẫn còn có ý kiến cho rằng ngành nghề kinh
doanh của công ty con phải đúng như ngành nghề kinh doanh của công ty mẹ. Vì vậy
dẫn đến tình trạng cấp giấy đăng kí kinh doanh cho công ty con hoạt động trong mô
hình công ty mẹ - công ty con ở một số sở kế hoạch và đầu tư còn lúng túng làm
chậm hoặc cấp phép cho doanh nghiệp chưa đúng theo qui định hiện hành.
1.3.Về mặt tài chính và tư tưởng
Nhiều doanh nghiệp (gồm cả lãnh đạo và người lao động) cũng như nhiều cấp
quản lý vẫn ngại chuyển đổi do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có người lại nhận thức sai
11
về chuyển đổi cho rằng việc việc chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ dẫn đến mất chế độ,
chệch hướng XHCN…Có tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nhà
nước và các doanh nghiệp đã Cổ phần hoá nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng.
Việc tìm đối tác liên doanh, liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp khó khăn. Doanh
nghiệp Nhà nước vẫn được ưu đãi nhiều hơn. làm ăn thua lỗ vẫn được vay không
phải trả lãi, bù lỗ từ ngân sách Nhà nước và một số ưu đãi khác. Tất cả đều tác động
lớn tới tâm lý của các doanh nghiệp chuẩn bị bước vào chuyển đổi, cổ phần hóa.
Mặt khác, nhiều giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nước sợ rằng chuyển đổi
DNNN sẽ làm mất đi quyền lực vốn có bấy lâu nay. Tư tưởng bao cấp đã ăn sâu vào
suy nghĩ của nhiều doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn chuyển đổi, lảng tránh nhiệm
vụ mới.
Nhiều quan niệm cho rằng các hình thức chuyển đổi DNNN ở Việt Nam là
một quá trình rối rắm, phức tạp và tốn thời gian, làm hao tổn các nguồn lực tài chính
và làm giảm sút sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam chưa có một
phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế.
Sự phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm như: việc xử lý nợ khó đòi,
thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do đó việc định
giá tài sản doanh nghiệp thường là khâu kéo dài nhất (khoảng trên 3 tháng).
Hiện nay, việc thiếu một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo tiêu
chuẩn quốc tế sẽ làm cho chúng ta khó khăn rất nhiều trong việc huy động vốn từ các

nhà đầu tư nước ngoài, một yếu tố không thể xem nhẹ trong xu hướng hội nhập và
toàn cầu hoá hiện nay.
2. Các nhân tố khách quan
2.1. Pháp luật và cơ chế chính sách
Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau khi chuyển đổi vẫn chưa rõ
ràng. Các quy định được sửa đổi và bổ sung thường thì càng về sau càng có lợi, càng
có nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển
khai nhanh mà chờ đợi để được hưởng ưu đãi nhiều hơn.
Các văn bản quy định về Cổ phần hoá đã được ban hành cũng có nhiều vấn đề
cần xem xét lại. Quy định về bán cổ phần ưu đãi cho người lao động cũng không
được cụ thể hóa, linh hoạt. Có nơi người lao động không có tiền mua cổ phần ưu đãi;
lại có nơi do vốn Nhà nước ít, số lượng cổ phần bán ra hạn chế, không đủ cho nhu
cầu.
12
Cho đến nay, quá trình Cổ phần hoá còn chưa có một phương hướng chiến
lược rõ ràng. Từ trước đến nay, Cổ phần hóa được chủ yếu tiến hành trên cơ sở tự
nguyện mà không có quy định phải ưu tiên Cổ phần hoá đối với loại hình doanh
nghiệp hay thành phần kinh tế nào. Trên thực tế, Chính phủ dường như đi theo con
đường Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ trước, các doanh nghiệp lớn sau. Do đó, tỷ
lệ các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp đã được
Cổ phần hoá .
Bên cạnh đó, nhiều địa phương không thực sự quan tâm đến vấn đề Cổ phần
hoá và coi đó là nhiệm vụ của các cấp ban nghành cao hơn. Sự phân quyền, hướng
dẫn và phối hợp giữa địa phương và TW chưa thực sự thông suốt cũng là những nhân
tố góp phần kéo dài quá trình CPH.
2.2. Chính quyền TW và chính quyền các cấp
Trong một thời gian dài, việc chỉ đạo,tổ chức điều hành chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước được tiến hành một cách rời rạc bị động. Ban đổi mới doanh nghiệp
Nhà nước không chủ động giao chỉ tiêu và chỉ đạo sát sao việc thực hiện mà ngồi đợi
các doanh nghiệp tự động đăng ký. Bản thân Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước

chưa hoạt động chuyên trách, đội ngũ quá mỏng, chưa đủ trình độ và kinh nghiệm để
giải quyết các vấn đề phức tạp, lại chưa có đủ thẩm quyền chức năng để tổ chức hoạt
động phối hợp làm cho các bước thủ tục thường dây dưa kéo dài…
2.3. Xác định tiêu chí, đối tượng chuyển đổi
Tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ chưa có tính ổn định, dài hạn dẫn tới đối tượng chuyển đổi sang công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên hay thay đổi, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện
chuyển đổi.
Theo quy định, việc phân loại để sắp xếp doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ
vào tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ; chỉ các doanh nghiệp thuộc danh mục chuyển đổi sang công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước của các bộ ngành, địa phương, tổng công ty đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt mới được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên. Tuy nhiên, trong giai đoạn 8 năm vừa qua (từ khi ban hành văn bản pháp
quy hướng dẫn việc chuyển đổi từ năm 2001 đến nay), đã 3 lần thay đổi tiêu chí phân
loại: Quyết định 58/2002/QĐ-TTg (ban hành năm 2002); Quyết định 155/2004/QĐ-
TTg (ban hành năm 2004); Quyết định 38/2007/QĐ-TTg (ban hành năm 2007). Điều
13
đó dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp đã được đưa vào danh mục chuyển thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đang triển khai chuyển đổi thì bị dừng
lại để chuyển sang hình thức cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu; hoặc doanh nghiệp đã
chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lại phải chuyển đổi thêm
một lần nữa sang hình thức cổ phần hóa, gây tốn kém về tài chính, công sức và thời
gian cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước có liên quan.
Các tiêu chí phân loại chưa đủ cụ thể, chưa bao quát hết được yêu cầu thực tế
ở các ngành, vùng nên đã gây khó khăn hoặc dẫn đến tùy tiện trong xác định danh
mục công ty nhà nước chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Cụ
thể là:
- Hiện nay, tiêu chí phân loại doanh nghiệp để sắp xếp (trong đó có chuyển sang

công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) chủ yếu phân theo từng ngành, lĩnh vực,
địa bàn. Nhưng trong thực tế, nhiều công ty nhà nước không chỉ hoạt động trong một
ngành, một lĩnh vực, tại một địa bàn mà hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực, tại
một số địa bàn khác nhau, kể cả vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, dẫn đến các
khó khăn, lúng túng trong áp dụng tiêu chí để phân loại hoặc dẫn đến sự tùy tiện
trong việc xác định các doanh nghiệp này thuộc loại giữ lại 100% vốn nhà nước hay
cổ phần hóa ở mức chi phối hoặc không chi phối, hoặc phải tách ra thành các bộ phận
để sắp xếp cho phù hợp với tiêu chí phân loại.
- Quy định tiêu chí doanh nghiệp phải có quy mô vốn nhà nước trên 30 tỷ đồng
mới thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn và được chuyển thành công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên tại Quyết định 155/2004/QĐ-TTg và trên cơ sở đó đưa vào
Nghị định 95/2006/NĐ-CP đang gây lúng túng cho việc chuyển đổi đối với một số
doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích, doanh nghiệp thuỷ nông,
nông lâm trường, doanh nghiệp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; cụ thể là: (i) Hiện
nay, có nhiều doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích và lâm trường
quốc doanh đang hoạt động trong lĩnh vực trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn, nhưng chỉ có dưới 30
tỷ đồng vốn nhà nước ở doanh nghiệp nên không đáp ứng tiêu chí về quy mô vốn quy
định tại Nghị định 95/2006/NĐ-CP dẫn đến tình trạng các Ban Đổi mới và phát triển
doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rất lúng túng trong việc sắp
xếp đối với các doanh nghiệp này; (ii) Hiện có một số lượng khá lớn các doanh
nghiệp cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích, doanh nghiệp thuỷ nông, nông
lâm trường thuộc diện cổ phần hoá nhưng do đặc điểm ngành nghề không hấp dẫn
14
các nhà đầu tư nên không thể cổ phần hoá được (ví dụ các công ty thuỷ nông nhỏ lẻ
không thể tạo thành hệ thống thuỷ nông hoặc doanh nghiệp vệ sinh môi trường hoặc
kết hợp giữa vệ sinh môi trường và cấp thoát nước ở các tỉnh miền núi hoặc các tỉnh
nghèo miền Trung, Tây nguyên không được xếp vào nhóm Nhà nước giữ 100% vốn).
Vì vậy, không thể chuyển những doanh nghiệp này sang thực hiện các hình thức cổ
phần hóa, giao hoặc bán trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa đáp ứng

được yêu cầu cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích đó.
Đối với 2 loại doanh nghiệp trên, các địa phương đã gặp khó khăn, lúng túng
trong việc sắp xếp, chuyển đổi công ty nhà nước, phải trình Thủ tướng Chính phủ xin
phép như những trường hợp đặc biệt.
- Tiêu chí phân loại doanh nghiệp chưa đủ cụ thể, nên gặp trở ngại trong việc đẩy
nhanh chuyển đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp để thực hiện
chủ trương “khẩn trương chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang
hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Đảng và quy
định của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể là: các quyết định về tiêu chí phân loại doanh
nghiệp (Quyết định 155/2004/QĐ-TTg; Quyết định 38/2007/QĐ-TTg) chỉ xác định
định hướng doanh nghiệp thuộc loại Nhà nước giữ 100% vốn mà không xác định cụ
thể là phải chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Vì vậy, Nghị
định 200/2004/NĐ-CP về sắp xếp và chuyển đổi các nông lâm trường quốc doanh chỉ
cho phép các lâm trường đủ điều kiện thì chuyển thành công ty nhà nước, mà chưa đề
cập đến việc cho phép các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện được chuyển ngay thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp quy
định trong thời hạn 4 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực (tức đến 30/6/2010) thì
toàn bộ công ty nhà nước phải chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công
ty cổ phần hay nói cách khác là các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện cũng phải
chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Hơn nữa, một số địa
phương cũng muốn chuyển đổi sớm các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện sang hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhằm tránh phải chuyển đổi nhiều
lần, đỡ tốn kém về thời gian, công sức và tiền của doanh nghiệp và của Nhà nước
nhưng lại chưa được quy định tại Nghị định 200/2004/NĐ-CP nên phải xin phép như
trường hợp đặc biệt. Vì vậy, có thể nói quy định tại Nghị định 200/2004/NĐ-CP chưa
thật phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu chuyển đổi nhanh khu vực nông lâm
trường quốc doanh sang hoạt động theo mô hình mới, phù hợp với yêu cầu của kinh
tế thị trường.
15
III. Sự cần thiết trong việc thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp

nhà nước
1. Sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khi chưa
cải cách chuyển đổi
1.1. Hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn
thấp, tốc độ phát triển chưa cao
Mặc dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước nói
chung có tăng lên, nhưng trong những năm trước đây khi chưa tiến hành cải cách, đổi
mới khối doanh nghiệp nhà nước tình trạng nợ nần của doanh nghiệp vẫn gia tăng.
Năm 2005 chỉ có 71,9% doanh nghiệp có lãi, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà
nước trung ương là 77,3% và doanh nghiệp nhà nước địa phương là 69%. Khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm do các doanh nghiệp nhà nước làm ra trên thị trường
quốc tế và trong nước còn thấp. Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép,
phân bón, xi măng, kính xây dựng… có mức giá cao hơn mức giá nhập khẩu cùng
loại từ 20- 40%. Riêng mặt hàng đường thô cao hơn đến 70%. Tốc độ phát triển sản
xuất của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, còn thấp hơn của doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác.
Không ít doanh nghiệp nhà nước xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất
kinh doanh không gắn với định hướng phát triển chung của ngành, không phù hợp
với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ thị trường. Nhiều dự án đầu
tư chưa khả thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham
nhũng, hậu quả khó khắc phục. Việc bảo toàn và phát triển vốn nhiều doanh nghiệp
thực hiện chưa tốt, tình trạng ăn vào vốn, mòn vốn, mất vốn vẫn còn. Không ít doanh
nghiệp chưa thực hiện tốt qui chế dân chủ tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là công
khai tài chính, việc chi tiêu còn tùy tiện, lãng phí.
Các doanh nghiệp còn phải dựa khá lớn vào sự bao cấp của nhà nước. Ngân
sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng
hàng năm trong đó có 6482 tỷ đồng bổ sung và 1464,2 tỷ đồng cấp bù lỗ, hỗ trợ cho
các doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra, từ năm 2000 đến nay,
nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng , xóa nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng
ưu đãi 8685 tỷ đồng cho các doanh nghiệp nhà nước. Tình hình hiệu quả thấp và sức

cạnh tranh yếu vẫn còn kéo dài. Theo số liệu của Bộ tài chính tính đến tháng 12-
2003 cho thấy tỉ lệ lãi trên doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp nhà nước rất thấp :
16
chỉ đạt 4,2%, trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nhà nước là 13,6%. Tỷ lệ khu vực
doanh nghiệp nhà nước thua lỗ theo thống kê năm 2003 chiếm tới 14,7%.
1.2. Doanh nghiệp nhà nước qui mô vẫn còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý,
dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý
Đến tháng 5-2001 cả nước có 5655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước
khoảng 126030 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp 22 tỷ đồng. Số doanh nghiệp
nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8% trong đó số doanh nghiệp có vốn
dưới 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2%( tại 14 tỉnh, loại doanh nghiệp này chiếm trên
90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịnh vụ thương mại, du lịch) ; số doanh nghiệp nhà
nước có vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số doanh nghiệp có vốn trên
10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%. Tổng số vốn lưu động của các doanh nghiệp nhà nước
vào khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên 21% tổng số vốn nhà nước bình quân mỗi
doanh nghiệp có 4,8 tỷ đồng nhưng phần lớn các doanh nghiệp không có hoặc có rất
ít vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp
nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh,
cấp quản lý và trên cùng một địa bàn.
1.3. Công nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng ; lao động thiếu
việc làm và dôi dư còn lớn ; trình độ quản lý phần lớn còn yếu kém
Công nợ của doanh nghiệp nhà nước còn quá lớn. Nợ quá hạn, nợ khó đòi
ngày càng tăng. Năm 2004 trong số 15,1% nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại
nhà nước thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 74,8% làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động
cũng như sự lành mạnh của các ngân hàng. Tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp
nhà nước tính đến 12-2006 theo bộ tài chính đã lên đến 207,8 tỷ đồng, trong đó 76%
là vay nợ ngân hàng, còn lại là do chiếm dụng các khoản phải nợ ngân sách, chiếm
dụng vốn của doanh nghiệp khác.Tình hình tài chính không lành mạnh một phần là
do lịch sử để lại, phần khác là mới tiếp tục phát sinh, nhưng còn lúng túng, chưa có
phương pháp khả thi để xử lý dứt điểm, làm cho hạch toán kinh tế của doanh nghiệp

bị méo mó, không minh bạch và doanh nghiệp nhà nước luôn trong tình trạng bị
động, ứng phó với các khoản nợ khó đòi. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chưa tương xứng với sự đầu tư và trợ giúp của nhà nước. Không ít doanh
nghiệp nhà nước vi phạm pháp luật như buôn lậu, gian lận thương mại, lãng phí,
tham nhũng, trốn thuế, gian lận để nhận hoàn thuế giá trị gia tăng, lập các giấy tờ
khống rút tiền tư ngân sách nhà nước… đã ảnh hưởng đến uy tín của các doanh
nghiệp nhà nước. Cũng theo số liệu của bộ tài chính tỉ lệ doanh nghiệp nhà nước thua
17
lỗ chiếm không cao nhưng điều đó có một lý do là vì sự ưu đãi của nhà nước đối với
khu vực này là cao hơn hẳn so với các khu vực kinh tế khác.
Lao động thiếu việc làm và dôi dư đang là một khó khăn lớn ảnh hưởng đến
quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp nhà nước tùy
tiện tăng biên chế gián tiếp, lao động trực tiếp quá mức cần thiết và bộ máy quản lý
cồng kềnh làm cho năng suất lao động giảm, chi phí tăng. Mặt khác, cơ chế chính
sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp chịu trách nhiệm giải quyết lao động dôi
dư. Khi doanh nghiệp chuyển sang cơ chế tự chủ, nhà nước chưa có qui định phù hợp
để doanh nghiệp nhà nước quản lý chặt chẽ lao động, trả công lao động gắn với năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nên việc tuyển dụng
lao động ở nhiều doanh nghiệp còn tùy tiện, tiếp tục làm tăng thêm lao động vốn đã
dôi dư. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước lại rất thiếu các lao động trẻ có
trình độ chuyên môn cao, người lao động đang làm việc phần lớn chưa qua đào tạo
hoặc làm việc trái nghề nên ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Trình độ quản lý của các doanh nghiệp nhà nước phần lớn còn yếu kém, chưa
đạt yêu cầu mà cơ chế thị trường đòi hỏi, chưa năng động, nhanh nhạy, thích ứng với
môi trường và điều kiện mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại và
thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, điều hành sản xuất kinh
doanh nên không đáp ứng nhu cầu chuyên môn ; một bộ phận không nhỏ cán bộ quản
lý doanh nghiệp sa sút về phẩm chất đạo đức ; trong khi chậm chạp, chưa có cơ chế
phù hợp cho việc tuyển chọn những người có năng lực vào quản lý, điều hành doanh
nghiệp nhà nước.

1.4. Trình độ kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp nhà nước còn hết sức lạc
hậu
Theo kết quả khảo sát của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường tại nhiều
doanh nghiệp nhà nước thuộc 10 ngành( luyện kim, hóa chất, nhựa, sản xuất phân
bón, dệt may, thực phẩm, chế biến nông thủy sản, sản xuất giấy, chế biến gỗ, điện-
điện tử, cơ khí chế tạo), thì ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại
hoặc trung bình của thế giới và khu vực( như phát, dẫn điện ; sản xuất sợi, dệt ; thi
công xây lắp ; sản xuất vật liệu xây dựng), còn lại thì các máy móc thiết bị, dây
chuyền sản xuất của các doanh nghiệp còn lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20
năm( như cơ khí, sản xuất phôi), trình độ cơ khí hóa, tự động dưới 10%( chế biến
thủy sản) ; mức độ hao mòn hữu hình từ 30- 50%, thậm chí có 38% là ở dạng thanh
lý, 52% đã qua bảo dưỡng và sửa chữa. Đồng thời theo khảo sát của Viện khoa học
18
và Bảo hộ lao động thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam ở 12 doanh nghiệp nhà
nước thuộc các ngành kinh tế thì trong số 727 thiết bị máy móc và dây chuyền nhập
khẩu có tới 76% thuộc thế hệ những năm 1950-1960, trên 70% đã hết thời hạn sử
dụng, 50% thuộc loại tân trang. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm quốc gia,
sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất xám và công nghệ cao trên cơ sở kết hợp phát
huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác quốc tế.
2. Theo yêu cầu của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2005
Theo qui định của luật doanh nghiệp 2005( có hiệu lực từ ngày 1-7-2005),
Luật doanh nghiệp nhà nước chỉ được phép tồn tại trong vòng bốn năm kể từ khi luật
doanh nghiệp chính thức có hiệu lực. Đây cũng là một trong những điều khoản cụ thể
hóa cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Theo đó luật doanh nghiệp sẽ chính
thức hết hiệu lực vào thời điểm ngày 1-7-2010. Hiện có 1507 doanh nghiệp nhà
nước đang tồn tại , nếu không cổ phần hóa kịp sẽ phải chuyển sang công ty TNHH
một thành viên 100% vốn nhà nước. Do đó đây là thời điểm hết sức gấp rút để tiến
hành đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp
đang tiến hành cổ phần hóa sẽ phải nhanh chóng gấp rút hoàn thành công tác xác định
giá trị doanh nghiệp, cơ cấu phân chia cổ phần… còn những doanh nghiệp không thể

cổ phần hóa kịp nhà nước đã có giải pháp chuyển đổi thành công ty TNHH một thành
viên. Mới đây ngày 19-3-2010 chính phủ đã ban hành nghị định số 25/2010 chuyển
đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý
công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu, thay cho nghị định 95.
Nghị định mới sẽ giải tỏa áp lực về mặt thời gian cho việc chuyển đổi vì nó đưa ra
các qui định đơn giản hơn như xử lý tài chính thì lấy giá trị sổ sách làm cơ sở, nợ nần
được tính sau khi đã chuyển thành công ty TNHH một thành viên. Việc kiểm tra mặt
bằng được xem xét về số lượng, kiểm tra mục đích sử dụng mặt bằng được thực hiện
sau chuyển đổi. Với nghị định này, tiến trình thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước đã được giải tỏa phần nào đó sức ép khi thời hạn luật doanh nghiệp nhà nước
sắp kết thúc.
Việc ban hành nghị định dù chỉ là một lệnh hành chính và chuyển đổi đơn
thuần để đảm bảo mốc thời gian xong đó cũng là một quyết định tốt cho cộng đồng
doanh nghiệp vì từ thời điểm đó, môi trường hành lang pháp lý của tất cả các loại
hình doanh nghiệp sẽ cùng bằng phẳng hơn. Những lợi thế to lớn mà khối doanh
nghiệp nhà nước được hưởng, được dùng từ nay sẽ phải tính toán, cân đong, đo đếm
cùng tất cả các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, không hẳn khối doanh nghiệp sau khi
19
chuyển đổi sẽ có những chuyển biến tích cực, thậm chí vẫn còn có thể xảy ra những
chuyện như thất thoát, quản trị kém… Tuy nhiên cột mốc đó là cần thiết cho cả
doanh nghiệp có hay không có động lực chuyển đổi.
Phương án chuyển sang mô hình công ty TNHH một thành viên về nguyên tắc
chỉ thay đổi điều lệ hoạt động, hình thức quản trị doanh nghiệp, xác định rõ chức
năng chủ sở hữu. Theo mô hình này, quyền của chủ sở hữu( Nhà nước) là rất lớn. Để
thực hiện tốt quyền này việc giám sát phải mạnh, song đế nay, Luật quản lý và sử
dụng vốn nhà nước chưa được ban hành, sự chồng chéo giữa chức năng quản lý vốn
và quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại. Do vậy sẽ khó lòng
tránh khỏi những sự hạn chế và chồng chéo khi Nhà nước vẫn sở hữu 100% vốn ở
các công ty TNHH một thành viên. Vấn đề quan trọng là thiết kế mô hình quản trị
công ty sau chuyển đổi trong đó Luật doanh nghiệp chỉ đóng vai trò là khung hoạt

động. Chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước sẽ đồng nghĩa với việc nhà nước cần
tiếp tục cắt giảm mạnh sự chi phối của nhà nước trong nhiều lãnh vực ngành nghề
kinh doanh như hiện nay. Việc chuyển đổi có thể trước mắt chưa mang lại lợi ích cho
nền kinh tế hay chưa thể có thể lập tức tạo nên những thay đổi về chất. Do vậy với
việc đưa ra yêu cầu về mốc thời gian, nhà nước cần thực hiện giám sát việc chuyển
đổi chặt hơn, cùng với đó là chuẩn bị đánh giá, xác định giá trị của các doanh nghiệp,
phương án bán cổ phần, nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp vì đích đến cuối
cùng của thay đổi doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hóa. Việc chuyển sang mô hình
công ty TNHH một thành viên là một bước đệm trong việc giải tỏa về mặt thời gian
công tác chuyển đổi khi luật doanh nghiệp sắp đến hạn hết hiệu lực.
20
IV. Kinh nghiệm về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trong
khu vực
1. Trung Quốc
Trên thực tế, cổ phần hóa ở Trung quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự
ra đời của công ty cổ phần Hữu hạn Bách hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong
văn kiện quan trọng được ban hành tháng 12 năm 1986, Quốc vụ viện Trung Quốc đã
cho phép các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều
kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hóa.
Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000 đơn vị thực hiện thí điểm cổ
phần hóa.Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN đã chuyển
thành công ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn 4.300 công ty cổ phần
hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng số vốn cổ phần đạt 358
tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ NDT là giá trị cổ phần
phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài. Nhiều công ty cổ phần đã tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải, Thâm
Quyến, một số công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường.
Các công ty cổ phần của Trung Quốc được hình thành chủ yếu theo 3 cách:
Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp; Phát hành cổ phiếu công khai ra
xã hội; Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh

nghiệp… Sau khi tiến hành cổ phần hóa, cơ cấu của doanh nghiệp Trung Quốc được
tổ chức như sau:
Năm 1997, Trung Quốc có 655 công ty phát hành cổ phiếu A (cổ phiếu phát
hành cho các nhà đầu tư đại lục), tăng 23,6% so với năm 1996; 93 công ty phát hành
cổ phiếu B (cổ phiếu chuyên bán cho các nhà đầu tư nước ngoài), tăng 9,4% so với
năm 1996; Tổng giá trị thị trường cổ phiếu A và B đạt 1.666,5 tỷ NDT, tăng 69% so
với năm 1996; Có 35 công ty tham gia thị trường chứng khoán nước ngoài với tổng
số vốn 7,9 tỷ NDT.
Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm CPH cho
thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng đắn và
hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng
cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên
quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh
nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh
doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Các
21
nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao
dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ quản lý đăng ký công ty”,
“Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí
nghiệp hương trấn”…, đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp.
Trong đó, hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp
thuộc chế độ sở hữu toàn dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp
thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về
các quyền lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu
cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có
quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự
tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng… Có thể thấy, “Luật
Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh
nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất-kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng
buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để

cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày
23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các
DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục
nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là
chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã đưa
ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một số vấn
đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ phần hoá…
Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính phủ Trung Quốc thực hiện
một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc
phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở
rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các
DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất,
thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt
động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-
kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán,
được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng
cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc
là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc
22
quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh
nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài
nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến
Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, chế độ cổ phần đã được thực
hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.
Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc trong 25 năm qua là một
quá trình tìm tòi sáng tạo về lý luận và không ngừng thử nghiệm trong thực tiễn,
nhằm làm cho doanh nghiệp nhà nước có sức sống, đạt hiệu quả kinh tế cao. Quá
trình đó có thể được chia làm 2 thời kì: trước và sau cổ phần hóa.

Thời kì trước cổ phần hóa là từ năm 1978, khi bắt đầu cải cách, tới năm 1997,
khi đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc ra chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước.
Khi bắt đầu cải cách, chủ trương của Trung Quốc là khắc phục tình trạng
quyền lực và lợi ích quá tập trung vào cơ quan quản lý trung ương bằng cách tăng
thêm quyền lợi và lợi ích cho các doanh nghiệp . Tất nhiên, như vậy có lợi ích cho
địa phương và doanh nghiệp, nhưng mặt khác, thu nhập tài chính của nhà nước giảm
sút. Từ năm 1978 đến năm 1983, tỉ trọng thu nhập ngân sách của nhà nước trong toàn
bộ thu nhập quốc dân giảm từ 37,2% xuống còn 26,5%. Tình trạng đó bất lợi cho
việc nhà nước tập trung nguồn lực cho các dự án trọng điểm, cho xây dựng cơ sở hạ
tầng.
Từ năm 1983, nhằm có thu nhập ngân sách nhà nước ổn định, Trung Quốc đã
áp dụng chính sách chuyển quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với chính phủ từ
phân chia lợi nhuận sang chế độ nộp thuế. Kết quả thực hiện chủ trương này là nguồn
thu nhập ngân sách nhà nước tăng ổn định, nhưng do chế độ thuế không hợp ly, một
loạt các doanh nghiệp nhà nước đã thua lỗ trong sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1987 đến năm 1993 nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước
năng động hơn, Chính phủ đã thực hiện chính sách” khoán kinh doanh”. Cụ thể là sau
khi hoàn thành chi tiêu nhận khoán, các doanh nghiệp được quyền sử dụng phần lợi
nhuận thặng dư. Chính sách này đã tăng thêm tính chất tự chủ của doanh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh. Nhưng do tính phức tạp trong chế độ khoán, thu nhập
ngân sách của nhà nước một lần nữa bị giảm sút. Mặt khác, nhà nước chỉ hưởng lợi
từ các doanh nghiệp làm ăn có lãi, còn các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì hoặc nhà
nước không thể quản nổi, hoặc buộc phải bù lỗ quá nhiều. Còn các doanh nghiệp thì
23
chỉ lo sản xuất, kinh doanh kiếm lãi trước mắt mà không quan tâm đến việc tăng
cường đầu tư, đổi mới thiết bị để làm ăn lâu dài.
Có thể nói sau khi lần lượt thực hiện 3 chủ trương trên, mặc dầu có một số
tiến bộ so với thời kì kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng Trung Quốc vẫn chưa tìm ra
được con đường chuyển đổi thực sự đưa doanh nghiệp nhà nước ra khỏi tình trạng

lạc hậu bế tắc. Năm 1992 Đại hội Đảng Cộng sản XIV chủ trương chuyển sang kinh
tế thị trường. Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV năm 1994 đã đưa ra chủ trương “ xây
dựng chế độ xí nghiệp hiện đại”, thực hiện chế độ công ty, xác định rõ quyền sở hữu
tài sản, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm; phân tách chính quyền với doanh
nghiệp. Hội nghị Trung ương 5 khóa XIV Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1996 tiến
thêm một bước đưa ra chủ trương tinh giảm để tăng hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước. Nhà nước chọn 500 doanh nghiệp lớn làm trọng điểm, thực hiện các chính sách
ưu đãi để phát triển. Còn các doanh nghiệp nhỏ thì tùy điều kiện cụ thể, có thể áp
dụng các hình thức liên doanh, sát nhập, cổ phần hóa hoặc phá sản…
Thời kì sau khi cổ phần hóa là Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc
năm 1997 đến nay. Có thể nói đây là thời kì quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước ở Trung Quốc đã tiến hành dưới sự chỉ đạo của lý luận mới về chế độ sở hữu
trong nền kinh tế thị trường XHCN. Những luận điểm mới về chế độ sở hữu do Đại
hội XV đưa ra được coi là “ lần giải phóng thứ 3” trong quá trình cải cách thể chế
kinh tế ở Trung Quốc.
Đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc đã xác định “ chế độ kinh tế cơ bản”
của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của CNXH là “ chế độ công hữu là chủ thể, kinh
tế thuộc nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển”. Với sự chỉ đạo của lý luận mới về chế
độ sở hữu, từ năm 1998 đến năm 2000 Trung Quốc đã tiến hành một đợt cải cách
doanh nghiệp nhà nước rộng lớn bằng giải pháp cổ phần hóa, với phương châm” nắm
lớn, buông nhỏ”. Nhà nước tập trung nắm khoảng 500 doanh nghiệp lớn và vừa, tiến
hành cải cách để tăng cường sức mạnh của các doanh nghiệp đó và tập hợp chúng lại
thành những tập đoàn lớn, còn hàng vạn các doanh nghiệp nhỏ thì có thể tùy tình hình
cụ thể áp dụng các giải pháp liên doanh, cổ phần hóa, bán, cho phá sản… Đợt cải
cách này đã mang lại những hiệu quả đáng ghi nhận, nhiều doanh nghiệp nhà nước
qui mô lớn và vừa trước đó sản xuất kinh doanh thua lỗ, qua cải cách đã chuyển sang
có lãi. Từ năm 1998 đến cuối năm 2001, ở Trung Quốc có 406 doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước chi phối cổ phần đã được tổ chức lại và đi vào hoạt
động. Trong 5 năm từ 1997 đến 2002, mặc dầu số lượng doanh nghiệp nhà nước
24

giảm rất nhiều, nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp
nhà nước chi phối cổ phần đã tăng gấp 4,6 lần; tài sản doanh nghiệp nhà nước tăng
23,7%. Trong danh sách 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới, năm 1997 có cả 3
doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng đến năm 2002 đã có 11 doanh nghiệp Trung Quốc.
Hội nghị Trung ương khóa XVI Đảng cộng sản Trung Quốc đã ra quyết định về một
số vấn đề hoàn thiệt thể chế kinh tế thị trường XHCN. Nghị quyết khẳng định “ kiên
trì vai trò chủ thể của chế độ công hữu, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế sở hữu
nhà nước”, đồng thời chủ trương “đẩy mạnh các hình thức thực hiện có hiệu quả chế
độ công hữu, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế sở hữu nhà nước”. Đó là một quan
điểm lý luận mới về kinh tế thị trường XHCN nói chung và về kinh tế sở hữu nhà
nước nói riêng. Với sự chỉ đạo của lý luận đó, trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10
(2001-2005) Trung Quốc đã có những bước tiến đáng kể trong cải cách doanh nghiệp
nhà nước, nhất là trong lĩnh vực cải cách ngân hàng thương nghiệp theo hướng xây
dựng doanh nghiệp hiện đại. Những doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu của
giai đoạn mới đã được tạo điều kiện để phá sản, ngân sách nhà nước đã bỏ ra 29,1 tỉ
NDT để hỗ trợ 116 doanh nghiệp nhà nước đóng cửa.
Nhìn chung trong 25 năm qua, cải cách và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở
Trung Quốc đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Nhưng vấn đề tồn tại vẫn rất
lớn: So với doanh nghiệp phi công hữu, nhất là doanh nghiệp vốn ngoại, doanh
nghiệp nhà nước ở Trung Quốc vẫn yếu kém về quản lý, về tốc độ và phương thức
tăng trưởng, về sức cạnh tranh. Do vậy, chuyển đổi doanh nghiệp vẫn là một khâu
quan trọng trong cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc trong thời gian tới.
2. Nga và các nước Đông Âu
Sau chiến tranh thế giới thứ II, một loạt các nước XHCN ở Đông Âu ra đời và
các nước này đã nhanh chóng xây dựng nền kinh tế kế hoạch tập trung theo mô hình
Xô Viết, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Công cuộc quốc hữu hóa cuối
những năm 40 và đầu những năm 50 của thế kỉ XX ở các nước Đông Âu đã hình
thành khu vực kinh tế nhà nước rộng lớn, trong đó xí nghiệp quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, chiếm từ 87-97% sản xuất công nghiệp, và đóng góp tới
70% thu nhập quốc dân. Trong suốt thập kỉ 50-60 của thế kỉ XX, cơ chế kế hoạch hóa

tập trung và sự hợp tác giữa các nước XHCN có tác dụng tích cực, các nước XHCN
đã thu được những thành tựu to lớn. Bước sang thập kỉ 70, đặc biệt là thập kỉ 80, các
nước Đông Âu ngày càng gặp nhiều khó khăn và họ đã tìm kiếm nhiều biện pháp cải
tiến cơ chế quản lý theo hướng thị trường như nâng cao vai trò tự chủ của các xí
25

×