lời nói đầu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời
sớm ở nớc ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính chất
kinh doanh thơng mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao cả.
Kể từ khi ra đời đến nay, nó đã góp phần làm ổn định đời sống cho cán
bộ công nhân viên chức Nhà nớc, quân nhân, những ngời lao động làm việc
trong các thành phần kinh tế của đất nớc; ổn định chính trị xã hội, thúc
đẩy quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay, đợc sự quan tâm của Nhà nớc mà chính sách BHXH ngày
càng đợc thực hiện tốt và hiệu quả hơn với các đối tợng tham gia nói trên. Để
việc thực hiện BHXH tồn tại và phát huy đợc tác dụng của nó cần phải có
một quỹ BHXH và quỹ đó phải hoạt động đúng mục đích tức là cơ quan
BHXH phải thực hiện tốt công tác thu chi quỹ BHXH.
Qua thời gian thực tập tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ em thấy
BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt đợc những kết quả thiết thực về hoạt động
thu chi quỹ BHXH nh: Chi đúng ngời, đúng đối tợng, kịp thời; thu quỹ
BHXH ngày càng tăng v.v Tuy nhiên bên cạnh dó vẫn còn một số tồn tại
nhất định nh: Thu BHXH cha dứt điểm, số nợ đọng vẫn còn, một vài cơ sở
còn trốn nộp BHXH làm cho hoạt động quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện
Giao Thuỷ cha đạt đợc kết quả cao, tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nớc.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của công tác quản lý thu chi quỹ BHXH
nh vậy, em đã chọn đề tài : Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng
BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định) với mong muốn đợc góp phần nhỏ
bé của mình nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu chi quỹ BHXH tại
phòng BHXH huyện Giao Thuỷ nói riêng và trong hệ thống BHXH Việt Nam
nói chung.
1
Chơng I
tổng quan về bhxh và quỹ BHXH
I. Sự cần thiết phải có BHXH
1 Sự ra đời của BHXH
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mớn nhân công
diễn ra càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng. Đặc
biệt khi ngời lao động không may gặp rủi ro, sự cố nh: ốm đau, bệnh tật, tai
nạn lao động, mất việc làm phải nghỉ việc. Khi rơi vào những tr ờng hợp
này, các nhu cầu cần thiết không những không mất đi mà còn tăng lên, thậm
chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới nh: cần đợc khám chữa bệnh, điều trị
khi ốm đau; cần ngời nuôi dỡng, chăm sóc khi gặp tai nạn, thơng tật Tổng
thời gian nghỉ việc ngời chủ không trả lơng, làm cho ngời lao động càng gặp
nhiều khó khăn hơn và không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu ngời chủ chỉ
cam kết trả công lao động nhng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho
ngời lao động có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may
gặp những khó khăn đó.
Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và ngời chủ không
phải chi ra đồng nào nhng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra
một khoản tiền rất lớn mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn chủ thợ càng
trở nên vô cùng gay gắt. Khi những mâu thuẫn này kéo dài Nhà nớc phải
đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới chủ phải có trách nhiệm hơn đối với
ngời lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc phải trích ra một phần thu
nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng nguồn quỹ này để trợ cấp
cho ngời lao động và gia đình họ, khi ngời lao động không may gặp những
rủi ro và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nớc đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng
cách đó cả chủ và thợ đều thấy mình có lợi và tự giác thực hiện, cuộc sống
2
của ngời lao động đợc đảm bảo.Ngời chủ đợc bảo vệ việc sản xuất kinh
doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn không cần thiết.
Mối quan hệ ba bên nêu trên đợc thế giới quan niệm là BHXH cho ngời
lao động. Nh vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ ngời lao động, bằng
cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính đợc huy động từ sự đóng góp
của ngời lao động, ngời sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà nớc
nhằm trợ cấp vật chất cho ngời đợc bảo hiểm và gia đình họ trong trờng hợp
bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc
tử vong
2 - Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH
Trong cuộc sống cũng nh trong các hoạt động sản xuất hàng ngày, mặc
dù không muốn nhng ngời lao động không thể tránh khỏi hết những rủi ro
bất ngờ xảy ra nh: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hởng đến đời sống
vật chất và tinh thần cho bản thân cũng nh gia đình; ngời thân của họ.
Muốn khắc phục đợc khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, ngời lao
động cần phải đợc sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để ngời lao động
yên tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nớc thì nhà nớc
cần phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó khăn cho ngời lao
động trong các trờng hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề
nghiệp, chết, mất việc làm khi về già Từ đó BHXH đ ợc ra đời nh một tất
yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần phải
tham gia hệ thống BHXH này.
II . Vai trò và những nguyên tắc của BHXH
1 Vai trò của BHXH
3
1.1) Đối với ngời lao động
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nớc đang ngày càng hoàn thiện quá
trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" nh ốm đau, tai nạn lao
động- bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm lại diễn ra một cách th ờng
xuyên và ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra
sẽ gây khó khăn cho ngời lao động vế cả vật chất lẫn tinh thần, ảnh hởng
không tốt cho cả cộng đồng.
Với t cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nớc,
BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những ngời lao động gặp phải rủi
ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều
kiện lao động thuận lợi giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo
cho họ một niềm tin vào tơng lai. Từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng
năng suất lao động cũng nh chất lợng công việc cho xí nghiệp nói riêng và
cho toàn xã hội nó chung.
1.2) Đối với ngời sử dụng lao động
Để có đợc sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con ngời và sự phát
triển của xã hội thì cần phải có ngời tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình
lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con ngời, cho xã hội.
Những ngời biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là
những ngời chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
đợc đảm bảo thì ngời chủ phải tạo đợc mối quan hệ tốt với ngời lao động,
giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với ngời
lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc
sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn
làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của ngời chủ sử dụng lao động hoạt
động đạt kết quả cao. Muốn vậy ngời chủ sử dụng lao động phải tham gia
đóng BHXH cho những ngời lao động của mình để có thể đảm bảo những
khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến ngời lao động khi họ gặp những rủi ro
4
bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho ngời lao động của ngời chủ sử
dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản
xuất của doanh nghiệp cũng nh nâng cao thu nhập cho ngời lao động và góp
vào việc phát triển nền kinh tế của đất nớc.
1.3) Đối với xã hội
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động
dịch vụ, cơ quan BHXH là một doanh nghiệp sản xuất ra những dịch vụ
bảo hiểm cho ngời lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến
(không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu các doanh
nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa dạng các nhu
cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng đợc tính trực tiếp vào
tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với t cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nớc, BHXH sẽ bảo hiểm cho ngời lao động, hoạt động BHXH sẽ giải
quyết những trục trặc, rủi ro xảy ra đối với những ngời lao động, góp
phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng
tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao
năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của mình vào việc
nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của ngời lao động khi
gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác
động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với t cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh
mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nớc, tới hệ thống tín dụng tiền tệ
ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn
và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu
t phát triển phần nhàn rỗi của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự
phát triển đất nớc, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc
5
làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho ngời lao đông.
Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nớc, góp phần tăng
thu nhập cá nhân cho ngời lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc
nội cũng nh tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ t, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ
phân phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối lại
thu nhập này đợc tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều
ngang giữa ngời khoẻ và ngời già, ngời đang làm việc với ngời đã nghỉ hu,
ngời trẻ tuổi với ngời lớn tuổi, giữa nam với nữ, ngời đang hởng trợ cấp với
ngời cha hởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng
của chính sách kinh tế xã hội, giữa những ngời có thu nhập cao và ngời có
thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không
hàm ý lấy của ngời giàu chia cho ngời nghèo một cách võ đoán. ý tởng của
BHXH nhiễu điều phủ lấy giá gơng, là đoàn kết tơng trợ, phát huy tính tự
thân, sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng
cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã đợc lịch sử chứng
minh.
2 Những nguyên tắc của BHXH
2.1) Mọi ngòi lao động trong mọi trờng hợp bị giảm hoặc mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm đều có quyền đợc BHXH .
Quyền đựơc BHXH của ngời lao động là một trong những biểu hiện cụ
thể của quyền con ngời. Nhng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu
tiên Nhà nớc phải tạo điều kiện và môi trờng kinh tế xã hội, về chính sách và
luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những ngời sử
dụng lao động và ngời lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài
chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trớc hết phải tìm cách tạo ra
6
nó. ở mỗi nớc không có sự đóng góp này thì chính sách BHXH có hay đến
mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách
nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để ngời lao động
đợc hởng quyền BHXH.
2.2) Nhà nớc và ngời sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với
ngời lao động, ngời lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trờng, trong đó Nhà nớc
có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả nớc.
Với vai trò này Nhà nớc có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội,
đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Cùng
với sự tăng trởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có những kết quả bất lợi
không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn
đến những rủi ro cho ngời lao động. Khi xảy ra tình trạng nh vậy nếu không
có BHXH thì Nhà nớc vẫn phải chi Ngân sách để giúp đỡ ngời lao động dới
một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng những làm cho đời sống ngời lao động
ổn định mà còn làm cho sản xuất kinh tế xã hội của đất nớc ổn định. Vì vậy,
khi trong xã hội loài ngời xuất hiện BHXH một dạng đảm bảo đời sống
tiến bộ hơn đối với ngời lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì
Nhà nớc càng có điều kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng
hoạt động đó.
Đối với ngời sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tơng tự nh
trên nhng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. ở đó giữa ngời lao động
và ngời sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngời sử dụng lao động
muốn ổn định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu t để có máy
móc thiết bị hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời
sống của ngời lao động mà mình sử dụng. Khi ngời lao động làm việc bình
thờng thì phải trả lơng (trả công) thoả đáng cho ngời lao động. Khi họ gặp rủi
ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.. trong đó có rất nhiều trờng
7
hợp gắn với quá trình lao động, với những điều kiện lao động cụ thể của
doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có nh vậy ngời lao
động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất góp phần tăng năng suất lao
động, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Đối với ngời lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không phải
hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi ro của bản
thân. Vì thế, nếu muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khác hỗ trợ cho
mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều ngời khác thì tự mình phải gánh
chịu trực tiếp và trớc hết đã...Điều đó có nghĩa là bản thân ngời lao động phải
có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
2.3) BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình
thành lên quỹ BHXH
ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải
tham gia BHXH đối với ngời lao động của cả ba bên (Nhà nớc, ngời sử dụng
lao động và ngời lao động) trong nền kinh tế thị trờng. Biểu hiện cụ thể của
trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó mà phơng
thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để
phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới đợc thực hiện. Hơn
nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm với
quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tợng nhiễu trong hệ thống hoạt
động mang lại nhiều lợi ích cho mọi ngời có liên quan này.
2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn
BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trớc hết
là sự trợ giúp cho ngời lao động trong các trờng hợp bị giảm hoặc bị mất thu
nhập tạm thời khi họ bị ốm đau, thai sản hoặc hết tuổi lao động theo quy
định của pháp luật. Trong cả cuộc đời của ngời lao động thờng thì thời gian
lao động dài hơn thời gian ngời lao động bị tạm thời mất khả năng lao động
hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả lại tất cả những ngời
8
tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì vậy nguyên tắc trớc
hết của BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động có thu nhập để
bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao động.
2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phơng thức đáp ứng
nhu cầu BHXH
Trong BHXH cả ba bên tham gia: Ngời sử dụng lao động, ngời lao động
và Nhà nớc đều nhận đợc nhiều lợi ích. Nhng lợi ích nhận đợc không phải
luôn luôn nh nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích có lúc lại mâu
thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng thời hạn nghỉ làm
việc và hởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho ngời lao động nhng lại gây khó
khăn cho ngời chủ sử dụng lao động, nếu giảm hậu quả bất lợi cho ngời sử
dụng lao động thì Nhà nớc lại phải gánh chịu.
2.6) Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lơng khi đang đi làm,
nhng cũng phải lớn hơn mức lơng tối thiểu
Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lơng nh trợ cấp
ốm đau, thai sản, hu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp
BHXH. Nh đã biết, tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho
ngời lao động khi họ thực hiện công việc nhất định. Nghĩa là, chỉ ngời lao
động có sức khoẻ bình thờng, có việc làm bình thờng và thực hiện công việc
nhất định mới có tiền lơng. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực
hiện đợc công việc nhất định hoặc không việc làm mà trớc đó có tham gia
BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lơng tạo ra
đợc. Còn nếu cố tìm cách trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lơng thì
không một ngời lao động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc
để có lơng mà ngợc lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hởng trợ cấp. Hơn
nữa cách lập quỹ, phơng thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép
trả trợ cấp BHXH bằng tiền lơng lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền l-
9
ơng thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những
ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi
làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ
cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ khi
đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả.
2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số lớn
và số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của ngời lao động. Tuy
nhiên, có những trờng hợp, ngời lao động muốn hởng trợ cấp hu trí ở mức
cao hơn mức đợc hởng dới hình thức bắt buộc, hoặc khi cân nhắc thấy họ
đóng thêm vào BHXH cũng là một hình thức gửi tiền tiết kiệm, và có khi
còn lợi hơn gửi vào ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu đóng phí BHXH nhiều
hơn mức quy định. Chính vì vậy, khi đáp ứng nhu cầu đó cũng thực hiện đợc
đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho ngời lao động đồng thời quy luật số lớn vẫn
đợc tôn trọng.
2.8) Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nớc, đồng thời
phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành
Hệ thống BHXH của một nớc thờng gồm nhiều bộ phận cấu thành.
Trong đó bộ phận lớn nhất do Nhà nớc tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm
toàn bộ những ngời hởng lơng từ Ngân sách Nhà nớc và những ngời lao động
thuộc những khu vực kinh tế quan trọng của đất nớc. Các bộ phận nhỏ hơn do
các đơn vị kinh tế và t nhân tổ chức ra để bảo hiểm cho một số đối tợng hạn
chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận do Nhà nớc tổ chức còn có thể có
một số bộ phận BHXH chuyên ngành nh: BHXH đối với công chức, BHXH
đối với quân nhân hởng lơng và một số bộ phận BHXH theo ngành kinh tế có
tính chất đặc thù (đờng sắt, khai thác mỏ...). Các bộ phận BHXH đựơc tổ
chức nh thế nào, nhiều hay ít là do đi ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do
10
Nhà nớc quy định. ở nớc ta do những diều kiện kinh tế xã hội cha cho phép
các tổ chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nớc.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống
nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ
hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ
phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ
xung những u điểm cho nhau.
2.9) BHXH phải đợc phát triển dần từng bớc phù hợp với các điều kiện
kinh tế xã hội của đất nớc trong từng giai đoạn phát triển cụ thể
BHXH của một nớc gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện
kinh tế xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý đặc biệt là với sự điều chỉnh, sự
đồng bộ của nền pháp chế của nớc đó. Trong tình hình nớc ta, kinh tế thị tr-
ờng theo định hớng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh tế xã hội đang
chuyển động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm
chắc chắn, tính toán thận trọng và có bớc đi phù hợp.
III. quỹ BHXH
1 Vai trò của quỹ BHXH
Trong đời sống kinh tế xã hội, có rất nhiều loại quỹ khác nhau nh: quỹ
tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lơng, quỹ tiền thởng, quỹ
phúc lợi, quỹ tiết kiệm...Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là
tập hợp các phơng tiện tài chính cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu
định trớc. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu thị khả năng về mặt phơng tiện và vật
chất để thực hiện công việc cần làm.
Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lợng tĩnh tại một thời
điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở
đầu ra với các khoản chi nh một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra
ổn định, ngời ta thiết lập một lợng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành đợc
11
một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm đợc khối lợng của nó tại một thời
điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm đợc lu lợng của nó trong một
khoảng thời gian nhất định.
Theo những quan niệm về quỹ nói chung nh trên, thì quỹ BHXH là tập
hợp những đóng góp bằng tiền của những ngời tham gia BHXH hình thành
một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nớc để chi trả
cho những ngời đợc BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Nh vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự
phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện
hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và
phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết
những rủi ro của tất cả những ngời tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho
việc dàn trải rủi ro đợc thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian,
đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết
kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nớc và ngân sách gia đình.
2 Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những ngời tham
gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những ngời đ-
ợc hởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm,
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Nh vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự
phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện
hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn
tại và phát triển.
12
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những
rủi ro của tất cả những ngời tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc
giàn trải rủi ro đợc thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng
thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết kiệm chi
cho cả Ngân sách nhà nớcvà ngân sách gia đình.
Quỹ đợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
- Thứ nhất, đó là phần đóng góp của ngời sử dụng lao động, ngời lao động và
Nhà nớc, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ.
- Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tơng đối của quỹ đợc tổ
chức BHXH chuyên trách đa vào hoạt động sinh lời.
- Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật
lệ về BHXH. Phần lớn các nớc trên thế giới, quỹ BHXH đều đợc hình thành
từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phơng thức đóng góp và mức đóng góp của
các bên tham gia có khác nhau.
2 - Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH đợc
sử dụng để trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc
sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tợng tham gia BHXH gặp rủi ro.
Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ớc
102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
13
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống ( trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện
kinh tế xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến nghị
đó ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện đợc ba chế độ. Trong đó,
ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong
hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính,
thu nhập, tiền lơng .v.v Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải
tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh
dỡng; xác suất tử vong
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hởng BHXH phải tính đến một
loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng nh từng chế
độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hởng trợ cấp BHXH tuổi
già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của ngời lao động là
chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hởng trợ cấp hu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi
quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, co những nớc quy định: Nam
60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ đợc nghỉ hu. Nhng cũng có những nớc quy định:
Nam 65 tuổi và Nữ 60 tuổi.v.v Hoặc khi xác định điều kiện h ởng trợ cấp
cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố nh:
Điều kiện và môi trờng lao động; bảo hộ lao động v.v Các yếu tố này th ờng
có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hởng đến điều kiện
BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hởng trợ cấp và mức hởng trợ cấp BHXH nói chung phụ
thuộc vào từng trờng hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của ngời lao
động trên cơ sở tơng ứng giữa đóng và hởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ
14
thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức
sống chung của các tầng lớp dân c và ngời lao động. Nhng về nguyên tắc,
mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lơng hoặc tiền công khi ngời lao
động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức
tiền lơng hay tiền công. ở các nớc kinh tế phát triển do mức lơng cao nên tỷ
lệ này thờng thấp và ngợc lại ở những nớc đang phát triển do mức tiền lêong
còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hu trí
chỉ bằng 50% mức lơng cao nhất ( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm ),
ốm đau đợc hởng trợ cấp bằng 50% tiền lơng, thời gian nghỉ ốm đợc hởng trợ
cấp không quá 12 tháng. Sinh con đợc hởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền l-
ơng trong vòng 16 tuần v.v Còn ở Philipin, mức trợ cấp h u trí từ 42% đến
102%, tuỳ thuộc từng nhóm lơng khác nhau, ốm đau đợc hởng 65%, sinh con
đợc nghỉ 45 ngày và đợc trợ cấp bằng 100% tiền lơng v.v
Tuy vậy, việc các nớc quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so
với tiền lơng hay tiền công thờng dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số
nớc đã phải tìm cách khắc phục nh: trả ngay 1 lần khi nghỉ hu, hoặc suốt đời
đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hởng cũng theo
tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn đợc sử
dụng cho chi phí quản lý nh: Tiền lơng cho những ngời làm việc trong hệ
thông BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi
khác Phần quỹ nhàn rỗi phải đ ợc đem đầu t sinh lợi. Mục đích đầu t quỹ
BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trởng nguồn quỹ. Quá trình đầu t quỹ
BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh
toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội.
15
chơng II
Tình hình thu chi quỹ BHXH
tại Phòng BHXH huyện giao thuỷ
I . vài nét giới thiệu về BHXH huyện Giao Thuỷ
Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ đợc thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 9 năm
1995 cùng với sự chia cắt hành chính của huyện Xuân Thuỷ thành huyện Xuân Trờng và
16
huyện Giao Thuỷ. Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chủ yếu thực hiện việc thu chi
thuần tuý mà không kinh doanh loại hình bảo hiểm nào.
Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ có tất cả 7 cán bộ viên chức, trong đó ông Nguyễn
Công Hoan là Giám Đốc, bà Chu Thị Vân ánh là Kế toán kiêm bộ phận chi, bà Đặng
Thị Dung phụ trách bộ phận hành chính, bà Phạm Thị Vóc và ông Nguyễn Thành Lý
phụ trách bộ phận thu, ông Trần Hải Triều phụ trách bộ phận chính sách, ông Trần Mạnh
Hùng phụ trách bộ phận y tế tự nguyện.
BHXH huyện Giao Thuỷ chịu sự quản lý trực tiếp của BHXH tỉnh Nam Định, có
con dấu và tài khoản riêng.
Sơ đồ vị trí của BHXH huyện Giao Thuỷ:
BHXH huyện Giao Thuỷ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH tỉnh
Nam Định giao cho gồm:
- Xây dựng chơng trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh
Nam Định phê duyệt và tổ chức thực hiện;
- Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lơng (hiện nay là 23% do y
tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (hiện nay là
17%) và 5% của ngời lao động (hiện nay là 6%);
17
BHXH
Nam Định
BHXH
Việt Nam
BHXH
Giao Thuỷ
- Chi trả các chế độ nghỉ ốm, thai sản cho đối tợng tham gia đóng góp
BHXH;
- Tổ chức việc chi trả lơng hu, trợ cấp BHXH, cả việc chi pháp lệnh ngời có
công;
- Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để lập danh sách chi trả lơng hu và trợ cấp
theo quy định;
- Tiếp nhận đơn th khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải
quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh xem xét giải quyết;
- Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Nam Định các trờng hợp hởng
lạc trợ cấp BHXH, điều chỉnh lơng hu.
- Đối chiếu tờ khai với hồ sơ gốc để triển khai cấp sổ BHXH.
Hiện nay BHXH huyện Giao Thuỷ do có sự sáp nhập của BHYT nên có
một số nhiệm vụ và quyền hạn của BHYT nh: cấp thẻ BHXH, tuyên truyền,
vận động, điều hành
II. Tình hình thu BHXH huyện Giao Thuỷ
1 - Thu BHXH
1.1) Những vấn đề chung về thu quỹ BHXH
Thu quỹ BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối
hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở các quy định của pháp luật
nhằm tạo ra các nguồn tài chính tập trung (quỹ BHXH tập trung), từ việc
đóng góp của các bên tham gia BHXH và những nguồn tài chính bổ xung
khác.
Thu quỹ BHXH là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động
BHXH nói chung, nó đảm bảo cho sự tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung và tạo ra nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động BHXH. Do
đó mà việc đóng góp vào BHXH của các bên tham gia BHXH là sự tất yếu
trong hoạt động BHXH, vì những lý do sau:
18
- Việc đóng góp quỹ BHXH đánh dấu sự đóng góp của những ngời
tham gia BHXH, là cơ sở để đo sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH.
- Tạo ra đợc nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống nhất
các hoạt động BHXH.
- Nguồn thu của BHXH đợc hình thành từ ba nguồn chủ yếu: đóng góp
của ngời lao động, ngời sử dụng lao động và phần hỗ trợ từ Ngân sách
Nhà nớc; nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong BHXH,
là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH.
- Thực chất, quan hệ ba bên trong BHXH là mối quan hệ về lợi ích do
sự đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi
ích, từ việc tham gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều
tìm kiếm đợc lợi ích cho mình, ngời sử dụng lao động tìm kiếm lợi ích
từ việc họ sẽ bỏ ra ít chi phí hơn khi ngời lao động không may gặp
phải những rủi ro, ngời lao động đợc tìm kiếm lợi ích từ việc họ đợc h-
ởng các quyền lợi khi họ không may gặp phải những rủi ro, Nhà nớc
đạt đợc mục tiêu ổn định đợc xã hội, ổn định đợc mối quan hệ lợi ích
giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động trong xã hội để ngời lao
động yên tâm tham gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển.
Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể thiếu
đợc của hoạt động BHXH.
1.2) Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ
Giao Thuỷ là một huyện có địa hình rất phức tạp: một mặt giáp với biển,
một mặt lại giáp với Sông Hồng nên ở đây tồn tại nhiều ngành nghề khác
nhau nh: làm nông nghiệp (phần lớn), khu vực giáp với biển thì nhân dân lại
đánh bắt và nuôi thuỷ sản xuất khẩu (nhng cha có đủ quy mô lớn để trở thành
công ty hay doanh nghiệp, mà hầu hết là t nhân tự đứng ra làm lấy với số lao
19
động là con em trong gia đình họ) hoặc kinh doanh du lịch; bãi tắm (Quất
Lâm), làm muối
Trên địa bàn huyện Giao Thuỷ hiện nay cha có khu công nghiệp nào mà
chỉ có một vài xí nghiệp; công ty có quy mô đủ lớn (đi thuê lao động) ngoài
các doanh nghiệp nhà nớc có trên địa bàn, đó là: Xí nghiệp muối Bạch Long,
Công ty cổ phần xây dựng đờng biển Hồng Hà, Công ty cổ phần xây dựng đ-
ờng biển Trờng Giang. Các xí nghiệp hay công ty này nằm rải rác trong
huyện Giao Thuỷ mà không tập trung một chỗ.
Công tác thu BHXH ở BHXH huyện Giao Thuỷ ít nhiều gặp phải khó
khăn do địa hình phức tạp và mức độ tập trung của các nhà máy; xí nghiệp
này. Hơn thế nữa trụ sở của BHXH huyện Giao Thuỷ lại đặt ở đầu huyện,
nên bớc đầu công tác thu BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đội ngũ
cán bộ chuyên môn còn quá ít hoặc nếu có thì trình độ cha thực sự tốt. Tuy
vậy BHXH huyện Giao Thuỷ vẫn cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu về thu
BHXH mà BHXH tỉnh Nam Định giao phó. BHXH huyện Giao Thuỷ đã tiến
hành lập danh sách chi tiết từng đơn vị; cơ quan tham gia BHXH, từng cá
nhân. Bên cạnh đó BHXH huyện Giao Thuỷ còn lập bảng lơng chi tiết của
từng cá nhân, quỹ lơng của từng công ty hay xí nghiệp để làm căn cứ thu quỹ
BHXH. Tại mỗi xã trong huyện, BHXH huyện Giao Thuỷ đặt một ban có
trách nhiệm thu chi và báo cáo các trờng hợp có sự thay đổi mức đóng
góp hay mức hởng BHXH. Gần đến mỗi kỳ báo cáo; tổng kết, BHXH huyện
Giao Thuỷ đã cử cán bộ đến các cơ sở còn nợ đong tiền BHXH hoặc dùng
các biện pháp thông tin khác nh: gọi điện thoại, nhắn tin qua đài truyền thanh
huyện Giao Thuỷ để đôn đốc, thu kịp thời, tránh tình trạng nợ đọng lâu dài.
Vì vậy BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt đợc các chỉ tiêu về thu BHXH,
mức thu tăng nhanh rõ rệt, nh năm 1995 chỉ có 633.124.098 đồng, thì đến
năm 1996 con số đó là 1.251.624.005 đồng (tăng gần gấp đôi), tinhd đến
năm 2003 BHXH huyện Giao Thuỷ đã thu đợc 6.282.523.923 đồng.
20
2 - Những nguồn thu BHXH
Thông thờng, quỹ BHXH đợc hình thành từ nguồn sau:
- Thu từ đóng góp của những ngời tham gia BHXH là nguồn thu chủ yếu,
quan trọng nhất cho bất cứ quỹ BHXH của bất kỳ quốc gia nào, nó là cơ sở
chủ yếu để hình thành nên quỹ BHXH và tạo ra nguồn tài chính để thực hiện
những chế độ BHXH; nhng trong quá trình quản lý sự đóng góp của ngời
tham gia BHXH cũng phức tạp và khó khăn nhất. Nguồn thu này có tầm
quan trọng đặc biệt, nó là nền tảng để có thể thực hiện đợc chính sách
BHXH. Thông thờng, nguồn thu này đợc hình thành nh sau:
+ Ngời lao động tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH trên cơ sở tiền
lơng; tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc gia mà phần đóng góp của ngời lao
động có khác nhau, nhng đều dựa trên cơ sở là tiền lơng của ngời lao động
làm căn cứ để tính toán số tiền ngời lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH.
Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định ngời lao động phải đóng góp bằng
6% tiền lơng tháng( trớc đây là 5%).
+ Ngời sử dụng lao động tham gia đóng góp BHXH cho ngời lao động
trong đơn vị mình; thông thờng phần đóng góp của ngời sử dụng lao động
dựa trên tổng quỹ lơng. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định ngời sử
dụng lao động phải đóng góp bằng 17% (trớc đây là 15%) tổng quỹ tiền lơng
của những ngời tham gia BHXH trong đơn vị.
- Thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà nớc chủ yếu là để đảm bảo cho
các hoạt động BHXH diễn ra đợc đều đặn, bình thờng, tránh những xáo trộn
lớn trong việc thực hiện BHXH. Nguồn thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà
nớc cho quỹ BHXH đôi khi là khá lớn, việc hỗ trợ cho hoạt động BHXH của
Nhà nớc là hoạt động thờng xuyên và liên tục để đảm bảo thực hiện tốt các
chế độ chính sách nói riêng và hoạt động BHXH nói chung.
21
- Thu từ lãi đầu t của hoạt động đầu t bảo toàn và tăng trởng quỹ đợc hình
thành từ công việc đầu t quỹ BHXH nhàn rỗi vào các chơng trình kinh tế
xã hội, những hoạt động đầu t khác đem lại hiệu quả. Từ nguồn quỹ nhàn rỗi
đợc đem đầu t, quỹ BHXH thu đợc phần lãi đầu t để bổ xung vào nguồn quỹ
BHXH.
- Ngoài những nguồn thu trên thì quỹ BHXH còn có một số nguồn thu
khác để bổ xung vào quỹ BHXH; nói chung, những nguồn thu này không
lớn, không ổn định. Chủ yếu là những nguồn thu từ việc nhận sự hỗ trợ của
các tổ chức nớc ngoài, từ những hoạt động từ thiện, từ hoạt động thanh lý nh-
ợng bán tài sản cố định. Nguồn thu này thờng chiếm một tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng số thu của quỹ BHXH.
3 - Những nguyên tắc trong thu BHXH
Căn cứ pháp luật và các văn bản dới luật thì thu BHXH phải đảm bảo
theo nguyên tắc là phải đảm bảo đúng đối tợng và đúng mức thu, đồng thời
phải đảm bảo tính công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn thu
đúng và thu đủ thì cần phải quán triệt những vấn đề sau đây:
- Các cơ quan, các doanh nghiệp đóng BHXH thì phần đóng góp phải
dựa trên quỹ lơng, quỹ lơng này bao gồm toàn bộ là lơng cứng và các khoản
phụ cấp vào lơng, đồng thời quỹ lơng này phải chi trả cho tất cả các đối tợng
tham gia đóng góp BHXH.
- Đối với ngời lao động cơ chế thu là 6% cũng bao gồm cả lơng cứng và
các khoản phụ cấp ngoài lơng khác.
- Quyết toán thu BHXH thờng vào cuối năm nhng trong năm đó số ngời
tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi quyết toán
phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào mức bình quân.
- Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tợng khoán thu
để đợc hởng hoa hồng.
22
- Về nguyên tắc cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng quý,
từng năm nhng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải ăn khớp với
nhau và phải thực sự cân đối: giữa ngời lao động, ngời sử dụng lao động, loại
hình doanh nghiệp, loại hình thu.
Ngoài việc thu đúng của ngời lao động và ngời sử dụng lao động, BHXH
phải lập kế hoạch và lập dự toán trớc phần ngân sách Nhà nớc cấp bù vào đầu
tháng, đầu quý, đầu năm sau đó mới đợc quyết toán.
Lãi đầu t quỹ nhàn rỗi BHXH, về nguyên tắc phải đợc bù đắp vào quỹ để
bảo toàn và tăng trởng nguồn quỹ, phần trích ra chi cho các mục đích khác
nh chi cho khen thởng, chi quản lý và những khoản chi khác phải tuân thủ
theo đúng những quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ của các tổ chức,
các quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của ngời tham gia phải đợc hạch
toán riêng, các khoản nợ đòi đợc phải tính tới lãi suất.
4 - Tổ chức quản lý thu BHXH
4.1) Quản lý đối tợng tham gia BHXH
Quản lý đối tợng tham gia BHXH là một phần quan trọng trong công tác
thu của BHXH, đặc biệt là nguồn thu từ ngời lao động và ngời sử dụng lao
động (kể cả những ngời đang đợc cử đi học, đi thực tập, công tác và điều d-
ỡng ở trong và ngoài nớc mà vẫn hởng tiền lơng hoặc tiền công của cơ quan
đơn vị đó) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế xã hội theo
quy định tại Điều lệ BHXH Việt Nam, bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nớc;
- Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt văn
phòng đại diện ở Việt Nam (trừ những trờng hợp tuân theo những điều ớc
quốc tế mà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia có những quy định khác);
23
- Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử
dụng từ 10 lao dộng trở lên (hiện nay BHXH đã áp dụng với các doanh
nghiệp có dới 10 lao động);
- Các cơ quan hành chính sự nghiệp, các cơ quan của Đảng, đoàn thể từ
trung ơng đến địa phơng (chỉ tới cấp huyện);
- Các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ
quan Đảng, đoàn thể;
- Các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ trong lực lợng vũ trang; Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an đóng cho nhân dân, Công an nhân dân thuộc diện hởng
sinh hoạt phí theo điều lệ BHXH đối với sỹ quan, công an nhân dân ban hành
kèm theo Nghị định số 45/CP ban hành ngày 15/07/1995 của Thủ tớng Chính
phủ;
- Cán bộ xã, phờng, thị trấn đợc hởng sinh hoạt phí tại Nghị định số 09/
1998/ NĐ-CP ban hành ngày 23/ 01/ 1998 của Thủ tớng Chính phủ;
- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đa ngời lao động Việt Nam đi làm
việc có thời hạn ở nớc ngoài đóng cho ngời lao động theo Nghị định số 152/
1999/ NĐ-CP ban hành ngày 20/ 09/1999 của Thủ tớng chính phủ.
Từ những đối tợng phải thu BHXH nh trên, để thực hiện công tác quản
lý đối tợng tham gia BHXH cần phải thực hiện tốt một số công tác sau:
- Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ phận
và cá nhân để quản lý, theo dõi đôn đốc thu BHXH đến từng cá nhân tham
gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản lý sẽ làm cho việc
thu BHXH đợc dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tợng thu thiếu, bỏ qua không
thu ... Việc phân cấp, phân công quản lý đối tợng tham gia BHXH phải đạt
đợc yêu cầu của công tác thu BHXH đề ra; ví dụ nh BHXH của Việt Nam
thực hiện công tác quản lý đối với BHXH các tỉnh, thành phố.
- Tiến hành ghi sổ BHXH cho những ngời lao động để theo dõi, ghi chép
kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng BHXH của họ theo từng thời gian
24
(tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị đóng, ngành nghề công tác để sau
này làm căn cứ xét hởng các chế độ BHXH cho họ.
4.2) Quản lý tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH
Căn cứ cơ bản để tiến hành hoạt động thu BHXH của ngời lao động là
tiền lơng tháng, đối với ngời sử dụng lao động là tổng quỹ lơng của những
ngời lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp tổ chức. Chính vì vậy,
để tiến hành tốt công tác thu BHXH một phần quan trọng không thể thiếu đ-
ợc là phải quản lý tốt quỹ tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH của tổ chức,
doanh nghiệp.
Mức thu BHXH đối với ngời tham gia BHXH đợc quy định tại điều 36,
Điều lệ BHXH Việt Nam hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995
của Chính phủ, theo đó ngời sử dụng lao động đóng 15% (nay là 17%) tổng
quỹ tiền lơng tháng của ngời lao động trong đơn vị tham gia BHXH, ngời lao
động đóng bằng 5% (nay là 6%) tiền lơng tháng.
Theo quy định hiện hành, tiền lơng và quỹ lơng của những ngời tham
gia BHXH là căn cứ để đóng BHXH, tuỳ theo từng khu vực công tác, lĩnh
vực công tác mà có những mức đóng khác nhau, cụ thể:
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị xã hội, hội
quần chúng, tiền lơng tháng của ngời lao động và quỹ tiền lơng của các đơn
vị sử dụng lao động đợc xác định theo các quy định tại Nghị Định số 35/NQ/
UBTVQHK9 ban hành ngày 17/05/1993 của Uỷ Ban Thờng Vụ Quốc Hội
Khoá 9, Quyết Định số 69/QĐTW ngày 17/05/1993 của Ban Bí Th, Nghị
Định số 25/CP ngày 17/05/1993 của Chính Phủ, Quyết Định số 574/TTG ban
hành ngày 25/11/1993 của Thủ tớng Chính Phủ và Nghị Định số 06/CP ngày
21/01/1997 của Chính Phủ.
- Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lơng tháng của ngời lao
động và quỹ lơng của đơn vị sử dụng lao động đợc xác định theo các quy
định tại Nghị Định số 26/CP ngày 23/05/1995 của Chính Phủ.
25