Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt nam trong các
nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và lần thứ VIII, nền kinh tế nớc ta đã
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hớng Xã hội chủ nghĩa. Quá trình vận động này
đòi hỏi các quan hệ kinh tế - xã hội chuyển biến và thay đổi thờng xuyên. Lĩnh
vực tiền tệ tín dụng Ngân hàng động kinh doanh tiền tệ là loại hình hoạt động
mang tính năng động và rủi ro cao - cần đợc cải biến, đổi mới nhằm đáp ứng
đợc những yêu cầu khắt khe của thị trờng.
Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng là không những phải phát
triển không ngừng để thích nghi và tồn tại mà còn phải giữ vai trò tiên phong
trong việc định hớng cho những hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, các
ngân hàng càng cần phải năng động hơn, nhậy cảm hơn và tỉnh táo hơn để có
thể thực hiện tốt vai trò của mình, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của
nền kinh tế.
Việt nam mới bớc vào kinh tế thị trờng nên yêu cầu này càng trở nên
cấp thiết. Thực tế cho thấy rằng, trong những năm vừa qua, đặc biệt là năm
1998 và 1999, hàng loạt các vụ việc xảy ra liên quan đến hoạt động tín dụng
giữa các ngân hàng thơng mại và các tổ chức kinh tế trong nớc đã làm ảnh h-
ởng không ít tới nền kinh tế nói chung và bớc phát triển của từng doanh
nghiệp, từng ngân hàng nói riêng.
Ngân hàng thơng mại cổ phần là mô hình mới trong hệ thốngngân hàng
thơng mại Việt nam đợc thành lập dới hình thức công ty cổ phần. Hiện nay hệ
thống này vừa vận hành để phát triển, vừa rút kinh nghiệm để định hình. Là
loại hình non trẻ, lại hoạt động trong môi trờng kinh tế thị trờng cha ổn định,
do vậy, tình hình đặt ra đối với các ngân hàng Thơng mại Cổ phần cũng
không nằm ngoài bối cảnh trên. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, với đặc
tính riêng có của mình, các NHTMCP đã có những phát huy nhất định đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng chung của đất nớc, tuy nhiên, bên cạnh những
mặt đợc, đã bộc lộ khá nhiều hạn chế .
Do vậy, việc nghiên cứu Hoạt động kinh doanh tín dụng và các biện
pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần trong
điều kiện kinh tế hiện nay là cần thiết.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài :
1
- Nghiên cứu và đánh giá hoạt động kinh doanh tín dụng, rủi ro trong
kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Thơng mại Cổ phần trong nền kinh tế thị
trờng.
-Một số giải pháp và kiến nghị để hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khối các Ngân hàng Thơng mại Cổ
phần.
3. Đối t ợng và phạm vi nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu chủ yếu về hoạt động tín dụng và rủi ro của nó tại
các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần . Nghiên cứu thực trạng rủi ro tín dụng ở
một số Ngân hàng TMCP tại Hà nội : Ngân hàng TMCP Châu á Thái Bình
Dơng, Ngân hàng TMCP Kỹ thơng, Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh là các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần có Hội sở tại Hà
nội.
4. Ph ơng pháp nghiên cứu :
Đề tài sử dụng các phơng pháp thống kê, phân tích kinh tế, phân tích
tổng hợp, hệ thống hoá lý luận
5. Kết quả và những vấn đề mới của đề tài
Kết quả:
-Nêu đợc tổng quan về Ngân hàng thơng mại, rủi ro trong hoạt động
tín dụng của Ngân hàng thơng mại.
- Nghiên cứu, hệ thống hoá các biện pháp có thể áp dụng tại Việt nam
trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
Điểm mới:
- Tổng quan về Ngân hàng thơng mại cổ phần, thực trạng rủi ro tín
dụng của khối các ngân hàng này và các nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất hớng đổi mới quản lý tín dụng từ đó đa ra các giải pháp cụ
thể nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần.
-Một số kiến nghị với các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần với mục đích
hạn chế rủi ro tín dụng.
6. Nội dung và bố cục của đề tài :
-Lời nói đầu.
- Chơng 1 : Hoạt động kinh doanh của NHTM và vấn đề rủi ro trong
hoạt động tín dụngcủa NHTM.
- Chơng 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng và rủi ro tín
dụng ở các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần Việt nam.
2
- Chơng 3 : Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín
dụng tại các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần.
-Kết luận :
- Danh mục tài liệu tham khảo.
- Ngoài ra đề tài còn có một số biểu bảng liên quan.
3
Chơng I
hoạt động kinh doanh của NHTM và vấn đề rủi
ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
I - Ngân hàng thơng mại và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trờng.
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thơng mại:
Phơng thức sản xuất T bản chủ nghĩa ra đời đặt ra những yêu cầu rất lớn
đối với hoạt động tiền tệ , đòi hỏi phải có các tổ chức chuyên hoạt động trên
lĩnh vực tiền tệ. Vào thế kỷ XV, ngân hàng ra đời nhằm thực hiện các chức
năng phát hành giấy bạc vào lu thông, nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay,
đổi tiền, chuyển ngân và các dịch vụ tiền tệ khác. Việc thành lập một số ngân
hàng hớng vào phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã
thúc đẩy sự phát triển thêm một bớc nghề ngân hàng ở các nớc ý, Hà lan,
Đức
Cùng với sự phát triển và thắng thế của chế độ TBCN, hệ thống ngân
hàng đã có những phát triển vợt bậc vào cuối thế kỷ XVII. Lúc này, các tổ
chức tài chính ngoài chức năng phát hành tiền còn thực hiện việc đi vay để
cho vay đồng thời với các nghiệp vụ hối đoái, thanh toán không dùng tiền
mặt, phát hành các công cụ lu thông tín dụng Về mặt bản chất, hoạt động của
các ngân hàng trong giai đoạn này cũng đã thực hiện nghiệp vụ của một ngân
hàng thơng mại. Nhng cha xuất hiện thuật ngữ Ngân hàng thơng mại . Lúc
này, ngân hàng vừa làm chức năng phát hành tiền, vừa làm chức năng kinh
doanh. Đây là giai đoạn chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh nên ngân hàng hoạt
động cũng hoàn toàn mang tính độc lập, cha có tính hệ thống và phụ thuộc
vào nhau.
Cuối thế kỷ XIX, sản xuất và lu thông hàng hoá phát triển kéo theo sự
phát triển về quy mô và phạm vi nghiệp vụ của các ngân hàng . Song trong lu
thông có quá nhiều loại tiền do nhiều ngân hàng phát hành làm cản trở việc lu
thông hàng hoá. Do vậy Nhà nớc đã phải ban hành đạo luật chỉ cho một số
ngân hàng đợc phát hành tiền. Mỗi quốc gia chỉ có một hoặc một số ngân
hàng đợc phát hành tiền. Đó là các ngân hàng có tiềm lực và quy mô lớn.
Những ngân hàng không đợc phép phát hành tiền là các Ngân hàng th-
ơng mại .
Thời kỳ này, các ngân hàng phát triển và gặt hái đợc những kết quả to
lớn đến mức C. Mác đã cho rằng Ngân hàng là tạo phẩm tuyệt tác nhất và
hoàn thiện nhất trong số các tạo phẩm của nền kinh tế thị trờng.
4
Cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nớc Châu Âu đều ban hành đạo luật chỉ
cho phép một ngân hàng duy nhất đợc phát hành tiền. Nh vậy, lúc này hệ
thống ngân hàng của nền kinh tế thị trờng đã bắt đầu hình thành hai cấp là
ngân hàng phát hành và ngân hàng trung gian.
Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phát hành thuộc
quyền sở hữu t nhân, do đó sự điều tiết của nhà nóc đối với các hoạt động kinh
tế vĩ mô trong tình hình kinh tế phát triển đã gặp không ít khó khăn. Tiếp đến
cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã buộc các nớc phải có biện pháp hữu
hiệu để duy trì việc phát triển kinh tế, do đó việc tách chức năng của ngân
hàng đợc thể hiện ở mức độ cao hơn: hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp:
-Ngân hàng Trung ơng vừa làm chức năng phát hành vừa làm chức năng
quản lý nhà nớc về tiền tệ , tín dụng ngân hàng.
- Ngân hàng kinh doanh (ngân hàng thơng mại) : Là trung gian tài
chính có giấy kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các khoản tiền
gửi và chuyên về việc đa ngời cho vay và ngời đi vay gặp nhau là trung gian
tài chính, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, có vai
trò quan trọng trong việc tập trung, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu t
vào những đơn vị kinh tế làm ăn có lãi thuộc mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy
tăng trởng kinh tế.
ở Việt nam, từ ngày thành lập cho đến năm 1988, hệ thống ngân hàng
một cấp vừa thực hiện chức năng quản lý về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối vừa
kiêm nhiệm hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chuyên nghiệp. Đặc trng
của hệ thống ngân hàng lúc này là thực hiện mệnh lệnh của nền kinh tế tập
trung, nặng về bao cấp, hiệu quả thấp, không tạo động lực cho phát triển kinh
tế, thậm chí chất lợng tín dụng kém vì mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh
trong hoạt động ngân hàng đều đợc ngân sách nhà nớc bù đắp; nền kinh tế bị
suy yếu
Đứng trớc tình hình đó, Đảng chủ trơng chuyển mạnh hoạt động
ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh Xã hội chủ nghĩa và
Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lu thông tiền tệ của ngân hàng nhà nớc,
cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch
vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế
Đồng thời kiện toàn Ngân hàng Nhà nớc làm nhiệm vụ phát hành và
quản lý nhà nớc về tiền tệ, tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp
là tổ chức kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng
5
Tháng 3.1988, Nghị định 53/CP đợc ban hành với nội dung cơ bản
Chuyển hẳn hệ thống Ngân hàng sang hoạt động kinh doanh .
Tháng 9.1990, hai Pháp lệnh Ngân hàng đã đợc thông qua và công bố.
Trên cơ sở đó, hệ thống NHTM đợc hình thành bao gồm các Ngân hàng thơng
mại Quốc doanh, Ngân hàngThơng mại Cổ phần, các tổ chức tài chính khác,
là những pháp nhân kinh doanh tiền tệ, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận.
Đến năm 1999, hệ thống NH Việt nam đã phát triển đến giai đoạn cao
về số lợng, cơ cấu và loại hình: - 6 NHTM quốc doanh với 1.200 chi nhánh
với nguồn vốn tự có do Nhà nớc cấp
-4 ngân hàng liên doanh với nớc ngoài,
-Hơn 800 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở,
-47 NHTM cổ phần gồm 27 NHTMCP đô thị và 20 NHTMCP
nông thôn , 5 công ty tài chính và cho thuê tài chính.
Hiện nay các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần do chủ trơng đa dạng hoá
các thành phần kinh tế của Đảng, với đặc điểm là sở hữu của nhiều ngời, hoạt
động kinh doanh với chức năng nhiệm vụ nh một Ngân hàng Thơng mại, đã và
đang chứng tỏ sự tồn tại cần thiết khách quan của mình trong nền kinh tế Việt
nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần nớc ta còn
rất nhỏ nhoi về tầm cỡ, về năng lực tài chính, khả năng kinh doanh và các dịch
vụ ngân hàng còn nghèo nàn. Nguồn vốn tự có của các Ngân hàng TMCP chủ
yếu là do các cổ đông là thể nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần đóng góp, tỷ trọng vốn đóng góp của các cổ đông quốc doanh còn
rất thấp do vậy khả năng cạnh tranh kém. Đây cũng là một tất yếu khách quan
do thời gian hoạt động còn quá ngắn, là loại hình kinh doanh mới, non trẻ, vừa
vận hành để phát triển vừa rút kinh nghiệm để định hình nên không tránh khỏi
có những tồn tại và khiếm khuyết.
Nh vậy, các Ngân hàng trung gian chuyển sang cơ chế mới theo xu h-
ớng ngày càng đa thành phần, kết hợp chuyên môn hoá và đa năng hoá, phát
triển cả về số lợng và cơ cấu, nâng cao sự nhậy cảm cạnh tranh trên thị trờng.
Môi trờng hoạt động ngân hàng hiện nay không còn ở những bớc sơ khai của
nền kinh tế thị trờng, nó đã và đang thay đổi một cách căn bản và có một vai
trò rất to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Hơn nữa, Ngân hàng phải là
ngời đi trớc để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, phục vụ yêu cầu của CNH
và HĐH đất nớc.
6
Nh V.I.Lênin đã nói Không có những ngân hàng lớn thì sẽ không thể
thực hiện đợc CNXH và hệ thống ngân hàng là cái gì giống bộ xơng
của xã hội XHCN
2. Định nghĩa NHTM :
Để đa ra đợc một định nghĩa về NHTM, ngời ta thờng phải dựa vào tính
chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trờng tài chính, và đôi khi còn kết
hợp tính chất, mục đích và đối tợng hoạt động.
Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa : Ngân hàng là những
xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thờng xuyên nhận của công chúng dới hình
thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Hay nh Luật của Ngân
hàng ấn Độ 1950, đợc bổ sung 1959 đã nêu : Ngân hàng là cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu t . Những định nghĩa đại loại
nh vậy là căn cứ vào mục đích, tính chất hoạt động.
Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tợng hoạt
động. Ví dụ nh Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930 địng nghĩa : những nhà
băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành
nghề thơng mại và các giá trị địa ốc, các phơng tiện tín dụng và hối phiếu,
thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhng phân tích, khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, ngời ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có
chung một tính chất là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh
doanh khác của chính Ngân hàng.
ở Việt Nam, trong bớc chuyển đổi sang kinh tế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hớng XHCN. Mọi ngời đợc tự do kinh doanh theo pháp luật, đợc bảo hộ
quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp,
không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh
bình đẳng trớc pháp luật.
Theo hớng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những
tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác. Cho nên để tăng cờng quản lý, hớng dẫn hoạt động của
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển
nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân.
7
Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp đợc thành lập theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán .
Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động
Luật còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm : Ngân hàng thơng mại, Ngân
hàng phát triển, Ngân hàng đầu t, Ngân hàng chính sách và các loại hình ngân
hàng khác.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là
môi giới trên thị trờng tài chính ngày càng phát triển về số lợng và quy mô
hoạt động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Ngời ta phân
biệt ngân hàng thơng mại với các tổ chức môi giới tài chính khác là ở chỗ
ngân hàng thơng mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi
không kỳ hạn, chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho ngân hàng thơng mại
có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của
mình. Đó là đặc trng cơ bản để phân biệt ngân hàng thơng mại với các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác.
3. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trờng :
Nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế mà mọi hoạt động kinh tế trong đó
đều do thị trờng điều tiết theo quy luật cung cầu, vận động theo quy luật kinh
tế khách quan. Kinh tế thị trờng đợc vận hành và điều chỉnh bởi một hệ
thống thị trờng phức tạp và các mối quan hệ kinh tế tinh vi trong đó các thành
phần kinh tế đều đợc tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Do vậy các
chủ thể kinh tế phải biết vận dụng sáng tạo, tạo cho mình lợi thế trong kinh
doanh để tồn tại và phát triển .
Hoạt động của quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trờng luôn tạo ra
sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát
triển của nền kinh tế thị trờng làm nảy sinh nhiều loại ngân hàng. Mỗi loại
ngân hàng lại thực hiện những chức năng nhất định khác nhau.
Qua quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng thơng mại ta thấy
rằng NHTM ra đời là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trờng và trở
lại chính NHTM lại đóng góp một vai trò to lớn trong nền kinh tế đầy tính
phức tạp này:
- Giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn, giảm chi phí lu thông,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách tập trung các khoản vốn nhỏ phân
8
tán, thành lợng vốn lớn tạo điều kiện cho việc áp dụng kỹ thuật hiện đại, đổi
mới công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng thông qua việc đầu t vốn;
- Thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế : chuyển vốn từ những lĩnh vực
kém hiệu quả vào những lĩnh vực có hiệu quả cao hơn sao cho phù hợp với
yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trờng;
- Ngân hàng thơng mại là công cụ để nhà nớc điều tiết vĩ mô nền kinh
tế : bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thơng mại
trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lợng tiền cung ứng
trong lu thông. Thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong
nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân
chia vốn của thị trờng, điều tiết chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò
điều tiết gián tiếp vĩ mô : Nhà nớc điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị
trờng
-Ngoài ra, với các dịch vụ phục vụ việc lu thông tiền tệ, hàng hoá giữa
các quốc gia, NHTM đã không ngừng thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế giữa
các nhà sản xuất kinh doanh trong nớc và ngoài nớc. NHTM là cầu nối nền
tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
II.Hoạt động kinh doanh của NHTM:
1. Huy động vốn:
Các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu
vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi và những
phơng thức dễ dàng để nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín
dụng khác dới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các
loại tiền gửi khác. Các tổ chức, cá nhân, các TCTD khác đợc nhận một khoản
tiền thởng dới danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi, với mức độ an toàn và
hình thức thanh khoản cao.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn dới dạng phát hành các giấy tờ
có giá, vay vốn ngắn hạn của NHNN dới hình thức tái cấp vốn, vay của các
TCTD khác Số tiền huy động đợc thông qua hình thức tiền gửi và phát hành
giấy tờ có giá luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và
cá nhân.
2. Hoạt động tín dụng :
Chức năng cơ bản của ngân hàng thơng mại là mở rộng tín dụng, từ
nguồn vốn huy động đợc, đối với các khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt
đầu, những ngời tổ chức các Ngân hàng thơng mại đã luôn tìm kiếm các cơ
hội để thực hiện cho vay và đầu t, hởng lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho
9
vay và lãi suất huy động (lãi suất tiền gửi ) sau khi trừ đi các chi phí. Họ coi
đó là chức năng quan trọng nhất của mình.
C.Mác đã viết cái mà ngời chủ ngân hàng kinh doanh là bản thân tín
dụng .
Ngời cũng đã viết Bản thân chế độ tín dụng, một mặt là một hình thái
nội tại của phơng thức sản xuất TBCN, mặt khác là một động lực thúc đẩy ph-
ơng thức sản xuất TBCN tiến lên hình thái cao hơn, tột cùng có thể của nó
và
Chế độ tín dụng ngân hàng đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lợng
sản xuất vật chất và sự hình thành thị trờng thế giới; đẩy hai yếu tố đó phát
triển đến một mức độ cao nhất định, với t cách là cơ sở vật chất của một hình
thái sản xuất mới .
Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế,
nó đã tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thơng nghiệp, dịch
vụ, xuất nhập khẩu của đất nớc; đã cung cấp những sản phẩm đờng vòng
cho nhu cầu dân sinh và phát triển đất nớc thông qua quá trình từ sản xuất đến
lu thông.
Nh vậy, trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thơng mại
đã và đang thực hiện chức năng xã hội đặc biệt của mình, làm cho sản phẩm
xã hội tăng lên, vốn đầu t đợc mở rộng và từ đó, đời sống dân chúng đợc cải
thiện.
Sở dĩ tín dụng ngân hàng có thể đóng đợc vai trò quan trọng của mình
là do nó đợc hình thành và phát triển nh một quy luật tất yếu khách quan của
nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng,
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, song nó không
chỉ đơn giản và giới hạn ảnh hởng trong phạm vi một ngân hàng, một ngành,
một địa phơng một thời điểm hay một giai đoạn mà còn ảnh hởng tới chất l-
ợng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội, ảnh hởng tới bớc tiến của cả một
nền kinh tế, của một phơng thức sản xuất, của một giai đoạn phát triển xã hội,
của trình độ hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới hiện đại.
Nhận thức đầy đủ đúng đắn vai trò của tín dụng đòi hỏi con ngời sử
dụng nó phải biết tôn trọng, đối xử với nó nh một khoa học kinh tế thực sự.
Cho nên dù ở bất cứ một thời kỳ nào, bối cảnh nào thì yêu cầu cơ bản của tín
dụng ngân hàng vẫn phải là Hiện thực, Khả thi và Hiệu quả . Trải qua nhiều
phơng thức sản xuất khác nhau các nhà kinh tế học đã đúc kết Hoạt động Tín
10
dụng - với đúng nghĩa nh C.Mác đã chỉ ra - phải tuân theo các nguyên tắc
căn bản chung nhất:
-Vốn vay phải đợc sử dụng đúng mục đích có hiệu quả;
-Vốn vay phải đợc đảm bảo bằng giá trị vật t hàng hoá tơng đơng;
-Vốn vay phải đợc hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên đây hình thành nh một quy luật phát triển
nội tại của hoạt động tín dụng, là quy định bất khả vi phạm, là mối quan hệ
không thể tách rời trong kinh doanh tín dụng. Thực tế cho thấy rằng một khi
chỉ một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ thì sớm muộn cũng dẫn đến quan hệ
tín dụng bị phá vỡ , tín dụng sẽ mất dần đi vai trò và tác dụng của mình và trở
thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế.
Cho nên, khi nói đến vai trò bà đỡ của tín dụng ngân hàng đối với
tiến trình phát triển kinh tế là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa, tuân thủ
nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc tín dụng trên đây và có chất lợng cao. Chất lợng
của tín dụng không phải là một khái niệm mơ hồ, trừu tợng. Nó đợc thể hiện
thông qua kết quả của quá trình tuân thủ ba nguyên tắc này và cuối cùng chất
lợng tín dụng đợc phản ánh đúng nh vai trò quan trọng của tín dụng đã đợc đề
cập ở trên, vào sự phát đạt của từng tổ chức kinh tế trong xã hội nói riêng, vào
tốc độ tăng trởng của nền kinh tế và vào tiến bộ xã hội trong từng thời kỳ nói
chung.
3. Các dịch vụ ngân hàng khác :
Dịch vụ thanh toán :
Việc đa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một cách khác, sự vận động
vốn là một nghiệp vụ quan trọng do các NHTM thực hiện thông qua việc : mở
tài khoản; cung ứng các phơng tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán
trong nớc cho khách hàng; thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; dịch vụ
ngân quỹ , thông qua mối quan hệ giữa ngân hàng nớc này là đại lý cho
ngân hàng nớc khác với công nghệ ngân hàng hiện đại đã làm cho quá trình
thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Ngoài ra, các NHTM còn:
-Thực hiện việc góp vốn mua cổ phần của các TCTD khác hoặc của các
doanh nghiệp từ nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ của mình.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng.
- Uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động ngân hàng; kinh doanh, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ t vấn
11
tài chính tiền tệ cho khách hàng, dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá,
cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác
Qua tìm hiểu chức năng nghiệp vụ và quá trình thực hiện nghiệp vụ của
NHTM, ta thấy rõ vai trò trung gian của ngân hàng và mối quan hệ tách biệt
giữa ngời cho vay tiền và ngời đi vay tiền: Khi Ngân hàng phát ra một khoản
tiền vay, số vốn đó nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng, nên sự vận động
của nó nh thế nào Ngân hàng rất khó theo dõi. Khả năng rủi ro chính là ở
đây. Xét về mặt chủ quan, việc chọn lựa khách hàng cho vay là rất quan trọng
đối với Ngân hàng vì nếu tìm hiểu không kỹ lỡng về khách hàng thì Ngân
hàng có thể chuốc lấy tai hoạ cho mình khi những đồng tiền ra đi mà không
trở về. Còn về mặt khách quan, mọi rủi ro đối với khách hàng trong kinh
doanh đều là rủi ro của Ngân hàng, bởi vốn kinh doanh của khách hàng là một
phần vốn vay từ Ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn để Ngân hàng đem đi
cho vay chủ yếu lấy từ tiền huy động đợc, tức là phần lớn số tiền để cho vay
không thuộc sở hữu của Ngân hàng. Ngân hàng phải có trách nhiệm bảo quản,
gìn giữ và làm sinh lợi số tiền huy động đó. Vì vậy NHTM sẽ phải gánh chịu
rủi ro từ nhiều phía: rủi ro từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc các
cá nhân đi vay, rủi ro từ phía ngời gửi tiền và rủi ro từ phía các ngân hàng th-
ơng mại khác. Đó là còn cha kể đến những rủi ro riêng có khác của hoạt động
kinh doanh ngân hàng.
III. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
1. Rủi ro là gì?
Trong nền kinh tế thị trờng, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp
đôi. Kinh tế thị trờng làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá
hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau.
Rủi ro - tuy là sự bất trắc gây ra mất mát thiệt hại - sự bất trắc cụ
thể liên quan đến một biến cố không mong đợi
- song lại là hiện tợng tất yếu trong cơ chế thị trờng, trong quá
trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân
đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của
những hoạt động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo thức ăn, nguyên liệu cho
quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh
thích nghi của các doanh nghiệp, tạo xu hớng phát triển ổn định và có hiệu
quả cho nền kinh tế.
12
Trong điều kiện kinh tế thị trờng, hoạt động kinh doanh của các
NHTM cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí ngân hàng phải
luôn ý thức đợc rằng hầu nh không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch
vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro.
Hơn nữa, khác với các doanh nghiệp khác, NHTM ngoài sự cạnh tranh
với nhau trên hoạt động nghiệp vụ ngân hàng thuần tuý còn cạnh tranh với
nhau trên cơ sở các mối quan hệ với khách hàng của mình. Vì vậy, khả năng
rủi ro của ngân hàng trong kinh doanh tiền tệ là khả năng rủi ro nhân đôi .
2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Kinh doanh của Ngân hàng là một nghề lắm rủi ro .
Qua thống kê, các rủi ro của NHTM chủ yếu tập trung vào những dạng sau:
2.1. Rủi ro tín dụng : Rủi ro tín dụng là lỗ tiềm tàng vốn có đợc tạo ra khi
cấp tín dụng cho một khách hàng .
Đây là loại rủi ro lớn nhất và thờng xuyên xảy ra trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Vì vậy, Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính
của nghề ngân hàng Rủi ro trong tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một
giao dịch, không thực hiện đợc việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều
kiện trong hợp đồng làm cho ngời cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, màu sắc,
cung bậc khác nhau, chúng luôn tiềm ẩn hay nói một các khác luôn rình rập
trong suốt quá trình trớc, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài
là món vay không thu hồi đợc, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn
Hoạt động của NHTM chủ yếu là hoạt động tín dụng và Ngân hàng thu
lợi chủ yếu bằng cách cho vay: Phần lớn Tài sản Có của Ngân hàng là ở dạng
tiền cho vay và thờng tạo ra tới 60% thu nhập của Ngân hàng. Nhng rủi ro đa
lại cho Ngân hàng từ lĩnh vực này những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá
sản . Lý do là các khoản tiền cho vay ( chiếm tới hơn 60% Tài sản Có) kém
lỏng hơn so với Tài sản Có khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt
trớc khi các món vay đó đáo hạn.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó
khăn nhất .
Nghiên cứu vận động tín dụng ta thấy mỗi trờng hợp đều có mức độ rủi
ro nhất định khác nhau mà biểu hiện bên ngoài là không thu hồi đợc nợ, nợ
quá hạn, nợ khó đòi, vốn bị đọng, mất vốn Để xem xét thực trạng rủi ro tín
dụng của một NHTM, ngời ta thờng xét đến tỉ trọng nợ quá hạn cao hay thấp.
Trong tỉ trọng nợ quá hạn, ngời ta còn chia ra tỉ trọng nợ quá hạn dới một
13
năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng
thu hồi Các tỉ trọng này càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của
Ngân hàng càng thấp.
Ngân hàng không thể loại trừ khả năng rủi ro, song rủi ro tín dụng đòi
hỏi ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu mới có thể ngăn
ngừa bớt rủi ro, hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Nh trên đã đề
cập, rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất , thờng xuyên xảy ra nhất và cũng
gây ra cho ngân hàng những tổn thất to lớn nhất do tỉ trọng đầu t cho vay
trong sử dụng vốn lớn nhất. Việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động tín dụng
sẽ cho ta có một cái nhìn toàn cục, từ đó có thể tìm đợc những biện pháp khắc
phục rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM nói chung và
các NHTMCP nói riêng.
2.2. Rủi ro về nguồn vốn:
Rủi ro nguồn vốn thờng xảy ra dới hai hình thức:
-Rủi ro do thừa vốn: NHTM thông qua hình thức đi vay để cho vay
nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt
giá của các tài sản có Khi nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng có
nghĩa là ngân hàng không cho vay ra đợc hoặc không sử dụng hết, trong khi
đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho ngời gửi tiền., chi các chi phí nghiệp vụ, các
chi phí quản lý. Nếu không khắc phục tình trạng này, đến một chừng mực nào
đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn đến việc đóng cửa ngân hàng.
-Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn tới việc ngân hàng không đáp ứng đợc nhu
cầu cho vay và đầu t hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực tế, ngân
hàng thờng chỉ có các nguồn vốn ngắn hạn trong khi sử dụng vốn lại là các kỳ
hạn dài hơn; nguồn vốn tự có ít nhng lại cho vay với tổng d nợ quá số lần cho
phép làm thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng; hoặc vì một nguyên nhân
nào đó, hoặc do sự đồn đại thất thiệt trong giới kinh doanh và công chúng làm
giảm giá trị chất lợng tài sản có của ngân hàng làm lợng tiền gửi tại ngân hàng
bị rút ồ ạt trong khi đó số tiền đầu t có kỳ hạn cha đến thời điểm để thu hồi,
gây tình trạng mất cân bằng.
Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động do đó khả năng
thanh toán của ngân hàng kém. Vì vậy ngân hàng lại càng khó lòng huy động
đợc vốn do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trờng vốn, từ đó
phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, có nguy cơ đi đến vỡ nợ.
2.3. Rủi ro lãi suất:
14
Lãi suất là Chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời
gian nào đó. Nh vậy lãi suất cũng là một loại giá cả. Trong cơ chế thị trờng,
giá cả luôn biến động theo quan hệ cung cầu, nên lãi suất cũng luôn biến đổi.
Rủi ro lãi suất là rủi ro ngân hàng phải gánh chịu khi có sự biến động về lãi
suất làm giảm tiền lãi và thu nhập của ngân hàng. Thiệt hại do rủi ro lãi suất
gây ra làm chi phí cho nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn. Nếu tình trạnh
này kéo dài sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh của ngân hàng.
2.4. Rủi ro tỉ giá hối đoái:
Tỉ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác
Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
do sự biến động về tỉ giá giữa các đồng tiền.
Trong nền kinh tế thị trờng, tỉ giá luôn biến động, Với sự biến đổi của
tỉ giá hối đoái, bất kỳ một khoản mở nào cho dù dài hay ngắn , đối với một
đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỉ
giá hối đoái
2.5. Rủi ro trong thanh toán:
Là loại rủi ro xuất hiện trong thao tác nghiệp vụ và luân chuyển chứng
từ trong quá trình thanh toán. Thông thờng, loại rủi ro này không gây thiệt hại
quá lớn về vật chất song cũng làm ảnh hởng tới tiến độ giao dịch và mức độ
tin cậy của khách hàng.
2.6. Rủi ro thuần tuý :
Là các rủi ro nh: thiên tai, động đất, hoả hoạn
hoặc : lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng
2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán :
Đây là loại rủi ro riêng có của ngân hàng và liên quan đến sự sống
còn của doanh nghiệp ngân hàng và thờng là hậu quả của một hay nhiều rủi
ro trên, khiến cho ngân hàng mất khả năng chi trả, thâm hụt vốn tự có dẫn đến
phá sản.
Sau đây là bảng tổng kết các loại rủi ro của Ngân hàng thơng mại
15
Trên đây là những rủi ro cơ bản nhất của NHTM. Mỗi rủi ro xảy ra đều dẫn
đến hậu quả đối với một ngân hàng, thậm chí ảnh hởng tới toàn hệ thống
ngân hàng. Do vậy, việc đánh giá các rủi ro là hoạt động cơ bản của nghề
ngân hàng . Và khi nhận thức, đánh giá đúng về rủi ro ta có thể chấp nhận
rủi ro một cách có ý thức và có kế hoạch để đối phó với hậu quả khi sự việc
xấu đi .
Cho nên chúng ta cần tìm hiểu các nguyên nhân của nó .
3. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng:
Qua nghiên cứu tổng hợp và thống kê, các nguyên nhân chủ yếu gây
nên rủi ro tín dụng của ngân hàng bao gồm:
3.1. Nguyên nhân bất khả kháng :
Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai nh bão lụt, hạn
hán, hoả hoạn và động đất.
Những thay đổi về nhu cầu của ngời tiêu dùng hoặc về kỹ thuật một
ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ của một hãng kinh doanh và
đặt ngời đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ.
Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh hoặc việc mất
một ngời quản lý giỏi có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả
tiền vay của ngời đi vay.
3.2 Thông tin không cân xứng
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ Nợ và Có -
chuyển vốn từ ngời gửi tiền sang ngời đi vay tiền - Toàn bộ giao dịch này sẽ
16
Rủi ro NHTM
Rủi ro
thuần
tuý
Rủi ro
thanh
toán
Rủi ro
hối
đoái
Rủi ro
lãi
suất
Rủi ro
nguồn
vốn
Rủi ro
tín
dụng
Rủi ro vỡ nợ
suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về
nhau. Song một thực tế còn tồn tại là : một bên thờng không biết tất cả những
gì cần biết về phía bên kia và Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có
đợc nh vậy đợc gọi là thông tin không cân xứng Việc thiếu thông tin trong
các giao dịch này sẽ đa đến Sự chọn lựa đối nghịch và Rủi ro đạo đức.
Chọn lựa đối nghịch xảy ra trớc khi diễn ra giao dịch. Bản chất vấn đề
là thay vì lựa chọn những ngời trả đợc nợ để cho vay, nhà ngân hàng - mặc dù
không mong muốn - song vì thông tin không cân xứng - đã chọn ngời tích
cực vay nhất để cho vay, nhng lại là ngời Có khả năng tạo ra kết cục Không trả
đ ợc nợ, gây rủi ro cho ngân hàng.
Thông tin không cân xứng có thể sẽ dẫn đến rủi ro về đạo đức sau khi
giao dịch. Đó là hiện tợng ngời vay do thiếu đạo đức, thực hiện những hoạt
động trái với cam kết sau khi nhận đợc khoản tiền vay, đa đến việc khó có thể
hoàn trả món vay, gây rủi ro cho ngân hàng .
Thông tin không cân xứng trên thị trờng tài chính dẫn tới sự lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức đã đặt các ngân hàng trớc nguy cơ rủi ro cao.
Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu đợc lợi nhuận, tránh tình trạng
kinh doanh thua lỗ, nợ khê đọng dẫn đến phá sản , các ngân hàng phải thật
tỉnh táo để có những nguồn thông tin cân xứng nhằm vợt qua đợc sự Chọn lựa
đối nghịch và Rủi ro về đạo đức
3.3. Sự điều khiển của cơ chế thị tr ờng :
Cơ chế thị trờng, với các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy
luật giá cả là bàn tay vô hình điều khiển mọi hoạt động của các doanh
nghiệp và quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp.
NHTM là một doanh nghiệp. Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì
phải hoạt động sinh lời. Bởi vậy, cũng nh tất cả các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển, ngân hàng phải giải quyết đợc
các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình kinh doanh : mâu thuẫn về giá cả (lãi
suất), về mức cung cầu của vốn, về các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách
hàng Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, các ngân hàng cạnh tranh
nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng thắng lợi và có ngân hàng chịu rủi ro
thất bại. Lịch sử ngân hàng đã ghi lại nhiều trờng hợp ngân hàng phá sản và
các cuộc khủng hoảng ngân hàng : Từ năm 1930 đến 1933, làn sóng phá sản
ngân hàng đã tràn từ áo, Đức, Anh sang Mỹ; riêng ở Mỹ có 9.096 ngân hàng
phải ngừng hoạt động; Sự đổ bể của hàng loạt các ngân hàng nh NH
Bankhaus Herstatt của Đức (1974), ngân hàng quốc gia Franklin - ngân hàng
17
đứng thứ 12 của Mỹ (1974), bài học đắt giá của NH Baring, một ngân hàng có
tên tuổi ra đời từ 1762 bị đổ vỡ vào năm 1995, và gần đây cơn ác mộng
Daiwa chi nhánh của ngân hàng Nhật bản tại New York - thua lỗ tới 1,1 tỷ
USD đã cho ta thấy sự khắt khe đến mức nào của nền kinh tế thị trờng.
Ngoài ra, cần xét đến mối quan hệ với khách hàng, khi ngân hàng đóng
vai chủ nợ - dùng nguồn vốn huy động đợc đem cho các doanh nghiệp và cá
nhân cần vốn vay - Thực tế cho thấy trong điều kiện kinh tế thị trờng, các
doanh nghiệp là khách hàng vay vốn và giao dịch với ngân hàng cũng thờng
gặp phải những rủi ro nhất định mà hậu quả là sự phá sản của doanh nghiệp
không còn là hiện tợng riêng có của một nền kinh tế ổn định hay không ổn
định, hoặc của một nớc phát triển hay đang phát triển :
Vào những năm kinh tế khủng hoảng (1967), ở CHLB Đức chỉ có 3930
doanh nghiệp bị phá sản thì ở những năm kinh tế tạm thời ổn định (1981), có
tới 11.590 doanh nghiệp bị phá sản với số tiền vỡ nợ 15 tỉ Mác, năm 1985 số
doanh nghiệp bị phá sản là 19.200. ở Mỹ, 7 tháng đầu năm 1992 có 59.188
công ty bị phá sản, tăng 16% so với cùng kỳ năm1991. Chỉ riêng tháng
7/1992, Mỹ có tới 8.580 công ty bị phá sản, tăng 11,6% so với tháng 7/1991.
Năm 1990, số doanh nghiệp bị phá sản ở Pháp là 47.118, năm 1991: 52.965 và
năm 1992: 57.956. Đặc biệt, số doanh nghiệp bị phá sản năm 1991 gần gấp
đôi số doanh nghiệp mới thành lập của năm 1991.
Tất nhiên ở đây còn có yếu tố liên quan tới Năng lực tài chính, Năng
lực điều hành, Năng lực xử lý thông tin và nghiệp vụ trong quá trình sản xuất
và kinh doanh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế.
Nền kinh tế là một cơ thể sống . Sự rủi ro vỡ nợ của một hay một số
khách hàng trong một ngành nào đó có thể ảnh hởng lớn đến các ngành có
liên quan.
Mặt khác, trong mối quan hệ với khách hàng- khi ngân hàng đóng vai
trò đi vay (nhận tiền gửi) - ngân hàng cũng cần phải tôn trọng quy luật cạnh
tranh. Hiện nay ngời gửi tiền không đơn thuần gửi tiền nhằm bảo quản tiền
mà là để sinh lời. Họ đã có độ nhậy cảm rất cao với thị trờng và cạnh tranh
cho phép họ lựa chọn hình thức, nơi gửi tiền sao cho có lợi nhất. ảnh hởng
của nhóm khách hàng này đối với ngân hàng là rất lớn, thậm chí gây phá sản
ngân hàng.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và điện tử tin học, với việc quốc
tế hoá các thị trờng tài chính, công nghệ ngân hàng càng phát triển ngày một
tinh vi và hiện đại. Hơn nữa, với việc đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ
18
ngân hàng và đa năng hoá các tổ chức trung gian tài chính, thị trờng tài chính
tiền tệ ngày càng sôi động và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Để tồn tại
và phát triển, buộc lòng các NHTM phải tìm mọi cách để đứng vững trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt này.
3.4. Môi tr ờng kinh tế có ảnh hởng đến sức mạnh tài chính của ngời đi vay và
thiệt hại hay thành công đối với ngời cho vay. Sự hng thịnh hay suy thoái của
chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hởng tới lợi nhuận của ngời vay và do vậy tạo
nên niềm vui hay gây nên nỗi lo lắng cho ngời đi vay tiền. Trong giai đoạn
kinh tế hng thịnh, ngời vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu đợc tơng đối cao,
nhng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng hoàn trả của ngời đi vay bị giảm
sút. Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng và trờng độ của nó mà
việc ảnh hởng lên các cá nhân và các doanh nghiệp sản xuất lu thông cũng
nh lên khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức khác nhau : Mức độ
khủng hoảng càng cao, sức mua của ngời tiêu dùng càng giảm sút gây ra hiện
tợng hàng hoá bán ra và lợi nhuận của doanh nghiệp lu thông cũng giảm
theo, đồng thời lợng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất cũng vì thế mà
tăng một cách miễn cỡng gây ảnh hỏng tới lợi nhuận của họ.
Lạm phát cũng có ảnh hởng bất lợi đến công việc kinh doanh : giá cả
nguyên vật liệu, năng lợng, lao động tăng làm cho các cá nhân và doanh
nghiệp khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng. Và không giống
nh lợi tức, nợ không giảm trong các giai đoạn suy thoái. Nó cố định về số l-
ợng. Nợ không thay đổi tơng ứng với sức mua của đồng tiền, vì vậy đã trở nên
gánh nặng đối với ngời đi vay , kết quả là không trả đợc nợ.
Thiểu phát cũng có ảnh hởng bất lợi đến công việc kinh doanh: chỉ số
tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp cầm chừng
trong vay vốn phát triển sản xuất làm cho tốc độ tăng trởng tín dụng chậm,
hoạt động ngân hàng chững lại, thâm hụt cán cân vãng lai; giá trị sản xuất
công nghiệp, mức lu chuyển hàng hoá, thu ngân sách, đầu t xây dựng cơ bản
giảm gây nên tình trạng kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để
hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, trong khi đó vẫn phải duy trì các
chi phí cố định và phải hoàn trả vốn và lãi vay phục vụ cho các chu kỳ kinh
doanh trớc đó, kết quả lại là không trả đợc nợ
3.5. Môi tr ờng pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có tác
động đến hoạt động kinh doanh bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các
biện pháp bảo đảm cho pháp luật đợc thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh
19
pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có liên
quan.
Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự tác động của 3 yếu tố tạo thành
môi trờng pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động
đến hoạt động kinh doanh một cách tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay nói một
cách khác chúng mang tính đồng bộ cao. Nếu các yếu tố này tách rời nhau sẽ
không tồn tại một môi trờng pháp lý đồng bộ và khi đó sự tác động riêng lẻ
của một hay hai yếu tố sẽ tạo nên một nội dung khác, một ảnh hởng khác,
thậm chí gây nên ách tắc hoặc những thua lỗ không đáng có hoặc tạo những
kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Ví dụ, nếu thiếu yếu tố chấp hành pháp luật thì hệ
thống pháp luật và các văn bản hớng dẫn trở nên một hành lang pháp lý vắng
vẻ thuần tuý không có tác dụng.
Sự đồng bộ ở đây bao gồm : sự đồng bộ giữa hệ thống pháp luật và các
văn bản dới luật cũng nh các văn bản hớng dẫn thực hiện các luật; sự đồng bộ
giữa các nghành, các cấp liên quan trong quá trình thực thi pháp luật và các
văn bản hớng dẫn; sự đồng bộ (hoặc phù hợp) giữa hệ thống pháp luật với
những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội;
Với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp
tơng ứng. Nền kinh tế thị trờng đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng và
chặt chẽ, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh - đặc biệt là hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng - đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.
Trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế mới Hơn 8000 cơ sở kinh
doanh tiền tệ ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh đang buổi ăn nên làm ra
thì đùng một cái, hàng loạt vỡ nợ, đe doạ phá sản Hẳn là có nhiều nguyên
nhân, song, một nguyên nhân cơ bản là do cha chuẩn bị đợc môi trờng pháp lý
thích ứng với môi trờng kinh tế. Nói các khác, hoạt động kinh tế bị hụt hẫng
do thiếu các luật chơi
Nhận định trên đã cho ta thấy mức độ quan trọng của môi trờng pháp
lý đối với hoạt động ngân hàng.
Cùng với môi trờng kinh tế, môi trờng pháp lý tạo nên môi trờng cho
vay của các ngân hàng thơng mại. Môi trờng cho vay có thể ảnh hởng tích cực
hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh
doanh tín dụng của các ngân hàng thơng mại.
Qua các phân tích trên, ta thấy ngân hàng - trong sự phát triển nội tại
của mình, trong mối quan hệ với các ngân hàng khác, trong mối quan hệ với
20
khách hàng cho dù đóng vai trò là chủ nợ hay là ngời nhận nợ- đều bị chi
phối, điều tiết của cơ chế thị trờng.
3.6 .Các nguyên nhân khác:
Ngoài các nguyên nhân trên đa đến rủi ro cho hoạt động của ngân hàng
còn có những nguyên nhân khác nh : Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ,
các biến động về kinh tế chính trị trên thế giới và những nguyên nhân do trộm
cắp tham nhũng
Nh chúng ta đã biết, chính phủ dùng các chính sách kinh tế vĩ mô nh:
chính sách tài khoá, tiền tệ, thu nhập, kinh tế đối ngoại cùng các công cụ
của hệ thống chính sách này tác động vào tổng sản phẩm quốc dân, việc làm,
lạm phát, tỉ giá hối đoái nhằm giảm bớt những giao động của chu kỳ kinh
doanh trong mỗi thời kỳ .
Qua nghiên cứu phân tích và thực tế cho thấy rằng bất kỳ sự thay đổi
nào trong chính sách kinh tế vĩ mô đều dẫn đến sự thay đổi của lãi suất, tỉ giá
hối đoái, điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng Đây là những nhân tố gây
nên tính bấp bênh trong kinh doanh tiền tệ, ảnh hởng trực tiếp tới hoạt động
của NHTM.
Thực ra, sử dụng hệ thống chính sách này là việc kết hợp giữa bàn tay
hữu hình của chính phủ với bàn tay vô hình của thị trờng. Quá trình thực hiện
sự kết hợp này có lúc rất nhịp nhàng và hữu hiệu song cũng có lúc đã làm gia
tăng tính bấp bênh và rủi ro vốn có của hình thức hoạt động kinh doanh tiền
tệ. Thực tế đã chứng minh rằng sự thành bại của việc điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô, trong khuôn khổ định hớng phát triển kinh tế quốc gia, phụ
thuộc rất nhiều vào thực tiễn điều chỉnh của từng giai đoạn đối với hoạt động
của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng. Vấn đề
tế nhị là giải quyết trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế,
song có lúc không tránh khỏi là đa các NHTM vào tình trạng bị động. Và rủi
ro, tổn thất đối với các NHTM cũng là điều không tránh khỏi.
Trong điều kiện kinh tế mở cửa dới nhiều hình thức và phơng diện,
những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hởng tới các
quan hệ kinh tế đối ngoại của một nớc mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỉ
giá hối đoái biến động đa đến sự biến động của giá cả hàng hoá xuất nhập
khẩu, lãi suất, mức cầu tiền tệ Đây là những nhân tố ảnh hởng trực tiếp tới
hoạt động của các NHTM, gây nên rủi ro, đe doạ sự an toàn trong hoạt động
của các NHTM.
21
IV. Hệ thống các biện pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín
dụng:
1.Xây dựngchính sách tín dụng :
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi
đúng quỹ đạo .Cơ cấu và chất lợng tín dụng của một ngân hàng phản ánh
chính sách tín dụng của ngân hàng đó .
Để có hiệu quả, chính sách tín dụng phải đợc soạn thảo bằng văn bản,
phải rõ ràng nhằm vào các mục tiêu và sách lợc để đạt đợc mục tiêu đó: tạo ra
các khoản tín dụng lớn có khả năng thu hồi, đảm bảo khả năng sinh lời trong
đầu t vốn tín dụng, phát triển tín dụng phù hợp với nhu cầu thị trờng. Quy mô
và hình thức cho vay cần phải đợc xem xét trong mối quan hệ với khả năng
thanh toán của khách hàng. Thực tế cho thấy chính sách tín dụng phải đợc
thay đổi theo từng thời kỳ nhằm phản ánh thực tế và phải luôn đợc duy trì nh
một công cụ kiểm tra .
2. Đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài:
2.1.Đa dạng hoá hoạt động nghiệp vụ có tác dụng làm cho rủi ro của các
nghiệp vụ phân tán rộng và tính linh hoạt dới giác độ phản ứng trớc các biến
động của thị trờng lớn hơn: Sự thăng trầm của nền kinh tế tác động mạnh mẽ
đến hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp cũng nh
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đa dạng hoá Tài sản Có sẽ làm giảm nhẹ
những tác động xấu, tránh đợc rủi ro, giúp cho ngân hàng có khả năng bảo
toàn vốn, duy trì mức sinh lời.
Để đa dạng hoá hoạt động nhiều hơn, các ngân hàng không những kinh
doanh đa năng mà còn hoạt động đa chi nhánh nhằm giảm rủi ro thông qua
việc bù trừ lỗ lãi giữa các chi nhánh, điều chuyển vốn trong hệ thống tạo ra sự
đồng bộ trong hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống, tăng cờng sức cạnh
tranh.
2.2.Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài có thể giảm chi phí tập hợp thông tin,
sàng lọc dễ dàng hơn và ngân hàng tránh đợc việc chọn lựa đối nghịch và rủi
ro đạo đức từ phía khách hàng. Đối với khách hàng có mối quan hệ lâu dài,
ngân hàng đã có sẵn phơng thức giám sát nên chi phí dành cho việc giám sát
họ cũng giảm đi. Về phía khách hàng, do mối quan hệ lâu dài với ngân hàng
mà họ có thể đợc hởng lãi suất u đãi, hoặc hạn mức tín dụng nhằm phát triển
sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy một cách lành mạnh hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
3. Đánh giá rủi ro tín dụng:
22
Đánh giá rủi ro tín dụng là một nguyên tắc cho vay quan trọng bởi mục
tiêu của hoạt động cho vay là tạo ra những khoản cho vay không gặp khó
khăn. Vì vậy, việc đánh giá tính trung thực, năng lực và kinh nghiệm của
khách hàng, dù đó là một công ty hay một cá nhân, là yêu cầu tối cao. Đánh
giá rủi ro tín dụng nhằm xác định : Liệu mức độ rủi ro có thể chấp nhận đợc
không và Liệu lợi nhuận có phù hợp với rủi ro hay không. Trọng tâm cuả đánh
giá rủi ro và quyết định cho vay là có khả năng trả lời chắc chắn hai câi hỏi:
Khách hàng có thể trả đợc nợ không ? và Khách hàng sẽ trả nợ hay không ?
Đây là một quá trình tìm hiểu thông tin đợc tiến hành trớc khi đa ra
quyết định cho vay. Nó phải đợc tiến hành đối với từng và tất cả các khách
hàng tiềm tàng. Để tìm câu trả lời cho hai câu hỏi trên, cần phân tích bất kỳ
thông tin nào nhận đợc từ, hoặc về khách hàng.
Thông tin này thờng đợc nói đến với câu Năm C của tín dụng :
+Đặc điểm (Character)
+Khả năng (Capacity)
+Vốn (Capital)
+Điều kiện (Conditions)
+Tài sản thế chấp (Collateral)
Mối quan hệ với khách hàng (Customer Relationship) và Cạnh tranh
(Competition) là hai C khác đa nhóm điều kiện lên thành bảy. Bảy C này cung
cấp những thông tin giúp cán bộ tín dụng và phân tích viên đa ra các quyết
định chính xác hơn.
*Đặc điểm gắn trực tiếp với câu hỏi : Khách hàng sẽ trả nợ hay không?
Sử dụng từ Đặc điểm là nói đến sự thẳng thắn, trách nhiệm, trung thực và nhất
quán của ngời vay để xác định sự trả nợ của họ.
*Khả năng gắn trực tiếp với câu hỏi: Khách hàng có thể trả nợ đợc hay
không? Sử dụng từ Khả năng là nói đến khả năng trả nợ của ngời vay mà
không cần sử dụng đến tài sản thế chấp. Nghĩa là khách có trả nợ đợc không
và đâu là những nguồn để trả nợ sau này. Để trả lời đợc câu hỏi này, phải xác
định những nguồn tiền mặt nào sẵn có để trả nợ khoản vay. Thờng có bốn
nguồn có thể trả nợ vay :
+Lu chuyển vốn (sẽ đợc phân tích sau)
+Bán tài sản có : thực tế cho thấy thanh lý tài sản là một nguồn
trả nợ tồi.
+Rót vốn từ bên ngoài : là một sự không chắc chắn nếu ngời cho
vay trông chờ sự rót vốn vào hoạt động kinh doanh trong tơng lai của ngời đi
23
vay nh là một nguồn trả nợ chính, vì nếu doanh nghiệp làm ăn không có lãi,
nhà đầu t có thể sẽ không cấp vốn
+Vay ở nơi khác : phải kiểm tra hết sức kỹ lỡng khoản cho vay
hiện tại nếu khách hàng đang tìm kiếm tái tài trợ từ ngời tài trợ/ ngời cho vay
khác. Nếu ngời vay làm ăn không có lãi, có khả năng rất cao là không nơi nào
cho vay, ngân hàng có thể sẽ gặp phải khoản vay có vấn đề. Mặt khác, hoạt
động kinh doanh của khách hàng tốt có thể bị một TCTD khác lôi kéo mất
Khả năng cũng đề cập luôn tới khả năng pháp lý của đối tợng đó trong
việc vay vốn. Nghĩa là, một ngời đi vay đại diện cho một công ty hoặc một
hợp doanh phải có sự uỷ quyền bằng văn bản cuả tổ chức doanh nghiệp đó.
*Vốn : Nói chung ngời xin vay nên có đủ vốn tự có đầu t vào doanh
nghiệp để tự chịu rủi ro. Vì vậy, khi xác định liệu khách hàng sẽ trả nợ hay
không, thì việc phân tích tình trạng Vốn của khách hàng hỗ trợ cho việc đánh
giá khía cạnh Đặc điểm. Việc có vốn cũng cho thấy khả năng và năng lực thực
hiện những cam kết tài chính trong quá khứ của khách hàng. Rất có khả năng
là năng lực này đợc duy trì trong suốt thời gian hợp đồng vay vốn.
*Tài sản thế chấp : Tốt nhất nên xem tài sản thế chấp là nguồn trả nợ
thứ hai. Dù giá trị của tài sản thế chấp đang cầm giữ có lớn đến mấy, việc bán
nó trong tơng lai không bao giờ là nguồn trả nợ chính của khoản vay.
*Các điều kiện : là các yếu tố bên ngoài sự kiểm soát của khách hàng
( tình hình của nền kinh tế, tình hình của ngành sản xuất đó ) nhng có thể tác
động đến khả năng của họ trong việc trả nợ. Các yếu tố đó đóng vai trò hỗ trợ
mạnh mẽ trong việc xác định liệu khách hàng có thể trả đợc nợ hay không.
*Cạnh tranh: trong môi trờng cho vay ngày nay, cạnh tranh để có đợc
những công việc kinh doanh tốt tất nhiên có một vai trò trong các quyết định
tín dụng. Mong ớc thu hút khách hàng mới và tốt từ các đối thủ cạnh tranh,
hoặc giữ các doanh nghiệp có giá hiện tại khỏi đi sang các đối thủ cạnh tranh
có thể làm cho cán bộ tín dụng phải hy sinh chất lợng khi đa ra các quyết định
tín dụng. Tuy nhiên, cạnh tranh không nên dẫn dắt các quyết định tín dụng
mà nên đa ra các quyết định tín dụng chắc chắn có yếu tố cạnh tranh.
*Quan hệ với khách hàng : Để quyết định mức độ mối quan hệ với một
khách hàng hiện tại, một yếu tố chủ chốt để đánh giá là số lợng sản phẩm của
ngân hàng mà khách hàng sử dụng.
Theo số liệu thống kê năm 1991 do Vụ Quản lý sản phẩm và tiếp thị
ANZ mức sử dụng bình quân trên một khách hàng của ngân hàng ANZ là 1,5
24
sản phẩm. Các nghiên cứu khác cho thấy một khách hàng có hơn ba mối liên
hệ/sản phẩm trở thành khách hàng lâu dài và trung thành
4.Phân tích khả năng tài chính, năng lực pháp lý, năng lực điều hành SXKD,
uy tín của ngời vay vốn nhằm nghiên cứu và hình thành các đảm bảo tín
dụngchắc chắn :
Việc phân tích và đánh giá khả năng tài chính của ngời vay tạo cho cán
bộ tín dụng một cái nhìn tổng quát để đi đến quyết định đúng đắn. Cần quan
tâm phân tích các chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng tài chính của ngời vay:
-Tỷ suất lợi nhuận: biểu hiện khả năng sinh lợi của khách vay đ-
ợc tính bằng tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận thu đợc và tổng vốn kinh doanh.Tỷ lệ
này càng lớn doanh nghiệp càng có nhiều tích luỹ, tình hình tài chính lành
mạnh và ngợc lại. Chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá uy tín và sức cạnh tranh
của ngời vay từ đó có cơ sở để quyết định đầu t tín dụng hay không.
-Chỉ tiêu năng lực đi vay của ngời vay đợc xác định bằng tỉ lệ
giữa Tổng số vốn của DN và tổng số d nợ đi vay các TCTD. Tỷ lệ này >0,5
doanh nghiệp có thể tiếp tục vay vốn. Nếu tỷ lệ này <0,5, NH cần phải cân
nhắc kỹ lỡng khi ra quyết định.
-Chỉ tiêu khả năng thanh toán phản ánh khả năng hoàn trả nợ của
doanh nghiệp là tỷ lệ giữa Số tiền DN có thể dùng để thanh toán ( vốn bằng
tiền, các khoản phải thu, hàng hoá trong kho có khả năng tiêu thụ) và Số tiền
DN phải thanh toán (các khoản phải trả, các khoản nợ ngân hàng đến hạn, nộp
ngân sách). Nếu tỷ lệ này >1, doanh nghiệp có tình hình tài chính bình thờng;
ngợc lại <1, DN có tình hình tài chính khó khăn và không lành mạnh.
-Báo cáo về chu chuyển vốn : Là thớc đo cơ bản về khả năng trả
nợ - khả năng thực hiện các nghĩa vụ của một doanh nghiệp, từ nguồn tiền mà
nó tạo ra đợc chính từ các hoạt động kinh doanh thông thờng. Phân tích chu
chuyển vốn là một bớc quan trọng đối với ngời cho vay khi phân tích tình hình
tài chính của một doanh nghiệp. Dự báo chu chuyển vốn là bản tóm tắt lợng
tiền thu vào (chu chuyển vốn vào) và các khoản thanh toán ( chu chuyển vốn
ra) với kết quả là tiền tăng dơng hay âm. Dự kiến về CCV càng lớn và càng ổn
định bao nhiêu đối với một doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể dựa càng
nhiều vào công cụ tài chính để tính toán khả năng trả nợ. Giá trị cốt lõi của tín
dụng trong Dự báo CCV là :
* Việc hoàn trả phụ thuộc vào việc khách hàng tạo tiền và sử dụng nó
để thanh toán những khoản nợ. Vì vậy, đánh giá tín dụng phải xem xét khả
năng và ý thức sẵn sàng trả nợ của khách hàng,
25