§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Lời mở đầu
Vận động là điều kiện tất yếu cho sự phát triển. Một nền kinh tế cũng thế
muốn phát triển cũng cần vận động. Một trong những biểu hiện của sự vận động
này chính là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chuyển dịch
ngành kinh tế . Khi Việt Nam càng hội nhập vào nền kinh tế chung của thế giới
thì nền kinh tế đó trở thành một bộ phận trong nền kinh tế chung. Hơn nữa nền
kinh tế thế giới luôn luôn biến động không ngừng, và bản thân nền kinh tế Việt
Nam cũng luôn biến động và tất yếu những biến động này sẽ tạo nên những thời
cơ cũng như những thách thức mới cho mỗi nền kinh tế trong một giai đoạn cụ
thể. Chính vì thế, việc định hướng phát triển các ngành trong nền kinh tế chung,
tức là sự chuyển dịch cơ cấu ngànhm, phù hợp với những điều kiện thực tiễn mới
là điều kiện sống còn cho sự phát triển chung cho nền kinh tế đó.
Tiểu luận này nhằm mục đích nghiên cứu, thực hiện tốt Bkế hoạch chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010. Một kế hoạch phát triển hợp lý
phải là một kế hoạch được xây dựng phù hợp với tình hình trong nước và trên thế
giới, do đó bên cạnh việc phân tích những thành tựu cũng như những hạn chế của
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế kế hoạch 5 gần đây nhất (năm 2001-2005), tôi
cũng tập trung phân tích tình hình phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Qua
những phân tích này, tôi đã mạnh dạn đưa ra những nhận định về kế hoạch
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010 và cũng đề xuất một số biện
pháp.
Trong quá trình hoàn thành tiểu luận tôi đã nhận được rất nhiều những
góp ý và bổ sung từ thầy cô và bạn bè, trong đó tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn chân
thành đến GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng đã giúp đỡ tôi rất nhiều không chỉ về tài
liệu mà còn những lời góp ý, hướng dẫn tận tình.
Dù rất cố gắng chỉnh sửa xong tiểu luận này không thể tránh được những thiếu
xót. Kính mong nhận được sự thông cảm và góp ý của thầy cô và bạn bè.
Líp: KÕ ho¹ch 44
1
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA KẾ HOẠCH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU
I. Vai trò của KH 5 năm trong hệ thống KHH:
1. Công tác dự báo:
1.1. Khái niệm:
Dự báo là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính chất xãc suất về
mức độ, nội dung các mối quan hệ, trạng thái, xu hướng phát triển và đối tượng
nghiên cứu hoặc về cách thức và thời hạn đạt được mục tiêu nhất định đã đề ra
trong tương lai.
Dự báo bao giờ cũng có thời gian xác định, hay là tầm xa dự báo. Khoảng cách
này phụ thuộc vào nhiều nhân tố: Sự thay đổi của đối tượng dự báo, mức ổn định
của các nhân tố ảnh hưởng, độ dài thời gian tiền sử…
1.2.Chức năng
Theo quan điểm của triết học, dự báo là một hình thức nhận thức thế giới,
nhận thức xã hội. Nó có hai chức năng cơ bản:
Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trạng, hiện tại và tương
lai, dự báo sẽ cung cấp thông tin cần thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra
quyết định quản lý và xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá các chương trình, dự
án… Người quản lý và hoạch định chiến lược, người lập kế hoạch có nhiệm vụ
phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra các phương án có tính khả
thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt chức năng này dự báo phải
thực sự đảm bảo tính khách quan, khoa học và tính độc lập tương đối với cơ quan
quản lý và hoạch định chính sách.
Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh. Với chức năng này dự báo tiên
đoán các hậu quả có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính sách kinh
tế- xã hội nhằm giúp cơ quan chức năng kịp thời điều chỉnh các mục tiêu cũng
như cơ chế tác động quản lý để đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao nhất.
Líp: KÕ ho¹ch 44
2
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Với hai chức năng đó, nếu xét trong quan hệ với kế hoạch thì dự báo
gồm hai loại: Dự báo trước kế hoạch và dự báo sau kế hoạch. Dự báo trước kế
hoạch là tiền đề khoa học đảm bảo tính khả thi của kế hoạch, còn dự báo sau kế
hoạch giúp cho quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch đạt hiệu quả cao nhất.
2. Chiến lược phát triển
2.1. Khái niệm
Về cơ bản, chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa
chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ
yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách
về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế-xã hội nhằm mục tiêu đặt ra trong
một khoảng thời gian dài.
Như vậy, mục tiêu xây dựng các chiến lược phát triển là đạt tới mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội nhất định và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát
triển. Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu bức thiết
đăt ra và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc gia trong nền kinh tế thị
trường với không gian kinh tế được mở rộng đến mức không phân biệt biên giới.
Điều này xuất phát từ:
Thứ nhất, xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp cho các
nhà lãnh đạo phải xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào
thì đạt tới một điểm cụ thể nhất định.
Thư hai, trong điều kiện nền thị trường kinh tế mở, môi trường mà các
quốc gia gặp phải luôn biến đổi nhanh chóng, những biến đổi này thường tạo ra
các cơ hội trong tương lai, tận dụng các cơ hội đó và giảm bớt các nguy cơ liên
quan đến điều kiện môi trường.
Thứ ba, có xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển, các nhà lãnh
đạo và quản lý mới đưa ra các quyết định tác nghiệp phù hợp.
2.2. Chức năng
Chức năng chủ yếu của chiến lược là đinh hướng, vạch ra các đường
nét chủ yếu cho sự phát triển của đất nước trong thời gian dài, vì vậy chiến lược
Líp: KÕ ho¹ch 44
3
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
sẽ mang tính chất định tính là chủ yếu (như các quan điểm, phương hướng, chính
sách…). Tuy vậy, chiến lược cũng phải có tính định lượng ở một mức độ cần
thiết. Để định hướng, chiến lược cần làm tốt cả mặt định tính cũng như định
lượng, tức là có cả các tính toán, các dự báo, các luận chứng cụ thể. Trên thế
giới, nhiều nước đã đưa ra các chiến lược phát triển dài hạn theo quan niệm về
một chiến lược định hướng, chiến lược “mềm” có thể điều chỉnh trong từng bước
thực hiện cho phù hợp với những biến đổi của cuốc sống đất nước và hoàn cảnh
quốc tế.
3. Quy hoạch phát triển
3.1.Khái niệm
Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn kế hoạch hoá.
Nếu chiến lược phát triển là vạch ra các đường nét hướng đạo cho sự phát triển
trong một thời gian dài thì quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến
lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức
không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền
vững.
3.2.Chức năng
Chức năng của quy hoạch phát triển trước hết là sự thể hiện của chiến lược
trong thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Quy hoạch cụ thể hoá
chiến lược cả về mục tiêu và giải pháp. Nếu không quy hoạch sẽ mù quáng, lộn
xộn, đổ vỡ trong phát triển, quy hoạch để định hướng, dẫn dắt, điều chỉnh trong
đó có cả điều chỉnh thị trường. Mặt khác, quy hoạch còn có chức năng là cầu nối
giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực hiện chiến lược, cung cấp các căn cứ
khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các
chương trình dự án đầu tư, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
4. Chương trình dự án phát triển kinh tế-xã hội
4.1.Khái niệm
Nếu trong nền kinh tế tập trung, hệ thống kế hoạch thường được thể hiện cụ
thể bằng các chỉ tiêu pháp lệnh thì trong nền kinh tế thị trường, thực hiện các
Líp: KÕ ho¹ch 44
4
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
chương trình quốc gia giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế-xã hội là một
phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam
cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế, phương pháp kế hoạch hoá
quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ năm 1992.
Kế hoạch hoá và quản lý theo các chương trình phát triển là đưa ra các
chương trình mục tiêu để xử lý những vấn đề nổi cộm về kinh tế-xã hội của đất
nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa mang tính đặc biệt lại vừa mang tính
nghệ thuật cao. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ nó vưa khác hẳn các phương pháp
khác về cơ chế, chính sách, cách điều hành, kiểm tra, đánh giá kết quả, đối tượng
hưởng thụ… Còn tính nghệ thuật là phải làm sao chọn đúng đối tượng các vấn đề
cần xử lý bằng các chương trình. Tính nghệ thuật này còn được thể hiện trong
khả năng lồng ghép các chương trình trong tổ chức chỉ đạo.
4.2.Chức năng
Cụ thể hoá kế hoạch, đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tiễn cuộc sống. Có
thể gọi đây là một phương pháp tiến hành của kế hoạch. Với chức năng này, một
chương trình quốc gia phải đảm bảo các mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu biện pháp
và các giải pháp thực hiện.
Xử lý các vấn đề gay cấn nhất về kinh tế-xã hội của một quốc gia. Các vấn
đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia là các vấn đề bức
xúc, các khâu đột phá, các mắt xích quan trọng của nền kinh tế.
Hiện nay theo xu hướng đổi mới kế hoạch hoá, các chương trình dự án
phát triển lại được xem như là cơ sở để thực hiện phân bố nguồn lực như: Vốn
đầu tư, ngân sách… thay cho hình thức phân bổ theo đối tượng như trước kia.
5. Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội
5.1.Vị trí trung tâm của KH 5 năm
Nghị quyết đại hội 9 Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế
hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoách hoá phát triển”.
Thời hạn 5 năm là thời hạn thường trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan
chính phủ, là thời hạn ma theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau một năm hoặc một
Líp: KÕ ho¹ch 44
5
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực thi
hơn những kế hoạch có thời hạn dài hơn.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển
trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các
cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển
của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế
tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm:
- Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục tiêu tămg trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội.
- Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển. Các vấn đề được đưa vào
chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là các vấn đề
nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương trình
phát triển chính là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của
kỳ kế hoạch 5 năm.
- Phần các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm hai nội dung cơ bản:
Thứ nhất là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đối xuất
nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua của toàn xã hội; xác định
các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định những quan
hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp
và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số vật tư
hàng hoá chủ yếu. Thư hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý
và các vấn đề tổ chức thực hiện.
5.2. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm
Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm áp dụng ở Việt Nam và các
nước đang phát triển là xây dựng kế hoạch 5 năm theo giai đoạn cố định, ví dụ
như kế hoạch 5 năm 1996-2000; kế hoạch 5 năm 2001-2005… Các chỉ tiêu kế
hoạch được tính cho cả thời kỳ 5 năm, bình quân năm hoặc con số năm cuối. Đây
Líp: KÕ ho¹ch 44
6
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
là phương pháp truyền thống dễ xây dựng, dễ quản lý, dễ đánh giá. Hiện nay, các
nước như Cộng hoà Pháp, Nhật Bản hay Đức đã áp dụng thành công phương
pháp xây dựng kế hoạch 5 năm theo hình thái “cuốn chiếu”. Kế hoạch 5 năm sẽ
xác định các mục tiêu tổng thể, bao gồm kế hoạch chính thức 1 năm đầu, kế
hoạch thực hiện dự tính cho năm chính thức 1 năm đầu, kế hoạch thực hiện dự
tính cho năm kế thứ hai và dự báo cho các năm tiếp theo. Mức độ chi tiết, cụ thể
và chính xác của nội dung kế hoạch của nhưng năm sau phụ thuộc vào số lượng
và độ tin cậy của thông tin có được. Kế hoạch 5 năm sẽ được xem xét vào thời
gian cuối mỗi năm. Khi cơ quan kế hoạch Quốc gia hoàn tất năm đầu kế hoạch,
họ bổ sung cho những dự trù, những mục tiêu, những dự án cho năm tiếp theo.
Ví dụ, kế hoạch 2001-2005 sẽ được xem xét vào cuối năm 2001 và đề ra kế
hoạch mới cho thời kỳ 2002-2006, trên thực tế kế hoạch được đổi mới vào thời
gian cuối mỗi năm nhưng số năm vẫn giữ nguyên. Kế hoạch 5 năm được xây
dựng theo phương pháp cuốn chiếu sẽ khắc phục được tính nhất thời, tuỳ tiện và
thậm chí trái ngược nhau trong các mục tiêu cũng như trong các chính sách kinh
tế. Phương pháp này đã được đưa ra trong nhiều đề án đổi mới kế hoạch hoá ở
Việt Nam.
II. Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1.Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và
thời gian nhất định, trong những điều kiện cụ thể, hướng vào thực hiện các mục
tiêu đã định.
Cơ cấu kinh tế thường gồm ba phương diện hợp thành. Đó là:
- Cơ cấu nghành kinh tế
- Cơ cấu thành phần kinh tế
- Cơ cấu vùng lãnh thổ
Líp: KÕ ho¹ch 44
7
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Chỉ tiêu kinh tế làm cơ sở để biểu hiện cơ cấu là GDP(tổng sản phẩm nội
địa).
Cơ cấu nghành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ,
biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành
kinh tế phản ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội của một quốc gia.
Cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không
gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều
kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn
liền với sự hình thành và phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay
ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm
bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế trên lãnh thổ và
trên pham vi cả nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế
độ sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân
tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ trong quá trình
phát triển.
Ba loại hình cơ cấu trên đặc trưng cho cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quôc
dân. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có
vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được
hình thành và phát triển trên pham vi vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nước.
Đồng thời, việc phân bổ sản xuất trên pham vi vùng lãnh thổ một cách hợp lý có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành và các thành phần
kinh tế trên vùng lãnh thổ.
1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem
xét các các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ
cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự
Líp: KÕ ho¹ch 44
8
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên
thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E.
Engel và A. Fisher ngiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chỉ tiêu và sự
thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E. Engel đã nhận thấy rằng, khi
thu nhập các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi
nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi
thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương
thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiêu dùng
cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản
phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp
dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu
hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền
tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp
có tốc độ tăng nhanh hơn.
Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao
động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế qua
việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy
móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao
động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến
lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm
đi. Ngược lại, tỉ lệ lao động thu hút vào công nghiệp sẽ ngày càng tăng do tính co
giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp
dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ.
1.3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là mang tính quy luật,
nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các
nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên
cho nông nghiệp đến mức độ nào đó so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát
Líp: KÕ ho¹ch 44
9
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua các thời kỳ. Do đó,
nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là:
- Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nó bao hàm các vấn đề kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ
kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
- Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ
lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản
ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể.
- Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu
vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cơ cấu đầu ra theo hướng đã định.
- Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế-xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt
động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
2. Nội dung kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Xác định cơ cấu kinh tế
Để xác định cơ cấu ngành trong kỳ kế hoạch, phương pháp được sử dụng phổ
biến là dựa vào mô hình Vào-Ra. Mô hình này nghiên cứu những mối liên hệ tỉ lệ
cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ
giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này.
Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỉ lệ:
Xi = Xi1 +Xi2 + +Xin + Yi (i = 1,2, ,n) (1)
trong đó:
Xi: tổng sản phẩm của ngành i
Xij: khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là
chi phí trung gian.
Yi: khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i.
Líp: KÕ ho¹ch 44
10
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Tổng số ij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong
các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản
phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm
được dùng để bù đắp hao mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng
chênh lệch xuất-nhập khẩu.
Khi xây dựng mô hình Vào-Ra người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản
phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỉ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của
ngành j:
Xị = aij Xj (i,j = 1,2, ,n) (2)
trong đó aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm ngành j - được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và
(2) sẽ có:
Xi = aij Xj + Yi (i=1,2, ,n)
Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào
kế hoạch của sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù
hợp với trình độ kỹ thuật của từng ngành.
2.2. Các yếu tố tác động đến cơ cấu ngành
Sự hình thành cơ cấu ngành thực chất là kết quả của việc phân phối các yếu tố
đầu vào và cách thức tổ chức sản xuất. Nói chung, trong mỗi ngành càng có
nhiều vốn, nhiều lao động, kỹ thuật tiên tiến, tổ chức sản xuất ngày càng khoa
học thì năng lực sản xuất ngày càng tăng. Do vậy, cơ cấu ngành cũng là mô hình
phân bố các yếu tố sản xuất các ngành. Nó vừa là sự phân phối tài nguyên, lao
động, vừa là sự phân phối máy móc, thiết bị, các yếu tố trung gian và kỹ thuật.
Trong mô hình trên, hệ số chi phí trực tiếp aij phản ánh hao phí sản phẩm cần
thiết của ngành i để trực tiếp sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j.
Trong thời kỳ kế hoạch, hệ số này phụ thuộc trình độ công nghệ sản xuất, cho
nên cũng được gọi là hệ số kỹ thuật. Để xem xét sự tác động của hệ số kỹ thuật
đối với cơ cấu ngành chúng ta giả đình rằng cơ cấu các yếu tố trung gian đầu vào
không thay đổi. Trong điều kiện đó, nếu tình hình kỹ thuật của các ngành công
Líp: KÕ ho¹ch 44
11
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
nghiệp không thay đổi, hoặc thay đổi theo cùng một hướng, với cùng một tỉ lệ
tốc độ thì hệ số hiệu suất đầu ra của các yếu tố đầu vào giữa các ngành cũng
không thay đổi. Nếu kỹ thuật của một số ngành thay đổi, còn ở những ngành
khác vẫn như cũ, hoặc tốc độ thay đổi, còn ở những ngành khác vẫn như cũ, hoặc
tốc độ thay đổi kỹ thuật của các ngành không giống nhau thì hế số hiệu suất đầu
ra của các ngành cũng thay đổi. Xét trong thời ngắn hạn, có thể có trường hợp
thứ nhất, nhưng trong dài hạn thì chỉ có thể xảy ra trong trường hợp sau:
Như vậy tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi
này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ
kỹ thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức mạnh cạnh
tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong trường
hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu thay đổi cơ cấu tài sản cố
định và tỉ lệ các yếu tố trung gian đầu vào thì năng lực sản xuất của tài sản cố
định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các ngành này cũng
sẽ gia tăng sản phẩm đầu ra. Sự thay đổi cơ cấu tài sản cố định và các yếu tố
trung gian đầu vào chính là kết quả của sự thay đổi cơ cấu đầu tư. Cơ cấu đầu tư
là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Do đó, có thể nói cơ cấu
đầu tư là yếu tố quyết định đối với cơ cấu ngành.
Líp: KÕ ho¹ch 44
12
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ
HOẠCH 5 NĂM 2001-2005 VỀ CHUYỂN CHỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ
I. Mục tiêu của kế hoạch đề ra 2001-2005 về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1.Mục tiêu chung
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra mức phấn đấu cao trong kế hoạch 5 năm
2001-2005 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững: ổn định và cải thiện đời
sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
công ngiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo việc làm, cơ bản
xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; hình thành một bước quan
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
2. Các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành
2.1. Chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng các ngành
Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm là 7.5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,0-4.3%, công
nghiệp và xây dựng tăng 10.4%-10.8%, dịch vụ tăng 6.2%-6.8%. Giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4.8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng
13%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 7.5%. Tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng 16%/năm.
2.2. Chỉ tiêu về thay đổi tỉ trọng của các ngành trong GDP
Đến năm 2005:
-Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP khoảng 20-21%
Líp: KÕ ho¹ch 44
13
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
-Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP khoảng 38-39%
-Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP khoảng 41-42%
3. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Công nghệ
Công nghệ là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là
yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành. Thực tế cho ta thấy sự tác động của tiến
bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ: Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao
năng suất lao động, tác động đến cơ cấu lao động và tiến bộ kỹ thuật, nâng cao
sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành. Trong
trường hợp hệ số kỹ thuật của các ngành không thay đổi, nếu năng lực sản xuất
của tài sản cố định gia tăng và theo đó gia tăng các sản phẩm trung gian thì các
ngành này cũng sẽ tăng sản phẩm đầu ra.
3.2. Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là tỉ lệ phân phối vốn đầu tư vào các ngành khác nhau. Vì thế,
xác định tỷ lệ, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành, theo các lĩnh vực, đối tượng, khu
vực đầu tư là một công việc rất quan trọng bởi vì điều đó đặt ra mối quan hệ chặt
chẽ giữa kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
các đặc trưng đầu tư của từng ngành, vùng, các thành phần kinh tế. Do đó, có thể
nói cơ cấu đầu tư là yếu tố quyết định đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
3.3. Xu hướng chung của các nước trên thế giới
Xu hướng chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, các ngành công
nghiệp cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các nguồn tài nguyên và lao động
ở nước ta.
Sự chuyển đổi và giao lưu công nghệ quốc tế sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi
để nước ta có thể lựa chọn và tiếp nhận các công nghệ thích hợp với điều kiện cụ
thể của nước ta, phát triển những ngành và sản phẩm mới có triển vọng và phù
hợp với trình độ phát triển và lợi thế so sánh của nước ta.
Líp: KÕ ho¹ch 44
14
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Cạnh tranh quốc tế sẽ quyết liệt hơn về mặt mở rộng thị trường cũng như
tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài. Do vậy, nước ta phải đẩy mạnh đổi mới và
chủ động hộp nhập hơn nữa nhằm phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực từ bên
ngoài. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển nhanh chóng và
tác động mạnh mẽ đến kinh tế nước ta. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc chơi này được. Cốt lõi của
vấn đề là trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích dân tộc, chủ động hội nhập với kinh tế
khu vực và kinh tế thế giới, khai thác tối đa mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt
hạn chế tối thiểu của mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá đối với đất nước, để
thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn.
Rõ ràng là bối cảnh quốc tế tạo cho nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít
thách thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là
phải vượt qua các thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu
kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
3.4. Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng
việc bảo hộ phải bảo đảm nguyên tắc. Bảo hộ có thợi hạn, có điều kiện, có định
hướng,; Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có
chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có
thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ. Nhà nước giữ vai trò là
người điều hoà các nguồn lợi có được trong quá trình hội nhập để có những hỗ
trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu. Ngày nay,
với xu thế toàn cầu hoá, tăng cường hợp tác quốc tế thì sự can thiệp của Nhà
nước là rất cần thiết để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi theo đúng quỹ đạo mà
Đảng và Nhà nước đã vạch ra. Đó là: Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ
sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định
hướng xã hội chủ nghĩa., không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình,
khắc phục các mặt bất lợi. Do vây, các chính sách phát triển kinh tế của Nhà
nước cần phải có tác động tích cực, hỗ trợ và giúp cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu nghành kinh tế diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn đạt được mục tiêu đã đề ra.
Líp: KÕ ho¹ch 44
15
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
II. Đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 về chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế
1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn
2001-2005
1.1Những thành tựu
Tỷ trọng nông, lâm và thuỷ sản giảm xuống khoảng 20.5% năm 2005. Tỷ
trọng công nghiệp và xây dựng tăng lên khoảng 41% năm 2005. Tỷ trọng các
ngành dịch vụ khoảng 38.5% trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng còn
thấp. Tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng lên, tạo ra sự thay đổi đáng kể
cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành mốt số ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan
trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, luyện thép, xi măng,
cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô xe máy
Sự nỗ lực cao của các ngành và các chủ thể kinh tế trong việc vượt qua
những trở ngại thách thức, mở rộng quy mô sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường
trong và ngoài nước. Điều này được thể hiện rất rõ trong sự phát triển nông
nghiệp (vượt qua khó khăn của thiên tai và dịch bệnh) và của nhiều ngành công
nghiệp (vượt qua thách thức của “cơn bão giá nguyên liệu” và cạnh tranh quốc
tế).
Sự chuyển dịch cơ cấu nội tại các ngành kinh tế thể hiện rõ nét hơn động thái
chuyển từ khai thác những yếu tố sẵn có sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của
thị trường; tính định hướng thị trường của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế biểu
hiện ngày càng rõ hơn không chỉ với sản xuất công nghiệp mà còn cả với nhiều
ngành sản xuất nông ngiệp. Sự tăng lên đột biến của một số ngành nông nghiệp
(chẳng hạn đồ gỗ, đóng tàu ) thể hiện sự năng động trong việc nắm bắt cơ hội
do thị trường mang lại
Các ngành dịch vụ truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn
thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt một số ngành có chi phí trung
gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho
Líp: KÕ ho¹ch 44
16
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao và làm cho cơ cấu các lĩnh vực dịch
vụ trong gía trị tăng thêm của ngành dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ có chất lượng cao.
Trong động thái chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sự tác động trực tiếp của
Nhà nước đang chuyển dần sang sự tác động qua vai trò định hướng, qua các cơ
chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ; sự tác động của thị trường đến chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng tăng lên Nói cách khác, việc sử dụng các
quan hệ thị trường trong điều kiện sản xuất và phân bổ các nguồn lực đã có
những chuyển biến nhất định.
1.2Hạn chế
Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế, về cơ bản chưa có sự chuyển
biến đáng kể. Ở nước ta, nhiều năm gần đây phát triển của khu vực dịch vụ hầu
như chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra
mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP phải đạt 41-42%
và đến năm 2010 phải đạt 42-43%. So với các nước trong khu vực đây không
phải là mục tiêu cao, nếu không nói là thấp, nhưng sau khi đạt mức cao nhất (đạt
44.06% vào năm 1995) tỷ trọng khu vực này trong GDP liên tục bị giảm sút: năm
1996 còn 42.51%, năm 2001 còn 38.63%, năm 2002 còn 38.46% và năm 2003
chỉ còn 38.22%. Tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra cũng liên tục bị sút
giảm và thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế: năm
2002 là 6.54% so với 7,08% , năm 2003 là 6.57% so với 7.26%. Điều đó chứng
tỏ dịch vụ chưa thực sự là một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Một số ngành dịch vụ quan trọng vẫn chiếm tỷ lệ thấp và đang có xu hướng giảm
dần: tài chính ngân hàng năm 1995 chiếm 2.01% thì đến năm 2003 chỉ còn
1.08% Nhiều loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y
tế hiện đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm, chưa được tách ra để các
đơn vị khác kinh doanh tập trung, nên một mặt đã làm hạn chế đến việc tập trung
vào nhiệm vụ chính, mặt khác dẫn đến hiệu quả hoạt động của các hoạt động
kiêm nhiệm này còn thấp.
Líp: KÕ ho¹ch 44
17
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Tính tự phát của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn khá đậm
nét, điển hình là trong sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện quyền tự chủ của
các hộ nông dân được đề cao, họ có quyền chủ động được sử dụng ruộng đất
được giao vào mục đích kinh doanh, nhưng năng lực thị trường lại hết sức hạn
chế nên dễ bị sự điều tiết tự phát của thị trường và do đó gặp rủi ro trong quá
trình kinh doanh trên thị trường. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt
nuôi tôm rộng rãi ỡ nhiều vùng, phát triển cá bè ở đồng bằng sông Cửu Long là
ví dụ điển hình. Khó khăn về thị trường tiêu thụ, tình trạng được mùa rớt giá có
nguyên nhân từ chính người nông dân và hiệu quả công tác định hướng của Nhà
nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tính kém hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu nội
tại từng ngành kinh tế. Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác tài nguyên
(than và dầu khí) , công nghiệp gia công cho nước ngoài (giày dép, dệt may, điện
tử) chiếm tỷ trọng cao đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nước ngoài (dệt may, da giầy, đồ gỗ, đồ nhựa ). Trong nông nghiệp,
chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong gía trị sản xuất của ngành
(trong nhiều năm chưa vượt ngưỡng 21% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và ở
nhiều vùng chưa thoát khỏi địa vị ngành sản xuất phụ). Trong dịch vụ, chủ yếu
mới chỉ tập trung vào những dịch vụ phổ thông (thương mại, dich vụ) thiếu vắng
hoặc phát triển ở trình độ thấp những dịch vụ cao cấp và những dịch vụ thiết yếu
của thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra hết sức chậm chạp, trong khi cơ cấu
kinh tế lại có những động thái tích cức thì cơ cấu lao động lại chưa có sự chuyển
biến rõ nét: lao đông nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh
tế, nhưng Việt Nam chưa thoát khỏi trạng thái của một nước nông nghiệp. Tuy
năm 2004 đã giải quyết việc làm cho hơn 1.5 triệu lao động, nhưng định hướng
giải quyết việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn còn hết sức bế tắc. Nói cách khác, lao động và việc
làm vẫn là một “nút thắt” cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Giải quyết vấn đề này đòi hỏi những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía, trong đó
nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ lao động được coi là biện pháp then
Líp: KÕ ho¹ch 44
18
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
chốt nhất. Song trên thực tế , công tác giáo dục và đào tạo lại có quá nhiều vấn đề
quá bức xúc chưa được giải quyết.
2. Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2001-2005
2.1. Tốc độ tăng trưởng các ngành
Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng
trên diện rộng. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông
nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi mang tính tự phát, chưa
bền vững. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được
triển khai một cách bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông nghiệp chưa được
xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản
xuất nông, lâm, thuỷ sản, tăng cao và vượt mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất
cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3.6% so
với mục tiêu đề ra là 4-4.3%.
Cơ sở hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vấn đề việc làm ở nông thôn vẫn còn nhiều
bức xúc. Tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, nhất là
các làng nghề chưa được giải quyết. Hình thức sản xuất theo hợp đồng tiêu thụ
sản phẩm chưa được áp dụng rộng rãi, dịch vụ cung cấp đầu vào, đầu ra của sản
xuất chưa được tổ chưc tốt.
Sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chất lượng và hiệu
quả toàn ngành chưa được cải thiện. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 5 năm
2001-2005 tăng bình quân 15.7%/năm, nhưng giá trị tăng chưa tương xứng (bình
quân 5 năm chỉ tăng 10.3%/năm). Ngành công nghiệp chế tác đóng góp vào tăng
trưởng của toàn ngành công nghiệp, khoảng 50-60%, nhưng lại là ngành có chi
phí nguyên vật liệu cao nên giá trị gia tăng thấp, đặc biệt là các ngành công
nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu … có giá trị sản
xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư nguyên liệu nhập khẩu từ nước
ngoài. Hàm lượng quốc gia trong sản phẩm thấp.
Líp: KÕ ho¹ch 44
19
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ tuy đạt mục tiêu kế hoạch, nhưng
còn thấp so với tiềm năng; chất lượng và hiệu quả hoạt động dịch vụ chưa cao;
nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng
lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá
trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ giao dịch bất động sản…
gần đây có chuyển biến, nhưng nhìn chung phát triển chậm. Năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dịch vụ còn yếu thể hiện ở việc giá thành cao và chất lượng dịch
vụ thấp. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu kém.
2.2. Thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP
Xét theo 3 khu vực lớn là nông, lâm nghiệp-thuỷ sản, công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ, thì cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng: Tỷ trọng của khu
vực nông, lâm-ngư nghiệp đã giảm nhanh, còn tỷ trọng của khu vực công nghiệp-
xây dưng đã tăng nhanh.
Tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp-thuỷ sản đã giảm từ 38.74% năm
1990 xuống 22.54% năm 2003 và xuống còn 21.76% năm 2004, tức là giảm gần
17% trong 15 năm, hay giảm trên 1.1%/năm. Riêng tỷ trọng nông, lâm nghiệp-
thuỷ sản trong GDP đã giảm mạnh, chỉ còn 20.5% vượt so với mục tiêu đề ra cho
năm 2005 (giảm xuống còn 20-21%)
Tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây dựng đã tăng nhanh từ 22.67% năm
1990 lên 39.46% năm 2003 và lên 40.09% năm 2004. Đến năm 2005 tỷ trọng
công nghiệp trong GDP tăng lên đạt 41% vượt so với kế hoạch đặt ra (năm 2005
đạt 38-39%).
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 là 44.0%,
nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn 38% và đến năm 2005 vẫn chỉ đạt
38.5% không đạt được mục tiêu đề ra.
Líp: KÕ ho¹ch 44
20
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
2.3. So sánh quốc tế về cơ cấu nền kinh tế
Đ ơn v ị: %
Tên nước Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Việt Nam 23.0 39.0 38.0
Trung Quốc 15.0 53.0 32.0
Philippine 14.0 32.5 53.0
Inđônêxia 17.0 44.0 40.0
Malaixia 9.0 49.0 42.0
Thái Lan 9.0 41.0 50.0
Hàn Quốc 3.0 35.0 62.0
Xingapo 0.0 35.0 65.0
Nguồn số liệu: Báo cáo phát triển thế giới năm 2005 của Ngân hàng thế giới,
ESCAP
Nếu lấy cơ cấu nền kinh tế làm thước đo cho trình độ phát triển , thì cơ cấu kinh
tế của Việt Nam năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của những nước
trong khu vực vào những năm 80 của thế kỷ trước.Tìm hiểu quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực cho thấy, họ rất coi trọng phát
triển dịch vụ và tìm cách nâng cao tỉ trọng của khu vực này trong GDP.
Líp: KÕ ho¹ch 44
21
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
CHƯƠNG III: KẾ HOẠCH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
2006-2010
I. Quan điểm và nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ
2006-2010
1. Quan điểm cơ bản chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với tiến trình hộp nhập quốc tế
Các mốc quan trọng cho việc mở cửa kinh tế và tự do hoá thương mại của
Việt Nam và bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vào năm 2006,2010 và
2020. Các mốc này cũng phù hợp với kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ 21, chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 và mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành
công nghiệp hoá vào năm 2020.
Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bảo
vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định hướng XHCN, không bỏ lỡ thời cơ
song phải chủ động về lộ trình, khắc phục, hạn chế mặt bất lợi. Thách thức lớn
nhất trong hội nhập quốc tế là phải tăng được sức cạnh tranh của nền kinh tế, của
các doanh nghiệp, của hàng hoá dịch vụ trên thị trường quốc tế và thị trường
trong nước thì mới đứng vững và phát triển được trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt toàn cầu. Đồng thời phải tạo lập các yếu tố đảm bảo sự ổn định kinh tế
vĩ mô, tăng cường khả năng ứng phó với tác động bất lợi về kinh tế từ bên ngoài.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân
Để điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập sẽ có những
ngành, những doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh, đứng vững trên
thị trường trong và ngoài nước. Ngược lại, cũng có những ngành, những doanh
nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Trong mọi trường
hợp cần phải đặt lợi ích của tổng thể nền kinh tế lên trên lợi ích của từng ngành,
các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu.
Líp: KÕ ho¹ch 44
22
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có các ngành cần bảo hộ.
Nhưng việc bảo hộ phải đảm bảo nguyên tắc. Bảo hộ có thời hạn, có điều kiện,
có định hướng. Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải
có chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và
có thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ.
1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực đồng
bộ của các ngành các cấp và người lao động
Trước mắt cần khẩn trương triển khai đưa vào nội dung của chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội, kế hoạch 5 năm và hàng năm. Hội nhập kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải tiến hành theo các chương trình kế hoạch với các
bước đi vững chắc.Phát triển, hội nhập và đổi mơi có quan hệ mật thiết và tác
động lẫn nhau, trong đó phát triển là mục tiêu, hội nhập và hướng về xuất khẩu
vừa là điều kiện vừa là động lực cho sự phát triển.
Phát triển nhanh và bền vững phải bao trum mọi mặt đời sống xã hội. Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ của toàn dân và là nhiệm vụ trong tâm. Đồng thời phải
gắn kết với thực hiện công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững
ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh xã hội. Phát triển nhanh và bền vững sẽ
đưa lại kết quả chuyển dịch cơ cấu nhanh và môi trường trong sạch, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
1.4 Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ
cấu vùng-lãnh thổ.
Cơ cấu ngành kết hợp với cơ cấu thành phần thể hiện ở việc sử dụng các
chính sách, biện pháp động viên sự phát triển của các thành phần kinh tế để thu
hút tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Cơ cấu ngành gắn với
cơ cấu vùng-lãnh thổ thông qua việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các trung tâm công nghiệp, vừa tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, vừa
tạo điều kiện để đô thị hoá nông thôn. Cần chú ý phát triển công nghiệp trung
ương đi đôi với phát triển công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn
theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện chuyển
đổi cơ cấu lao động tại chỗ.
Líp: KÕ ho¹ch 44
23
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010
2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-
2010 là:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, đạt được bước chuyển biến quan trọng theo hướng phát triển
nhanh và bền vững. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân
dân. Tạo được nền tảng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từng
bước phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã
hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
2.2. Các chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành thời kỳ 2006-2010
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2006-2010
đạt 7.5-8%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3.2%, công nghiệp và xây
dựng tăng 10-10.2%, dịch vụ tăng 7.7-8.2%.
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 42-43%;
các ngành dịch vụ khoảng 41-42%.
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 2006-2010
1. Công tác quy hoạch, kế hoạch là một tiền đề quan trọng để xác định cơ
cấu đầu tư và cơ cấu lại nền kinh tế.Công tác này đã sớm được đề ra và thực
hiện, nhưng hiện còn nhiều khâu yếu, và bộc lộ thiếu tầm nhìn tổng thể. Cụ thể
là, sự phối hợp giữa các địa phương và giữa địa phương với các ngành trong quy
hoạch còn chưa tốt; còn tập trung vào kinh tế Nhà nước, chưa bao quát hết toàn
bộ nền kinh tế; quy hoạch chỉ tập trung nêu các vấn đề chúng ta có thể làm được,
thiếu dự báo về thị trường đầu ra, thiếu các giải pháp thực hiện khả thi và các cân
đối lớn; còn thiếu những quy hoạch chuyên ngành cụ thể…
Líp: KÕ ho¹ch 44
24
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Ngäc Quang
2. Phải thực hiện những việc làm thiết thực để đảm bảo đầu tư tạo nên cơ
cấu kinh tế có hiệu quả. Chuyển đổi cơ cấu phải xét trong trạng thái động.
Muốn vậy, một mặt, phải xác định được trọng tâm của cơ cấu ngành, cơ cấu sản
phẩm, sau đó mới hình thành ngành và vùng… Trong các hoạt động điều tiết
nền kinh tế, Nhà nước cần lưu ý có các chính sách để những nguồn lực đầu tư
được sử dụng phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường, có hiệu quả thì việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế mới bảo đảm đúng hướng.
3. Trong ba khu vực, cần chuyển dịch cơ cấu theo hướng khu vực công
nghiêp-xây dựng và khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng cao bởi phát triển
nông nghiệp chỉ tạo nên yếu tố quan trọng đầu tiên là nguyên liệu và cung cấp
lương thực, thực phẩm cho đời sống hàng ngày, bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia chứ không thể làm giàu. Tuy nhiên, không đầu tư cho nông, lâm, ngư
nghiệp sẽ không thể khai thác các tiềm năng, lợi thế của đất đai và lao động, ổn
định cuộc sống của 2/3 dân số đất nước, tạo tích luỹ cho kinh tế hộ, từ đó chuyển
dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác. Chỉ hướng vào công nghiệp
và dịch vụ mới thực sự có thể tăng trưởng nhanh, trong đó dịch vụ sẽ góp phần
làm giàu nhanh hơn cả, đồng thời cũng có thể thu hút lực lượng đông đảo lao
động nông thôn đang chưa được đào tạo một cách cơ bản.
4. Ngoài các vấn đề vốn đầu tư, lao động… cần có chính sách đúng đắn
với mốt số nhóm sản phẩm như sau:
Đối với nhóm sản phẩm đã có trên thị trường quốc tế, song nhu cầu đã ở
mức ổn định (như cà phê, gạo…), không nên mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện
giảm đầu tư chiểu rộng, tăng đầu tư chiều sâu. Hỗ trợ nghiên cứu để giảm chi
phí, nâng cao chất lượng và củng cố quan hệ với khách hàng, xây dựng thương
hiệu nhăm duy trì thị phần trên thị trường thế giới. Khuyến khích lập các hiệp hội
xuất khẩu, hoặc hiệp hội ngành nghề và các quỹ bình ổn (hoặc bảo hiểm rủi ro)
trên nguyên tắc tự nguyện và tự quản, nhằm giải quyết khó khăn của người sản
xuất gặp thiên tai, hoặc khi giá cả trên thị trường thế giới có biến đổi mạnh.
Trong trường hợp phải thu hẹp quy mô sản xuất, Nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ cho quá trình chuyển đổi sản xuất thông qua ưu đãi tín dụng trung hạn, ưu đãi
Líp: KÕ ho¹ch 44
25