Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

thương hiệu việt nam trên thị trường quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.09 KB, 28 trang )

Lời nói đầu
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định chuyển đổi cơ cấu kinh tế nớc ta từ
bao cấp sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Từ đó tới nay, nền
kinh tế nớc ta đã đạt đợc những thành tựu đáng khích lệ mà không ai có thể phủ
nhận. Vị thế của Việt Nam trên trờng quốc tế đã và đang đợc cải thiện một cách
rõ rệt. Trên con đờng hội nhập và phát triển, Việt Nam có những lợi thế nhất
định, nhng đồng thời cũng gặp phải những khó khăn. Một trong những khó khăn
mà gần đây chúng ta đang gặp phải là vấn đề về thơng hiệu của hàng hoá nớc ta
khi xuất ra thị trờng nớc ngoài bị đánh cắp, gây ra những thiệt hại to lớn cho
nền kinh tế nớc nhà. Nó gây ra sự ngừng trệ sản xuất, thậm chí phá sản cho các
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra, cá basa; và gián tiếp ảnh hởng đời
sống của những ngời dân ngời dân làm việc trong lĩnh vực này.
Thơng hiệu có một vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, sản
phẩm của doanh nghiệp có tiêu thụ đợc hay không là phải nhờ tới thơng hiệu của
sản phẩm đợc dánh giá ra sao, nhng làm thế nào để các doanh nghiệp có đợc một
thơng hiệu độc quyền khi hàng hoá của họ xuất khẩu sang nớc ngoài? Đó là một
câu hỏi mà lời giải đáp của nó đang dần đợc hé mở, là một dấu hiệu đáng mừng
cho các doanh nghiệp nớc ta. Giờ đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã phần nào ý
thức đợc sự liên quan mật thiết giữa thơng hiệu và việc tiêu thụ sản phẩm. Tuy
nhiên vẫn còn muôn vàn khó khăn mà các doanh nghiệp còn gặp phải bởi thực ra
thơng hiệu đối với họ còn là một khái niệm tơng đối mới mẻ mà không phải bất
kì một doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu đợc một cách thấu đáo.
Một trong những vụ tranh chấp thơng hiệu của hàng hoá Việt Nam với nớc
ngoài gần đây đợc nói tới nhiều nhất là sản phẩm cá basa, cá tra của VN khi xuất
khẩu sang thị trờng Hoa Kỳ. Cá tra, cá basa của Việt Nam bắt đầu xuất khẩu
sang thị trờng Mỹ từ năm 1997 và từ đó đến nay đã thu đợc những thành quả to
lớn do cá của ta giành đợc lợi thế so sánh tuyệt đối với cá cùng loại tại thị trờng
Mỹ. Đứng trớc thực tế này, phía Hoa Kỳ đã nghĩ ra nhiều cách để có thể hạn chế
đợc việc nhập khẩu cá tra, cá basa của ta sang thị trờng họ. Chiêu bài đầu tiên
mà phía Mỹ sử dụng là việc cấm phía Việt Nam dùng thơng hiệu Catfish khi cá
của ta xuất khẩu sang thị trờng nớc họ; tiếp theo với chiêu bài thứ hai, Mỹ kiện


Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Thế là, các doanh nghiệp Việt Nam vừa
1
mới đứng dậy sau vụ kiện thơng hiệu giờ đây lại phải đơng đầu với vụ kiện
chống phá giá.
Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu nguồn gốc cũng nh
diễn biến của việc này dựa vào nguồn thông tin nh sách báo, tạp chí, qua các ph-
ơng tiện truyền thông đại chúng; và đăc biệt là đợc sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo
viên hớng dẫn. Đề tài nhằm mục tiêu tìm ra một số giải pháp cho vấn đề thơng
hiệu của Việt Nam trên thị trờng nớc ngoài và tìm kiếm con đờng tiếp theo cho
ngành thuỷ sản Việt Nam nói chung và sản phẩm cá basa nói riêng. Với mục
đích trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu đợc chia làm 4
phần:
Phần I: Thơng hiệu Việt Nam trên thị trờng quốc tế
Phần II: Thực trạng kinh doanh cá da trơn Việt Nam trên thị trờng Mỹ
Phần III: Một số kiến nghị về thơng hiệu và giải pháp cho cá da trơn Việt Nam
trên thị trờng Mỹ và thị trờng quốc tế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đợc những mục tiêu đề ra, song
do khả năng có hạn, bài viết của chúng em không tránh khoie những hạn chế và
thiếu sót. Với thái độ cầu thị, chúng em mong muốn nhận đợc những đóng góp
quý báu của các thầy, cô giáo cũng nh toàn thể những ai quan tâm tới vấn đề này.

Chúng em xin chân thành cảm ơn !
Phần I: Thơng hiệu Việt Nam trên thị trờng quốc tế
I. Vai trò của thơng hiệu trong kinh doanh
1. Khái niệm chung về nhãn hiệu, thơng hiệu sản phẩm
Nhãn hiệu là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tợng, hình vẽ hay sự phối hợp
của chúng, có công dụng để xác nhận hàng hoá hay dịch vụ của một ngời bán
hay một nhóm ngời bán và phân biệt chúng với hàng hoá và dịch vụ của đối thủ
cạnh tranh.
Một nhãn hiệu khi đã thành công thì việc kinh doanh sản phẩm sẽ thuận

lợi hơn, do đó sẽ có những cơ sở nhỏ bắt chớc hoặc làm giả. Vì vậy, để bảo vệ
cho tài sản có giá trị này, các doanh nghiệp cần có sự bảo đảm về mặt pháp lí đối
với nhãn sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đăng kí bảo vệ nhãn hiệu cho cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền. Nh vậy, nhãn hiệu này đợc gọi là nhãn hiệu đã đăng kí hay
thơng hiệu. Trong trờng hợp này, doanh nghiệp sẽ ghi thêm vào tên hay biểu tợng
2
nhãn một số kí hiệu nh R hay C nhằm nhấn mạnh tính pháp lý, tính độc quyền
của nhãn hiệu đó.
2. Tầm quan trọng của nhãn hiệu sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
2.1 Những lợi ích đem lại cho doanh nghiệp khi có một thơng hiệu mạnh
Thứ nhất, một thơng hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp sở hữu nó vợt
qua những thời kì khó khăn, và hạn chế đợc tối đa những nguy hiểm mà doanh
có thể gặp phải. Nó góp phần lợi ích không nhỏ vào trong trờng hợp doanh
nghiệp đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải cả về tài chính lẫn khả năng
cạnh tranh. Nó có thể giúp cho doanh nghiệp vợt qua khủng hoảng về mặt tài
chính, đối mặt với nguy cơ bị phá sản, bỏ xa các đối thủ cạnh tranh yếu. Ví dụ,
vào những năm cuối của thập kỉ 70s, xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ, đã dẫn
đến việc rất nhiều hãng sản xuất ô tô bị thua lỗ, thất bại do họ việc chi phí quá
cao. Tuy nhiên, vẫn có một hãng sản xuất ô tô có sản lợng bán hàng tăng lên, đó
là Mercedes-Benz, một hãng sản xuất ô tô nổi tiếng nhất thời kì bây giờ. Thơng
hiệu Mercedes đã có uy tín lớn với khách hàng và khi nhu cầu trở thành động cơ,
họ mua Mercedes để đáp ứng nhu cầu cấp bách đó.
Thứ hai, Một khi thơng hiệut tạo ra đợc nhóm khách hàng trung thành
doanh nghiệp sẽ có thể kéo dài khả năng kinh doanh đối với sản phẩm đó. Ngời
ta thơng nói, một thơng hiệu mạnh thờng không bị ảnh hởng bởi khái niệm chu
kì sống . Ví dụ, qua một cuộc nghiên cứu ở Mỹ cho thấy trong 30 thơng hiệu
dẫn đầu ở Mỹ từ năm 1930 đến nay, 27 thơng hiệu vẫn là ngời dẫn đầu trong thị
trờng sản phẩm đó, gồm xà bông tắm IVORY, bột ăn Gold medal, dầu ăn
CRYSCO

Thứ ba, khi thơng hiệu đã thành công trên thị trờng thì hoạt động phân
phối của doanh nghiệp cũng trở nên dễ dàng hơn, có khả năng xâm nhập nhanh
hơn, sâu hơn vào các khu vực thị trờng mới. Ví dụ, Coca Cola ngày đầu mới chỉ
xuất hiện ở Mỹ, đã có thời kì Coca Cola gặp rất nhiều khó khăn khi thuyết phục
các siêu thị nhận phân phối sản phẩm của mình. Tuy nhiên, khi Coca Cola trở
nên nổi tiếng thì việc có mặt sản phẩm này trên thị trơng thế giới là điều không
mấy ngạc nhiên. Hay ví dụ nh Mark&Spencer (M&S) bớc vào ngành dịch vụ
tài chính thông qua việc một sở giao dịch vào cuối những năm 80s; dần dần, với
3
khách hàng, nhãn hiệu M&S đồng nhất với sản phẩm dịch vụ có chất lợng và giá
trị tiền tệ lớn. M&S đã rất dễ dàng thành công với tài sản vô hình này. Ngay cả
khi trên thực tế hiện nay, M&S không còn kinh doanh trên lĩnh vực này, nhng uy
tín từ lĩnh vực đầu tiên này đã tạo cho M&S một động lực lớn để tham gia vào
các ngành khác đầy tiềm năng.
Thứ t, Một thơng hiệu mạnh là động lực tốt để thúc đẩy cán bộ công nhân
viên làm việc có hiệu quả. Nó giúp doanh nghiệp thu hút và giữ lại đợc những
nhân viên giỏi. Bởi đó là niềm tự hào và khuyến khích sự trung thành của ngời
lao động. Rất nhiều chuyên gia quản lý đã hớng tới làm việc cho những doanh
nghiệp có những thơng hiệu hàng đầu bời vì những kinh nghiệm mà họ hi vọng
sẽ nhận đợc từ những doanh nghiệp naỳ.

Thơng hiệu có hai chức năng chính: khẳng định nguồn gốc xuất xứ của
sản phẩm và giá trị tiêu dùng của sản phẩm; phân biệt sản phẩm này với sản
phẩm khác.
Thơng hiệu có tác dụng lớn vì nó luôn in sâu vào tâm trí của khách hàng.
Trong khi khách hàng tìm các sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng những mong
muốn hay giải quyết các vấn đề đang gặp, khách hàng luôn muốn tìm cho mình
các sản phẩm đủ tốt. Thơng hiệu hứa hẹn sản phẩm với độ tin cậy cao. Ngời ta
thờng nói:"Chúng ta đứng sau sản phẩm của chúng ta, điều này cũng dễ hiểu
thôi, bởi khi doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, họ luôn phải dõi theo hàng hoá

đó có đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng không, liệu nó có tiêu thụ tôt không?
Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng đối với sản
phẩm mà họ làm ra. Thơng hiệu truyền thông trực tiếp ở mức các giác quan
nhạy cảm và do đó dễ tạo cho ngời tiêu dùng một niềm tin mãi mãi.
Ngày nay, thơng hiệu có một vai trò vô cùng quan trọng trong khâu tiêu
thụ sản phẩm. Khi khoa học công nghệ phát triển, các doanh nghiệp có thể sản
xuất ra các mặt hàng có chức năng, hình thức, chất lợng không có sự khác nhau
nhiều, dẫn đến tình trạng cạnh trạnh rất gay gắt. Để hàng hoá tiêu thụ đợc là cả
một vấn đề lớn mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới. Vì vậy, một
chiến lợc xây dựng thơng hiệu là chìa khoá cho các nỗ lực bán hàng, dịch vụ
khách hàng và truyền thống công ty.
4
Mỗi công ty, thậm chí một doanh nghiệp mới khởi đầu cũng cần có một
chiến lợc nhãn hàng thích hợp trớc khi khởi đầu một chơng trình marketing.
2.2 Lợi ích của thơng hiệu mang lại cho ngời tiêu dùng
Việc đặt tên cho sản phẩm giúp cho ngời tiêu dùng phân biệt đợc sản
phẩm, họ sẽ có cơ hội so sánh và lựa chọn giữa nhiệu nhãn hiệ khác nhau trên thị
trờng để có đợc sản phẩm phù hợp cho mình. Thơng hiệu sẽ cung cấp cho khách
hàng một số thông tin ban đầu. Ví dụ khi ngời tiêu dùng nghe tới ti vi SONY, họ
sẽ nghĩ ngay tới đây là một thơng hiệu rất tốt, đã đợc chấp nhận qua nhiều năm
bởi chất lợng tốt, mẫu mã đẹp. Nói tới SONY, họ còn thấy đây là sản phẩm của
Nhật, nơi có những con ngời thông minh, cần cù, chịu khó, có công nghệ sản
xuất hiện đại vào bậc nhất của thế giới.
3. Giá trị tài chính của thơng hiệu
Một thơng hiệu manh tạo ra cho doanh nghiệp những lợi ích rất lớn. Vì
vậy, ngày nay ngời ta quan tam nhiều hơn tới giá trị thực tế của cac thơng hiệu
qua việc đánh giá khả năng sinh lời của chúng.
Ví dụ: trớc đây, Rickett & Colman (R&C) đã mua lại airwick Group từ tay
Ciba Geigy với giá 165 triệu bảng thay vì giá trị thực tài sản là 55.8 triệu bảng.
Đến năm 1998, dới sức ép của thị trờng, ông chủ hãng đã bán lại công ty và th-

ơng hiệu R&Cđợc coi là tài sản vô hình với giá trị lên tơí 678 triệu bảng. Còn ở
Việt Nam, hãng KAO đã mua lại P/S với giá cao hơn nhiều lần so với giá trị thực
của một công ty P/S gần nh phá sản. Và họ đã vực dậy công ty với thơng hiệu
P/S đã có chỗ đứng vững chắc trong tâm trí ngời Việt Nam. Và họ cũng thuyết
phục đợc khách hàng Việt Nam với hình ảnh của một sản phẩm truyền thống của
ngời Việt Nam
4. Quản lý và đánh giá thơng hiệu
Mục tiêu marketing khi xây dựng thơng hiệu là tạo dựng trong tâm trí
khách hàng một lòng tin vững chắc về nhãn hàng của doanh nghiệp. Đầu tiên,
doanh nghiệp dành nỗ lực để làm cho khách hàng nhận biết sản phẩm và tạo nên
những liên tởng tích cực trong tâm trí của họ. Qua thời gian, sự nhận biết và thái
5
độ tích cực đó chuyển thành lợi nhuận khi ngời tiêu dùng trung thành với thơng
hiệu sản phẩm của doanh nghiệp.
Các thông điệp marketing luôn là cầu nối để giới thiệu sản phẩm của
doanh nghiệp tới ngời tiêu dùng, giúp cho họ hiểu đợc những lợi ích mà sản
phẩm ấy mang lại. Mỗi hoạt động chiến lợc marketing, đòi hỏi phải đợc lựa chọn
cẩn thận để hỗ trợ cho thơng hiệu. Những quảng cáo, xúc tiến bán hàng, những
sự kiện đặc biệt hoặc bảo trợ sự kiện của doanh nghiệp đều phải củng cố cho th-
ơng hiệu. Mỗi một quan điểm của khách hàng với sản phẩm đều là một cơ hội để
doanh nghiệp xây dựng thơng hiệu.
Việc xây dựng thơng hiệu không phải là một hoạt động mà doanh nghiệp
có thể hoàn thành trong một thời gian ngắn hoặc là mua sẵn từ một công ty t vấn
hay quảng cáo. Một thơng hiệu thành công cần đợc xây dựng qua thời gian, từ
hàng trăm những điều nhỏ mà doanh nghiệp làm đúng. Thơng hiệu là một lời
hứa hẹn, nó đảm bảo rằng sản phẩm hay dịch vụ mang nhãn đó sẽ sống cùng thời
gian. Giá trị của nhãn đó tăng hay giảm cùng tên với tính chính trực của những
ngời đứng sau nó. Quyền lực cuối cùng quản lý thơng hiệu nằm trong tay những
ngời đứng đầu doanh nghiệp. Để cải tiến tính sinh lợi lâu dài, doanh nghiệp cần
đánh giá vị thế của nó trên thị trờng. Để làm điều đó, doanh nghiệp cần phải tự

đánh giá xem mình đang đứng ở đâu khi bắt đầu khởi xớng thơng hiệu của
mình. Trớc khi triển khai một chiến lợc xây dựng nhãn hàng, doanh nghiệp nên
nghiên cứu để thăm dò những nhận thức của khách hàng đối với doanh nghiệp,
nhãn hiệu và các sản phẩm mang nhãn hiệu. Dựa trên những hiểu biết đó, doanh
nghiệp có thể xây dựng một thơng hiệu để làm nổi bật những điểm mạnh .
II. Thơng hiệu Việt Nam trên thị trờng quốc tế
1. Những vấn đề chung về thơng hiệu Việt Nam trên thị trờng quốc tế
Trên con đờng hội nhập và phát triển nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
dần chuyển mình từng bớc để theo kịp bớc tiến của thời đại. Nền kinh tế Việt
Nam đã có những chuyển biến tích cực, ngày càng có nhiều doanh nghiệp thành
đạt hơn. Khi những doanh nghiệp này có tiềm lực mạnh mẽ, họ luôn nghĩ tới
việc xuất khẩu hàng hoá của mình ra nớc ngoài, bởi đây là một thị trờng đầy
tiềm năng, nơi mà họ có thể thu đợc lợi nhuận lớn. Mặt khác, việc gia nhập thị
trờng nớc ngoài là một dịp tốt để các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cọ xát,
6
học hỏi, tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của bạn, để từng bớc
hoàn thiện sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trờng quốc tế.
Với mục đích thâm nhập vào thị trờng nơc ngoài, một trong những lĩnh
vực đang đợc các doanh nghiệp đẩu t mạnh mẽ, đó là phát triển thơng hiệu. Đây
là lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam nhng nhiều doanh nghiệp đã nhận thức rõ ràng,
nếu không đầu t thì khó thu đợc thành công trên thơng trờng. Khi doanh nghiệp
xây dựng đợc cho mình một thơng hiệu độc quyền, có vị trí nhất định trong tâm
trí ngời tiêu dùng, sẽ là điều kiện tiên quyết để tiêu thụ đợc sản phẩm nhanh
chóng và lâu bền nhất.

Tuy nhiên, để có thể giành đợc thắng lợi trong lĩnh vực này, điều kiện tối
thiểu là các doanh nghiệp phải biết đợc luật chơi trên thị trờng quốc tế. Việc th-
ơng hiệu của một số các doanh nghiệp nh cà phê Trung Nguyên, bia Sài Gòn,
may Việt Tiến, hay gần đây nhất là Petrol Việt Nam đã bị đánh cắp ở nớc ngoài

là một minh chứng rõ ràng cho sự thiếu hiểu biết về luật chơi. Và hậu quả là họ
đã chịu những thiệt hại vô cùng lớn, uy tín của sản phẩm trên thị trờng quốc tế bị
giảm sút dẫn đến giảm sản lợng xuất khẩu, giảm lợi nhuận, ảnh hởng trực tiếp tới
đời sống của ngời dân làm việc trong nghề này.
Đây sẽ là những bài học thật bổ ích không chỉ cho những doanh nghiệp nêu
trên mà còn cho cả những doanh nghiệp có mong muốn đợc xuất khẩu hàng hoá
của mình ra nớc ngoài. Có thể nói, thơng hiệu đóng một vai trò quan trọng, có ý
nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp.
2. Quan hệ Việt Nam và Mỹ sau chiến tranh
Cha có một cuộc chiến tranh nào ở Mỹ mà giới báo chí lại tốn nhiều giấy
mực nh cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến kéo dài 20 năm ấy giờ đây đã
là quá khứ. Kể từ ngày cuộc chiến chấm dứt tới nay đã hơn một phần t thế kỷ, cả
hai dân tộc Việt Nam và Mỹ đều muốn khép lại quá khứ, mở ra một tơng lai: hợp
tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.
Đối với Việt Nam, chủ trơng bình thờng hoá, đa dạng hoá, làm bạn với
tất cả các nớc trên thế giới luôn định hớng hàng đầu trong chính sách đối ngoại.
Cũng vậy, đối với Mỹ, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện
7
nay, Mỹ cũng không đi chệch khỏi quỹ đạo khi quay lại làm bạn với một đất nớc
hình chữ S cách mình nửa vòng trái đất. Vì thế cả hai nớc đều có những nỗ lực
để cho tiến trình bình thờng hoá trở thành hiện thực: Từ nới lỏng cấm vận, cho
đến bỏ cấm vận, rồi bình thờng hoá, thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ giữa
hai nhà nớc, giao dịch thơng mại, đầu t, viện trợ và đặc biệt là Hiệp định thơng
mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực từ tháng 5/2002 là minh chứng rõ ràng
cho nỗ lực này.
3. Xác định Mỹ là thị trờng đầy tiềm năng
Tuổi đời của nớc Mỹ mặc dù còn rất trẻ xong những thành tựu kinh tế mà
nó đạt đợc thì không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ nhất và lần thứ hai làm cho nền kinh tế Nhật Bản, Đông Âu bị khủng
hoảng nghiêm trọng, ngợc lại, Mỹ giầu lên nhanh chóng nhờ việc buôn bán vũ

khí với giá cao cho vay nặng lãi Kể từ đó tới nay, dựa trên một tiềm lực kinh tế
mạnh mẽ, thu hút đợc nhiều nhân tài từ mọi nơi trên thế giới, Mỹ đã gây đựng đ-
ợc một nền kinh tế hùng mạnh vào loại bậc nhất của Thế giới, với GDP hơn 9000
tỷ $ chiếm khoảng 22% GDP thế giới, có nền khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến
Với một diện tích rộng lớn, cùng với lợng dân c đông đúc là một thị trờng
rộng lớn cho tất cả các mặt hàng. Hàng năm, nớc Mỹ phải nhập khẩu một số l-
ợng rất lớn các loại hàng hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng cá nhân.
Xúc tiến thơng mại với Hoa Kỳ, sẽ tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu cho
nền kinh tế Việt Nam, gián tiếp tạo động lực thu hút nhiều hơn nữa các công ty
nơc ngoài vào hoạt động đầu t cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu ở Việt Nam.
Tăng cờng giao dịch, buôn bán với Mỹ giúp Việt Nam ngày càng hoà
nhập hơn nữa vào thị trờng thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam có điều kiện để cải
thiện hơn mạng lới buôn bán của mình, điều này giúp Việt Nam theo kịp nhịp độ
tự do buôn bán với các nớc trong ASEAN, mở đờng cho sự tham gia đầy đủ của
Việt Nam vào các hoạt động hợp tác kinh tế với các nớc thành viên của hiệp hội.
Tuy nhiên, môi trờng kinh doanh ở đây cũng rất phức tạp, doanh nghiệp nào
muốn đứng vững ở thị trờng này, họ phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh với các đối thủ khác. Để làm đợc điều đó, quả thực không hề đơn giản,
8
ngoài việc cập nhật những kĩ thuật mới, họ còn phải nắm vững đợc những quy
định mà Mỹ đặt ra; những quy định này là rất quan trọng, có thể nói nó có ý
nghĩa sống còn với các nhà xuất khẩu. Tuy vậy, khi hiểu đợc những điều đó, nhà
xuất khẩu sẽ mở ra cho mình một cơ hội kinh doanh với lợi nhuận cao.
Phần II: Thực trạng kinh doanh cá da trơn Việt nam
trên thị trờng Mỹ
I. Tình hình cá basa trên thị trờng Mỹ
1. Sản phẩm cá tra, basa Việt Nam trên thị trờng Mỹ
Theo thông báo của phía Mỹ trong năm 2001, xuất khẩu cá tra, cá basa
của ta sang thị trờng Mỹ đạt 50 triệu $, riêng hai tháng đầu năm 2002, xuất khẩu

cá tra, cá basa vào thị trờng Mỹ đạt khoảng 30 triệu $. Còn theo báo cáo của Bộ
Thuỷ sản, trong những tháng đầu năm 2002, xuất khẩu loại cá này vào thị trờng
Mỹ tăng 20%, chiếm 52.8% tổng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam.
Theo số liệu của công ty t vấn Mỹ Willkie Farr và Gallagher cung cấp, Việt
Nam bắt đầu xuất cá tra, cá basa sang Mỹ: năm 1998 với sản lợng 261.352 kg;
năm 2001 con số này tăng lên đạt 7.765.319 kg, chiếm 94.54% thị phần nhập
khẩu loại cá này của Mỹ.
Từ đầu năm 2001 tới tháng 3/2002 khối lợng cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ
có xu hớng giảm nhẹ, tuy nhiên, xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam sang
Mỹ vẫn tăng. Đến nay đã chiếm tới 99.49% thị phần nhập khẩu cá da trơn. Nh
vậy Việt Nam hầu nh là nớc duy nhất xuất khẩu loại cá này cho thị trờng Mỹ.
Năm 2000 mức giá trung bình của cá da trơn tại thị trờng Mỹ có xu hớng
giảm, giá cá của Việt Nam về cơ bản đã ở mức tơng đơng với giá trung bình của
các nớc nhập khẩu vào Mỹ.(khoảng 3.3$/kg). Đến năm 2001, mức giá trung bình
có xu hớng giảm xuống mức 2.77 $/kg và giá cá của ta cũng giảm theo ở mức
này. Đến tháng 3/2002, mức giá trung bình của ta và các nớc khác đều ở mức
2.65 $/kg. Tuy nhiên theo báo cáo gần đây nhất của Bộ Thơng Mại, hiện nay giá
cả của Việt Nam tại thị trờng Mỹ đã tăng từ 2.6 $/kg đến 3.7$/kg. Việc xuất
khẩu cá basa, cá tra của Việt Nam vào thị trờng Mỹ tiếp tục tăng là do trong
những tháng đầu năm cá nheo của Mỹ cha tới vụ thu hoạch nên cung thiếu.
9
Đồng thời, luật 107-76 về ngân sách nông nghiệp 2002 của Mỹ (có hiệu lực từ
tháng 10/2001 đến 30/9/2002) chỉ không cho dùng tên Catfish khi làm thủ tục
nhập khẩu, chứ không cấm việc sử dụng tên gọi này ở các khâu tiêu thụ (bán
buôn, bán lẻ, dịch vụ, nhà hàng) tại thị trờng Mỹ. Mặt khác, việc chính phủ Mỹ
và các doanh nghiệp sản xuất cá da trơn sử dụng các phơng tiện thông tin đại
chúng tại Mỹ để tuyên truyền cho phong trào hạn chế nhập khẩu cá da trơn của
ta vào Mỹ đã có phần nào tác dụng quảng cáo cho cá của ta tới đông đảo ngời
tiêu dùng Mỹ.
2. Thơng hiệu của cá da trơn Việt Nam trên thị trờng Mỹ

Cá da trơn Việt Nam đa vào thị trờng Mỹ có tên gọi Catfish, và đó cũng là
tên chữ cái tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vẩy), bao gồm cá
trê, cá nheo, cá tra, cá basa, cá lăng, cá bông lau Theo hệ thông phân loại ng
học, tất cả các loài cá nói trên đều thuộc về Bộ cá nheo có tên gọi (Siluriformes)
gồm khoảng 2500 đến 3000 loài cá khác nhau, phân bổ trong các thuỷ vực nớc
ngọt, mặn và lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này đợc xếp vào các họ cá khác
nhau, trong đó có họ cá nheo Mỹ (Ictaluridae) và họ cá da trơn Châu á
(Pangasiidae). Loài cá nheo đợc nuôi ở Mỹ (Ictalurus punctatus) thuộc họ cá
nheo Mỹ, còn cá tra (Pangasius hypophthalmus) và cá tra, cá basa (Pangasius
bocourti) đợc nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long thuọoc họ cá da trơn
Châu á.
Tuy nhiên, khi sử dụng tên Catfish cho các sản phẩm này, Việt Nam đã bị
Hiệp hội cá da nheo Mỹ (CFA) phản đối vì họ cho rằng sản phẩm này đã sử dụng
nhãn hiệu của họ. Nhng trên thực tế, đây là tên sản phẩm chứ không phải tên
nhãn. Mặc dù vậy, dới sức ép của CFA, sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam
trên thị trờng Mỹ cũng đã gặp phải những bất lợi lớn.
Đáng chú ý nhất là trong cuộc chiến Catfish hiện này là Hiệp hội các chủ
trại nuôi cá Nheo Mỹ; Hiệp hội này đại diện cho giới chủ trại nuôi cá nheo giầu
có ở bang Missisipi và một số bang miền Nam nớc Mỹ. Đây là ngành sản xuất
quan trọng tại các bang này, các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ thu lợi rất lớn từ việc
khai thác những vùng đất hoang mênh mông nơi đây vào việc nuôi cá. Trớc đây,
cá nheo vốn là thức ăn của ngời da đen nghèo khổ, nay đã trở thành một loại
thực phẩm đợc bán rộng rãi trên thị trờng Mỹ, xếp thứ 5 trong số các loại thuỷ
sản đợc tiêu thụ nhiều nhất trên thị trờng này.
10
Chính vì vậy, họ rất cay cú khi thấy những sản phẩm cá da trơn đợc nhập
khẩu từ nớc ngoài có phẩm chất tốt hơn, giá bán rẻ hơn, đang chiếm lĩnh trên thị
trờng Mỹ. Và thế là sau hơn 20 năm sau khi thất bại trong cuộc chiến chống lại
dân tộc Việt Nam, Mỹ lại chủ trơng dấy lên một cuộc chiến mới, mà nh họ tuyên
bộ lần này không phải để chống lại chủ nghĩa cộng sản mà để chống lại cá tra,

cá basa của Việt Nam.
3. Cuộc chiến Catfish của Việt Nam trên thị trờng Mỹ
Trong hai năm 1999 và 2000, lợng cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào
Mỹ tăng khá nhanh, ảnh hởng trực tiếp tới lợi nhuận của những nhà nuôi cá nheo
Mỹ. Vì vậy, từ cuối năm 2000, qua d luận và các phơng tiện thông tin đại chúng,
CFA đã cố tình đa những thông tin sai lệch để bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa
của Việt Nam. CFA đã thực hiện một chiến dịch ồn ào nhng không ngăn đợc l-
ợng cá da trơn Việt Nam xuất khẩu vào thị trờng Mỹ.
Để tìm hiểu thực chất vấn đề, Hiệp hội nuôi cá nheo Mỹ đã sang Việt Nam
tìm hiểu tình hình nuôi cá tra, cá basa. Đoàn đã khảo sát kỹ tình hình thực tế nuôi
và chế biến cá tra, cá basa tại các bè cá, ao nuôi, nhà máy chế biến tại An Giang
và Cần Thơ. Những kết quả mà đoàn đánh giá tốt về công nghệ nuôi, chế biến
cũng nh điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của cá da trơn Việt Nam.
Với nhận xét này, cuộc chiến chống lại cá da trơn Việt Nam ở Mỹ lắng xuống
chút ít.
Nhng kết quả này đã không đợc CFA công nhận. Đầu tháng 2/2001, vào
thời vụ ở Mỹ khan hiếm cá nheo, cá nhập khẩu Việt Nam tăng, cuộc chiến lại rộ
lên. CFA bắt đầu một chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu
USD do Viện Cá nheo Mỹ (TCI) phát động. Những áp phích in trên các tạp chí
thơng mại và quảng cáo thực phẩm sặc mùi bài ngoại với những dòng tít nh:
Đừng bao giờ tin vào sản phẩm catfish ngoại quốc. Bên cạnh đó, họ phát động
chiến dịch ngời Mỹ ăn cá nheo Mỹ và sáng tác ra nhãn hiệu Cá catfish nuôi của
Mỹ, tạo ra không khí bài xích đối với các sản phẩm Việt Nam.
Đồng thời, chủ tịch Hiệp hội còn đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán với Việt
Nam một hiệp định riêng về cá Catfish. Trong những tháng tiếp theo đó, hiệp hội
11
CFA đã thuê công ty luật Nathan Associates tiến hành thu thập thông tin và mở
chiến dịch tuyên truyền hạ thấp uy tín của cá Việt Nam, nhấn mạnh do cá Việt
Nam nhập khẩu mà giá cá nheo ở Mỹ bị giảm tới 10%.
Để có thể giành đợc phần thắng, CFA hoạch định trong chiến dịch tiến

hành vận động gây áp lực, lôi kéo nghị sĩ của các bang có nghề nuôi cá nheo,
huy động mọi lực lợng ở các cơ quan lập pháp và hành pháp, tìm kiếm mọi sự hỗ
trợ để tấn công trả đũa các sản phẩm cá da trơn Việt Nam nhập khẩu. Điều này
đã khiến cho sản phẩm cá da trơn Việt Nam trên thị trờng Mỹ gặp phải những
thách thức lớn, đòi hỏi những giải pháp giải quyết.
4. Những bất cập trong cuộc chiến Catfish
Ngày 11/7 năm 2001, Quốc hội Mỹ đợc kêu gọi thông qua dự luật
H.R.2439, dới tên gọi ghi nhãn về nguồn gốc xuất xứ đối với cá nuôi nhập khẩu
trong khâu bán lẻ, với những lập luận công khai bôi nhọ sản phẩm của Việt Nam.
Tuy nhiên, dự luật này không đợc đa ra thông qua, do Thợng viện Mỹ đã bác bỏ
một dự luật có nội dung tơng tự đối với sản phẩm nông nghiệp nuôi trồng.
Để tiếp tục tồn tại trên thị trờng Mỹ trớc sức ép của CFA, Việt Nam cũng
đã thực hiện hầu nh tất cả những yêu cầu mà phía Mỹ đa ra nhằm tiếp tục xuất
khẩu sản phẩm cá da trơn sang thị trờng này. Tuy nhiên, dờng nh phía Mỹ cha
bằng lòng với những yêu sách mà chúng đa ra. Cuộc chiến lại tiếp tục diễn ra
theo chiều hớng ngày càng căng thẳng. Nguy hiểm hơn nữa, một số thợng nghị sĩ
đại diện các bang miền Nam của Mỹ đã mu toan dùng vấn đề Catfish để ngăn
chặn việc thông qua Hiệp định thơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ tại Quốc hội Mỹ.
Mu đồ này không thành. Một trong số những nghị sĩ này còn dám nói rằng cá da
trơn nuôi ở sông Mêkông có thể chứa cả d lợng chất độc màu da cam mà quân
đội Mỹ đã rải xuống đây trong thời kì chiến tranh
Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ bất ngờ thông qua dự luạt H.R.2964, chỉ cho
phép sử dụng tên cá Catfish cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae, thực chất
là cho riêng loài cá nheo Mỹ Ictaluruss punctatus. Việc tự giành quyền sử dụng
một tên gọi đã rất thông dụng của hơn 2.500 loài cá khác nhau trên thế giới lấy
12
làm tên riêng cho một loài cá của mình, quả là một hành động mà thế giới không
thể chấp nhận đợc.
Việc này không chỉ dừng lại ở đây, Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ còn
đệ đơn kiện Việt Nam bán phá giá cá phi dê đông lạnh tại thị trờng của họ. Vụ

kiện này đã gây cho phia Việt Nam cũng nh CFA rất mệt mỏi, tới nay vẫn cha có
câu trả lời chính thức.
II. Luật chống phá giá của Mỹ với sản phẩm cá da trơn Việt
1 Vài nét về luật chống phá giá của Mỹ
Khái niệm phá giá dumping đợc định nghĩa là việc bán một sản phẩm tại
trị trờng nớc ngoài với mức giá thấp hơn mức gía thông thờng hoặc thấp hơn giá
thành của sản phẩm đó sau khi đã tính tới các chi phí liên quan đến nhập khẩu và
phân phối.
Luật chống phá giá của Mỹ đợc thông qua lần đầu tiên vào năm 1916 nh
một phần của các luật chống độc quyền. Luật này đợc sửa đổi nhiều lần, lần gần
đây nhất là vào năm 1994 có hiệu lực năm 1995 nhằm phản ánh những thay đổi
của các hiệp định liên quan tới phá giá tại vòng đàm phán Uruguay.
Việc kiện bán phá giá đợc tiến hành thông qua hai cơ quan chính phủ của
Mỹ là Bộ Thơng Mại (DOC) và Uỷ ban thơng mại quốc tế (ITC). DOC chịu trách
nhiệm điều tra xem sản phẩm đó có đúng là đợc bán phá giá tại thị trờng Mỹ hay
không. Còn ITC sẽ phải điều tra xem việc nhập khẩu sản phẩm đó vào thị thờng
Mỹ có gây thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho
ngành công nghiệp của Mỹ sản xuất cùng loại sản phẩm đó hay không. Hai quá
trình điều tra này đợc tiến hành song song, biện pháp và mức độ chống phá giấ
sẽ đợc áp dụng nếu cả hai cơ quan dều thống nhất là hai vấn đề trên là có thật.
Quá trình này thờng kéo dài 280-420 ngày. Để thắng kiện, công ty nớc ngoài bị
kiện phá giá phải chứng minh đợc (1) là mình không bán phá giá, (2) không gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các ngành công nghiệp.
Thông thờng đối với các công ty của các nớc đợc công nhận có nền kinh
tế thị trờng, biên độ phá giá đợc xác định bằng cách so sánh giá bán của sản
phẩm đó tại thị trờng Mỹ với giá bán tại thị trờng của nớc sản xuất. Trong trờng
13
hợp đó đợc bán rất ít hoặc không đợc bán tại thị trờng nớc sản xuất thì DOC sẽ
tiến hành so sánh với mức giá của thị trờng một nớc thứ ba có điều kiện tơng tự
với thị trờng của Mỹ, ví dụ nh EU. Các vụ kiện chống phá giá nhằm vào các

công ty thuộc một nớc có nền kinh tế phi thị trờng nh Việt Nam thì biên độ phá
giá đợc xác định bằng cách so sánh mức giá của sản phẩm đó vơí một nớc thứ ba
có nền kinh tế thị trờng và có mức sống tơng đơng với mức sống của nớc sản
xuất ra sản phẩm đó. Cũng có thể, việc thẩm định phải dựa trên cơ sở chi phí sản
xuất sản phẩm đó nếu sản phẩm đó không đợc bán tại thị trờng của nớc thứ ba.
Chi phí sản xuất thờng đợc tính trên cơ sở những số liệu đợc công bố công khai
và do vậy có thê không phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất.
Khi nhận đợc đơn kiện một doanh nghiệp nào đó bán phá giá, toà án sẽ
phải tiến hành điều tra. Quá trình điều tra này bao gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Khởi sự điều tra để áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 20
ngày sau khi có đơn khiếu nại).
- Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thơng mại quốc tế Hoa Kỳ về
thiệt hại (khoảng 45 ngày sau khi có đơn khiếu nại).
- Giai đoạn 3: Xác định sơ bộ của Bộ Thơng mại (140 ngày sau khi bắt
đầu điều tra, tối đa là 190 ngày đối với những trờng hợp phức tạp).
- Giai đoạn 4: Quyết định cuối cùng của Bộ Thơng mại (215 ngày sau khi
bắt đầu điều tra, tối đa là 275 ngày).
- Giai đoạn 5: Quyết định cuối cùng của UBMTTQ về thiệt hại (260 ngày
sau khi bắt đầu điều tra).
- Giai đoạn 6: Lệnh áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 1 tuần sau khi có
quyết định cuối cùng của Uỷ ban thơng mại quốc tế Hoa Kỳ).
2. Luật chống phá gía của Mỹ đợc áp dụng đối với cá da trơn của Việt Nam
nh thế nào?
Khi sản lợng cá basa Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ ngày càng tăng, ảnh h-
ởng tới quyền lợi của những nhà nuôi cá nheo Mỹ, làm lợi nhuận của họ bị giảm
xuống. Không chịu chấp nhận trớc thực tế này, Hiệp hội chủ trại cá nheo Mỹ
(CFA) đã quyết định tìm mọi cách để giảm sản lợng cá da trơn nhập khẩu từ Việt
14
Nam. Việc đầu tiên họ làm là buộc Việt Nam phải đổi tên cá, không cho phep sử
dụng tên Catfish. Thấy việc này không đạt đợc kết quả, CFA chuyển sang chiêu

bài thứ hai, họ cho rằng việc nhập khẩu cá da trơn Việt Nam vào Mỹ có gây tác
hại đến công nghiệp sản xuất và chế biến cá của nớc này; đồng thời CFA tố cáo
Việt Nam bán phá giá cá basa tại thị trờng Mỹ.
Ngày 28/6/2002, CFA đã chính thức kiện Việt Nam bán phá giá cá basa tại
thị trờng Mỹ.
STT Công việc Thời gian
1
CFA đệ đơn kiện 28/6/2002
2
USITC đa kết luận sơ bộ và Bộ Thơng
Mại bắt đầu cuộc điều tra xem Việt Nam
bán phá giá cá da trơn phi lê đông lạnh
vào thị trờng Mỹ hay không.
12/8/2002
3
Bộ Thơng Mại Mỹ kết thúc cuộc điều tra
5/12/2002
4
Kết luận vêc cuộc điều tra của Bộ Thơng
Mại 18/2/2003
5
Kết luận cuôi cùng về vụ kiện 4/4/2003
6
Bản án đa ra 15/4/2003
Bảng: Trình tự giải quyết vụ kiện bán phá giá cá da trơn của Việt Nam
Ngày 9/8, cả năm uỷ viên của Uỷ ban thơng mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC)
không xác định đợc rằng nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam gây thiệt hại
vật chất cho ngành sản xuất cá nheo Mỹ. Tuy nhiên, ITC không quyết định định
chỉ vụ kiện của Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) vô cớ cáo buộc các
doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa vào thị trờng Mỹ. Với kết quả

bỏ phiếu của ITC, quá trình điều tra sẽ phải kéo dài và Bộ thơng mại Hoa Kỳ
(DOC) sẽ tiến hành các bớc điều tra và kết luận sơ bộ vào cuối năm nay để xác
định các yếu tố bán phá giá theo trình tự luật định. Nh vậy, vụ kiện sẽ chuyển
sang giai đoạn gay go nhất và các chuyên gia ITC sẽ sang Việt Nam để xác định
xem Việt Nam có bán phá gi5á hay không.
15
III. Những thách thức với Việt Nam khi thị trờng Mỹ không còn
1. ảnh hởng đối với ngời nông dân nuôi trồng cá tra, basa.
Sản lợng cá da trơn Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Mỹ chiếm một tỷ lệ
rất cao. Vì vậy, khi các vụ kiện liên tiếp xảy ra, sản lợng xuất khẩu cá của Việt
Nam vào thị trờng Mỹ giảm rõ rệt. Điều này ảnh hởng không nhỏ tới đời sống
của những ngời dân mà suốt đời họ chỉ gắn bó với nghề cá. Cuộc sống bình th-
ờng đã khó khăn, nay lại càng thêm khó khăn hơn. Hàng vạn ng dân đồng bằng
sông Cửu Long có khả năng mất nghề và không có nghề sinh nhai, do cha có
điều kiện làm nghề khác. Vả lại, việc chuyển nghề không phải là việc dễ dàng.
Cùng với đó phát sinh nhiều vấn đề khác mà chi phí phải trả là rất lớn nh đầu t
học nghề mới, đầu t phát triển nghề mới, chi phí cơ hội cho thời gian đi học
nghề
Bên cạnh đó, sẽ có nhiều gia đình trở thành con nợ lâu dài, khó trả. Họ đã
vay mợn rất nhiều để đầu t vào bè, với mong muốn đợc thay đổi cuộc sống. Nếu
phải từ bỏ nghề này rất nhiều gia đình sẽ rơi vào cảnh túng thiếu nợ nần. Đã có
nhiều hộ gia đình do ảnh hởng của việc giảm sản lợng xuất khẩu cá vào khoảng
10-12/2001 (do lệnh cấm đặt tên cá là Catfish) của chính phủ Mỹ đã phải lao đao
vì nợ nần.
2. ảnh hởng tới các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá
Nếu phía Mỹ giành đợc thắng lợi trong những vụ kiện trên thì không chỉ
sản lợng xuất khẩu của cá vào thị trờng Mỹ giảm sút, mà còn ảnh hởng nhiều tới
các thị trờng khác. Nguyên nhân là do một trong những cáo buộc của họ là Việt
Nam đã không công bằng khi xuất khẩu cá sang thị trờng họ với mức giá đảm
bảo cạnh tranh lành mạnh.

Một khi điều đó xảy ra, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất có thể rơi vào tình
trạng phá sản, điều đó đồng nghĩa với việc gây ra thất nghiệp cho hàng vạn công
nhân đang hoạt động trong lĩnh vực này.
Khi các doanh nghiệp này bị phá sản sẽ kéo theo hàng loạt các ngành khác
có liên quan tới nghề này nh ngành chế biến thức ăn cho cá, ngành tạo con
16
giống sẽ cũng rơi vào tình trạng vô cùng khốn khó, ảnh hởng trực tiếp tới lợi
nhuận của những ngời chủ cũng nh công nhân.
3. Phản ứng của Việt Nam và quốc tế

3.1 Phản ứng từ phía Việt Nam
Đứng trớc những lời cáo buộc vô căn cứ nh đã nêu trên, Việt Nam đã lập
tức có phản ứng đáp lại nhằm giảm bớt những thiệt thòi.
Bộ ngoại giao nớc ta đã nhận định, việc Mỹ ngăn cản nhập khẩu cá da trơn
của Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tinh thần Hiệp định Thơng mại Việt Nam
Hoa Kỳ, gây thiệt hại cho ngời nuôi trồng và các doanh nghiệp Việt Nam, tạo
rào cản trong trao đổi thơng mại. Bộ thơng mại Việt Nam cũng đã yêu cầu phía
Hoa Kỳ huỷ bỏ những quy định vô lý, hạn chế tác hại đối với Việt Nam và dây
trỏ ngại cho việc thực hiện Hiệp định.
Để khẳng định việc làm vô căn cứ của CFA, Bộ trởng Thơng mại Việt Nam
cũng đã gửi th khẩn tới Bộ trởng Thơng mại Hoa Kỳ và đại diện thơng mại Hoa
Kỳ về việc Quốc hội Hoa Kỳ đã ký ban hành thành luật, trong đó có điều khoản
liên quan tới nhãn mác basa của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Thứ trởng ngoại giao Việt Nam cũng đã gặp đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam để
phản đối việc Hoa Kỳ cấm các loại cá da trơn nhập vào nớc này đựoc mang tên
Catfish, nếu không thuộc dòng cá da trơn của Hoa Kỳ theo đạo luật HR 2646.
Tuy nhiên, dờng nh phía Hoa Kỳ đã phớt lờ tất cả mọi chuyện để hòng bảo vệ
sản phẩm trong nớc mình.
Việt Nam luôn xác định thị trờng Mỹ là một thị trờng lớn, nếu để mất thị
trờng này sẽ là một điều thật đáng tiếc. Do vậy, phía Việt Nam luôn mong muốn

có thể giải quyết êm thấm những tranh chấp không đáng có nh đã nói ở trên. Việt
Nam chấp nhận một tên gọi mới cho loại cá này là basa. Với việc thay đổi tên
17
gọi này, sản lợng cá nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam không hề giảm, thậm chí
còn có xu hớng tăng lên. Không đạt đợc mục đích, Hoa Kỳ tiếp tục cho kiện cá
basa của ta bán phá giá tại thị trờng của họ. Đây đúng là luận điệu cay cú của kẻ
bị thua kiện, điều này đã làm cho phía Việt Nam không thể có những nhờng
nhịn nữa. Chúng ta đã quyết định theo đuổi vụ kiện này đến cùng cho dù có tốn
kém bao nhiêu chăng nữa bởi chúng ta tin vào lẽ phải của mình.
Trải qua dòng thời gian, vụ kiện đã đi vào chặng đờng thứ hai, đây sẽ là giai
đoạn gay go quyết liệt nhất, nó có ý nghĩa sống còn với cả bên nguyên đơn và bị
đơn. Hiện nay, chúng ta đã săn sàng chuẩn bị mọi tính huống để có thể dối phó
với CFA.
3.2 Phản ứng của tổ chức Action Aid
Tổ chức Action Aid là tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh
vực hỗ trợ, phát triển và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam và nhiều nớc trên thế
giới.
Action Aid phản đối việc CFA kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá
vì đó là một đơn kiện không phù hợp, mơ hồ và trái với các nguyên tắc thong
mại. Tất nhiên, không phải ngẫu nhiên mà tổ chức này lại đa ra lời nhận xét nh
vậy. Họ đã trải qua một thời gian để điều tra về vụ việc này, kết quả hoàn toàn
đúng nh giải trình của Việt Nam. Có thể nói đây là một nhận định rất công minh,
không thiên vị bất kì một bên nào cả. Họ chỉ bảo vệ cho lẽ phải, bảo vệ cho
những ngời dân nghèo mà cuộc sống bình thờng đã khó khăn, nay lại càng khó
khăn hơn gấp bội kể từ khi các vụ kiện của CFA đợc tiến hành.
Đứng trớc điều đó, Action Aid nhận thấy rằng khi xem xét vụ kiện, ITC cần
phải xem xét lợi ích của cả hai bên, đặc biệt là lợi ích của nông dân nghèo nuôi
cá ở Việt Nam và lợi ích của ngời tiêu dùng Mỹ trong việc lựa chọn sản phẩm cá
với giá phải chăng và chất lợng tốt. Mọi quyết định đợc đa ra cần đặt trong bối
cảnh thực hiện các cam kết giữa hai chính phủ Mỹ và Việt Nam về thơng mại và

cùng có lợi, và vì quyền lợi của số đông.
3.3 Phản ứng của d luận Mỹ
18
Việc kiện sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam dùng thơng hiệu cá Mỹ, ròi
bán phá giá không chỉ gây xôn xao d luận quốc tế, mà bản thân chính nớc khởi
kiện cũng có những ý kiến chỉ trích việc làm sai trái này.
Ngời dân Mỹ cho rằng: Catfish, nhng sẽ không còn đợc gọi là Catfish nữa
nếu con cá đó có nguồn gốc nhập khẩu từ Việt Nam. Đây dờng nh là một câu
châm biếm mà ngời dân Mỹ đã khéo léo sử dụng để nhằm ý định phản đối vụ
kiện thơng hiệu của CFA.
Còn phản ứng của các quan chức chính phủ Mỹ thì sao? Thợng nghị sĩ Phin
Gram đảng cộng hoà bang Texas khẳng định rằng cá nhập từ Việt Nam không chỉ
nhìn giống cá Catfish. Những ngời kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi
là Catfish. Vậy cớ sao quốc hội Mỹ muốn gọi nó khác đi chứ không phải là
Catfish . Tuy nhiên nỗ lực của ông đã không đạt đợc mục đích của mình tại diễn
đàn Thợng nghị viện Mỹ.
Sau vụ kiện thành công về thơng hiệu catfish, dờng nh Mỹ không ngăn
chặn đợc lợng cá xuất khẩu từ Việt Nam, thậm chí sản lợng này còn tăng lên,
CFA lại đa ra một chiêu bài mới, kiện Việt Nam bán phá giá cá basa. Lần này,
Thợng Nghị sĩ Phin Gram đã cùng Thợng nghị sĩ John Mccain một lần nữa lên
tiến phản đối vụ kiện hết sức vô lý này.
Và cũng một lần nữa, ngời dân Mỹ lại lên tiếng phản đối vụ kiện chống phá
giá này bởi quyền lợi của họ đã bị ảnh hởng nhiều. Nếu nh vụ kiện thành công,
họ sẽ không còn đợc thởng thức loài basa nhập khẩu từ Việt Nam với chất lợng
ngon và giá cả hợp lí.
PHần III: những vấn đề đặt ra và giải pháp cho cá da
trơn việt nam trên thị trờng Mỹ và thị trờng quốc tế
I. Việt nam có đủ điều kiện để xây dựng một thơng hiệu mạnh cho cá tra,
basa


1. Cá Việt Nam rẻ hơn bởi điều kiện thiên nhiên u đãi
19
Do Đồng bằng sông Cửu Long rất đợc sự u đãi của thiên nhiên. Nơi đây có
hai mùa ma và mùa khô, có khí hậu rất phù hợp với việc nuôi cá tra, có sông Tiền
và sông Hậu là hai con sông có lu lợng nớc khá lớn, nhất là vào mùa lũ, nên cũng
có khả năng tự điều chỉnh nhằm cần bằng hệ sinh thái. Điều này giúp nông dân
có thể nuôi cá với mật độ dày, cho năng suất cao trên 1 m3 nớc có thể đạt năng
suất 150 - 170 kg cá basa, cá tra.
Trong khi đó, tại Mỹ thờng nuôi cá trong hồ, không thể nuôi với mật độ dày,
lại phải đầu t cho công nghệ quậy nớc khiến giá cao.
2. Cá Việt Nam rẻ hơn bởi giá nhân công rẻ
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, nên giá nhân công rất rẻ, cho dù
phải đầu t 500-700 triệu đồng cho đến hàng tỷ đồng, vẫn rẻ hơn số vốn ít nhất
cần thiết cho diện tích hồ tơng đơng để nuôi cá nheo ở Mỹ. Tiền công phải trả
cho một nhân công nuôi cá ở Việt Nam là 500.000đồng/tháng.
3. Giá thành sản xuất rẻ nên cá Việt Nam bán với giá thấp vẫn có lãi mà
không cần bảo hộ
Do con giống nhờ công nghệ hiện đại đã có thể cho đẻ nhân tạo nên giá rất
rẻ, cá nuôi ở bè trên sông có dòng chảy liên tục nên chính là môi trờng tốt để cá
lớn nhanh, ít nhiễm bệnh. Mặt khác thức ăn nuôi cá chủ yếu đều do nông dân tự
tìm, chế biến nh tấm cám, rau muốn, bí đỏ, khoai lang, cá tơi, cá khô. Đáng chú
ý là vào mùa lũ, nguồn cá tạp rất nhiều, nông dân vởt chúng cho cá ăn. Nhờ
những yếu tố trên nên giá thành bình quân một kg thức ăn tự chế chỉ từ 1800 đến
2000 đồng. Việc nuôi trồng cá ở bè cũng giúp giảm đáng kể chi phí đầu vào.
Tuy nhiên, các nhà nuôi cá nheo Mỹ lại không công nhận những thực tế
trên. Trong đơn kiện Việt Nam bán phá giá cá da trơn phi lê đông lạnh, CFA cho
rằng, Việt Nam cha có nền kinh tế thị trờng và giá thành sản xuất cá tra, cá basa
rẻ một phần vì đợc nhà nớc hỗ trợ. Trớc nhận định này của CFA, nhiều ng dân ở
An Giang nói: Thật ngạc nhiên khi nghe nói đơn kiện của phía Mỹ cho rằng,
những ngời sản xuất cá tra, cá basa đợc Nhà nớc hỗ trợ. Chúng tôi nuôi cá nhiều

năm nay nhng Chính phủ có phải trợ giá lần nào đâu.
20
Nhận định này cũng dễ hiểu thôi, bởi chúng ta đều biết rằg những nhà sản
xuất Việt Nam đâu có giầu có nh những nhà sản xuất Mỹ mà chấp nhận lỗ để
bán phá giá thị trờng. Nếu họ làm vậy, chắc chắn họ sẽ không đủ điều kiện sống
để tồn tại.
Điều này cũng có thể cho ta khẳng định rằng Việt Nam không hề có hành
động bán giá cá da trơn trên thị trờng Mỹ.
4. Những nguyên nhân làm giá cá nheo trên thị trờng Mỹ giảm
Trớc năm 1997, nhập khẩu cá da trơn vào Mỹ là từ Brasil, với mức kỉ lục
đạt 8.2 triệu pound năm 1996, tơng đơng với mức nhập khẩu năm 2000.
Từ năm 1997 đến nay, sản phẩm cá basa của Việt Nam chiếm phần lớn
khối lợng nhập khẩu vào thị trờng Mỹ. Sản phẩm chính là cá phi lê đông lạnh,
khoảng 14-16 triệu pound năm 2001. Tuy nhiên, thị phần cá da trơn Việt Nam
2001 vẫn thấp hơn nhiều so với lợng cá nhập khẩu từ Brasil năm 1996 (chiếm
6.7% thị phần).Mặc dù đang gia tăng những đây chỉ là một con số rất khiếm tốn,
không thể làm ảnh hởng tới giá của cá da trơn trên thị trờng Mỹ.
Vậy đâu là nguyên nhân chính tới dẫn tới hiện tợng làm giảm giá cá nheo
nuôi trên thị trờng Mỹ?
Thứ nhất, thức ăn chiếm phần lớn chi phí nuôi cá nheo, trong đó bột ngô
và bột đậu nành là hai thành phần chính để sản xuất thức ăn. Trong những năm
gần đây, giá của hai loại bột này bị giảm mạnh làm cho giá nguyên liệu giảm, giá
thành cá thành phẩm vì thế cũng giảm.
Thứ hai, lợng cung cấp giống cá tăng do diện tích nuôi đã tăng từ 147.100
mẫu (năm 1995) lên 185.700 mẫu nh hiện nay, tập trung chủ yếu ở bốn bang
miền nam, chiếm 90 % sản lợng cá nheo nuôi ở Mỹ, đó là những bang
Mississipi, Alabama, Arkanssass và Louisiana. Do đó, giá cá giống giảm và chi
phí giảm theo.
Thứ ba, số lợng cá thơng phẩm cha thu hoạch đầu tháng 7/2001 là
370.000.000 con, tăng 30% so với cùng kì. Số lợng cá bột, cá giống khoảng 2.6

21
tỷ con, tăng lên 1%. Điều đó cũng làm cho xu hớng giảm giá thành phẩm cũng rõ
rệt.
Thứ t, giá của sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với cá nheo nuôi là thịt gà
giảm mạnh do giá thức ăn giảm và sản lợng tăng. Giá thịt gà trung bình năm
2001 là 33 cent/1 pound, giảm 6cent/pound so với giá trung bình các năm 1993
đến 1998 và giảm 1 cent so với giá trung bình các tháng đầu năm nay. Do đó, để
cạnh tranh đợc với mặt hàng này, giá cá nheo buộc phải giảm, nếu không, sản
lợng cá tiêu thụ trên thị trờng Mỹ chắc chắn sẽ giảm sút.
Nh vậy có thể kết luận rằng, việc tăng nhập khẩu cá da trơn Việt Nam
không phải là nguyên nhân giảm giá bán và lợng tiêu thụ sản phẩm cá nheo nuôi
nội địa của Mỹ. Trên thực tế, sản lợng cá da trơn Việt Nam nhập khẩu vào thị
trờng Mỹ chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ. Giá giảm chỉ là một hiện tợng kinh tế, là
diễn biễn bình thờng theo chu kì phát triển, do các nguyên nhân của sản xuất và
tiêu thụ của chính thị trờng Mỹ gây ra.
II. Những định hớng nhằm xây dựng và giải quyết vấn đề thơng hiệu cho cá
basa

1. Thống nhất tên gọi cho cá tra, basa
Trong tháng 1/2002, sau khi xảy ra cuộc tranh chấp thơng mại Việt-Mỹ đầu
tiên về cá da trơn, để giữ vững thị trờng, Hiệp hội chết biến và Xuất khẩu thuỷ
sản Việt Nam và đại diện các thành viên Câu lạc bộ Sản xuất và Xuất khẩu cá tra,
cá basa đã họp bàn và quyết định thống nhất tên gọi thơng mại cho cá da trơn
Việt Nam là basa. Lô hàng 100 tấn cá da trơn mang tên Basa đã đợc xuất khẩu
sang Mỹ. Tuy nhiên để cạnh tranh thành công trên thị trờng Mỹ, các nhà chế
biến cá basa, cá tra Việt Nam cần có một chiến lợc tiếp thị và xây dựng thơng
hiệu có bài bản.
2. Duy trì và phát triển thơng hiệu cá basa
Thứ nhất, thiết lập một biểu tợng, khẩu hiệu đi kèm với tên gọi basa, bởi
biểu tợng là một tín hiệu mang tính điển hình hoá cao, có quy cách chặt che, cô

đọng đợc cấu tạo bằng chữ, kí hiệu, hình ảnh có cấu trúc nghiêm ngặt. Ví dụ,
22
biểu tơng ngôi sao ba cánh của Mercedes. Xây dựng cho cá basa một biểu tợng
điển hình, để khi nhìn vào đó ngời tiêu dùng có thể nghĩ ngay tới tên gọi của
basa, đồng thời liên tởng tới chất lợng ngon của cá.
Đôi khi để làm mạnh thêm ảnh hởng của thơng hiệu trong nhận thức của
khách hàng, hỗ trợ cho chiến lợc định vị của nhãn, doanh nghiệp thờng bổ sung
khẩu hiệu gắn với nhãn. Tính pháp lý trong khẩu hiểu của mỗi nhãn thờng yếu
hơn so với tên gọi và biểu tợng của thơng hiệu. VD
Thơng hiệu Khẩu hiệu
Vinamilk
Unilever
AT&T
Dream
Microsoft
Sức khoẻ và trí tuệ
Phục vụ thế giới ngời tiêu dùng
Sựa lựa chọn đúng đắn
Không ngừng mơ ớc
Chúng tôi nỗ lực hơn nữa
Do vậy, việc có một khẩu hiệu hợp lí đi kẻm cùng với tên gọi, biểu tợng
cho basa sẽ là một đặc trng riêng cho sản phẩm này.
Thứ hai, khuyến khích gia tăng việc sử dụng sản phẩm
Thông qua những hoạt động tuyên truyền, khích sử dụng, hớng dẫn sử dụng
chi tiết sản phẩm, làm cho việc sử dụng và quá trình mua sắm, tìm kiếm sản
phẩm dễ dàng hơn, tăng cờng các hoạt động khuyến mại, quảng cáo nhằm nhắc
nhở khách hàng sử dụng sản phẩm.
Tăng sản lợng ngày càng nhiều để thay thế cho các loại cá thịt trắng khác
gía cao hơn cá Basa Việt Nam tại thị tròng Mỹ và chấp nhận lợi nhuận thấp. Ph-
ơng pháp này chỉ yêu cầu một chiến lợc tiếp thị tối thiểu với chi phí tiếp thị rất ít

nhng nếu sản lợng tiếp tục gia tăng thì gía sẽ xuống dới mức giá thành sản xuất
là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, doanh nghiệp có thể tiến hành những cuộc nghiên cứu hành vi ng-
ời tiêu dùng, các hoạt động của phòng nghiên cứu và phát triển, qua các chuyên
gia t vấn để có thể khám phá những công dụng mới của cá basa.
23
Thứ t, các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hợp tác bán hàng có tổ chức chặt
chẽ, lợi nhuận có thể sẽ đạt đợc cao hơn với những nỗ lực tiếp thị chung đợc phối
hợp tốt bởi các nhà chế biến cá basa Việt Nam. Họ cần giới thiệu, hớng dẫn ngời
tiêu dùng Mỹ bằng nhiều phơng tiện với những chiến dịch tiếp nối nhau, liên hệ,
trao đổi tốt hơn vói nhà Nhập khẩu, nhà phân phối tại Mỹ và tất nhiên là phải tốn
tiền. Việc xây dựng thơng hiệu tốt và chất lợng sản phẩm ổn định sẽ cải thiện khả
năng tiếp thị và bán đợc giá ngày càng cao hơn, thí dụ giá cá tuyết (cod-fish) của
Iceland đang bán tại Mỹ cao hơn 0.5USD/pound so với cá tuyết nhập khẩu từ các
nớc khác chính là nhờ thơng hiệu và chất lợng ổn định. Các nhà xuất khẩu Việt
Nam cần hợp tác bán hàng vào Mỹ có tổ chức, cùng nhau đóng tiền lập ra một
quỹ tiếp thị chung, mở văn phòng đại diện tại Mỹ. Văn phòng này sẽ nhập khẩu
trực tiếp từ Việt Nam và tiến đến có thể đáp ứng đợc yêu cầu của các khách hàng
lớn hơn tại Mỹ và cung cấp với sản lợng lớn ngay lập tức ngay tại thị trờng
Mỹ. Những điều này sẽ giảm cạnh tranh trong bán hàng, không bán phá giá lẫn
nhau và sẽ tạo ra mức giá cao hơn, lợi nhuận tốt hơn.
Thứ năm, nếu chúng ta chỉ dựa vào thị trờng Mỹ, mức độ rủi ro gặp phải
sẽ rất cao. Do vậy, cần phải mở thêm thị trờng mới.
III. Những giải pháp cho sản phẩm Việt Nam với luật chống phá giá của Mỹ
1. Đối với chính phủ Việt Nam
Chính phủ nên nhanh chóng ban hành luật chống phá giá của Việt Nam
để khi các doanh nghiệp nớc ngoài xuất khẩu hàng hoá vào thị trờng Việt Nam
có dấu hiệu bán phá giá, làm nguy hại đến thị trờng nội bộ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc chiến chống bán phá giá
bằng nhiều bịện pháp, đặc biệt là thông qua Bộ thơng mại và Bộ ngoại giao.

2. Đối với hiệp hội cá da trơn Việt Nam
Tăng cờng mối quan hệ với nớc ngoài để có thể mở rộng thị trờng tiêu
thụ. để làm đợc điều này một cách có hiệu quả, phải liên hệ với các cơ quan đại
diện của ta ở nớc ngoài thông qua Đại sứ quán, đặc biệt là các tham tán thơng
mại.
24
Thờng xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về cá da trơn cho các
doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này, để từ đó nêu ra đợc những ý kiến đóng góp,
hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, rút ra đợc kinh nghiệm cho từng doanh nghiệp cụ thể.
3. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Chúng ta cũng nhận thấy rằng, việc các doanh nghiệp Việt Nam thờng thua
thiệt khi xuất khẩu hàng hoá ra nớc ngoài là do họ còn thiếu hiểu biết về luật th-
ơng mại quốc tê. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải nắm vững luạt pháp, hiểu
biết về lực lợng kinh tế, chính trị tác động đến thị trờng tiêu thụ.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lu trữ tài liệu một cách khoa học để có
thể đa ra lời giải đáp nhanh nhất khi bị kiện chống phá giá. Chất lợng đối với sản
phẩm có một ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp, do đó phải thờng xuyên
liên hệ với các cơ quan y tế có thẩm quyền để xác định sản phẩm mình làm ra có
đạt tiêu chuẩn tốt hay không. Họ phải thờng xuyên liên lạc mật thiết với hiệp hội
doanh nghiệp để cập nhật thông tin, có nh vậy mới có thể tồn tại và phát triển.
Việc cải tiến kỹ thuật phải đợc thờng xuyên nghiên cứu, có nh vậy, doanh
nghiệp mới không bị lạc hậu, mới có thể cạnh tranh đợc với các doanh nghiệp
khác.
Kết luận
Nh vậy,thơng hiệu có những giá trị lợi ích lớn mà không phải bất cứ một
yếu tố nào cũng có thể mang lại và cũng không phải bất cứ một sản phẩm nào
cũng có thể có đợc. Nhng với một nền kinh tế đang trong thời kì phát triển và đổi
mới nh nớc ta hiện nay, không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có thể
nhận ra điều này. Và việc đánh giá thơng hiệu cũng cực kì phức tạp với bản chất

vô hình và tơng lai của nó.
Theo dòng thời gian, vụ tranh chấp về thơng hiệu đã đợc phía Việt Nam
chủ động một hớng đi đúng đắn. Chúng ta đã thống nhất đặt tên gọi basa.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải nỗ lực bằng nhiều cách để duy trì và phát triển
thơng hiệu basa một cách vững mạnh. Đó là một tiền đề vô cùng quan trọng để
25

×