Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

bảo hiểm xe cơ giới tại tổng công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.7 KB, 84 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành
tựu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu
hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh
vực trong đó không thể không nói tới bảo hiểm - một lĩnh vực hết sức nhạy
cảm ở Việt Nam. Chúng ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa,
khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt,
cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Chính vì lẽ đó mà các Công
ty bảo hiểm muốn có bước đột phá thành công thì phải luôn nổ lực hết mình,
phải tạo dựng được niềm tin đối với khách hàng và một điều quan trọng hơn
hết đó là phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo và phát triển sản phẩm mới
nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày một cao của khách hàng. Từ khi ra đời
cho tới nay, PJICO luôn đặt mục tiêu phát triển lên hàng đầu, và kết quả của
ngày hôm nay là một minh chứng cho điều đó.
Bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ chủ chốt của PJICO,
đóng góp phần lớn trong tổng doanh thu toàn công ty. Thực tế cho thấy qua
thời gian thực hiện, triển khai, nghiệp vụ này đã trở thành nghiệp vụ nòng
cốt không thể thiếu trong chiến lược phát triển của công ty.
Nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới,
em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty cổ
phần bảo hiểm Petrolimex, thực trạng và giải pháp ”
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xe cơ giới


1

Chương 2: Thực trạng bảo hiểm xe cơ giới tại Tổng công ty Cổ phần bảo
hiểm Petrolimex


Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài của em không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em mong nhận được sự đánh giá và góp ý của thầy cô giáo
để đề tài của em hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Định đã hướng dẫn
em tận tình trong suốt thời gian thực tập cũng như giúp đỡ em hoàn
thành đề tài đã chọn!


2

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XE
CƠ GIỚI
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm xe cơ giới
1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới
Điều 623 Bộ luật dân sự thay thế,sửa đổi và bổ sung năm 2005 liệt kê nguồn nguy
hiểm cao độ trong đó có phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm có phương
tiện tham gia giao thông đường hàng không, đường thuỷ, đường sắt và đường bộ.Và
loại phương tiện tham gia giao thông đường bộ có tần suất hoạt động tham gia giao
thông nhiều dẫn đến xác suất xảy ra tai nạn là rất lớn, đó là phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ(gọi là xe cơ giới). Là phương tiện vận chuyển cơ động và tham gia
triệt để vào quá trình vận chuyển, xe cơ giới hoạt động phần lớn trong các khu vực
dân cư đông đúc và những vùng kinh tế tập trung nhiều loại tài sản và hàng hoá. Do
đó, nó thường gây ra những sự cố rủi ro tai nạn như đâm va, cháy, nổ, lật xe gây
thiệt hại rất lớn về người và tài sản cho chính chủ phương tiện và những người khác
cùng tham gia giao thông, cũng như cho xã hội.
Trong thời đại hiện nay,khi khoa học – kỹ thuật ngày càng phát triển, để phục vụ
cho nhu cầu đi lại bằng phương tiện giao thông ngày càng tăng, thì con người đã

phát minh và sản xuất ra nhiều loại phương tiện hiện đại và tối tân hơn, chất lượng
tốt hơn, tốc độ lớn hơn và an toàn hơn. Trên thực tế cho thấy, mặc dù các phương
tiện rất hiện đại, chất lượng và an toàn như đã nêu ở trên tham gia giao thông đường
bộ trên những tuyến đường được nâng cấp, làm mới rất hiện đại với mặt đường, cầu
rộng rãi, chất lượng tốt, với hệ thống chiếu sáng, đèn hiệu, biển báo hiệu giao thông
hiện đại. Song tai nạn giao thông vẫn cứ xảy ra với nhiều vụ xảy ra gây thiệt hại
nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.


3

Tai nạn giao thông xảy ra do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như do
ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông thấp, do việc quản lý các phương tiện
giao thông của chính phủ về tiêu chuẩn, điều kiện cho phương tiện lưu hành, do khí
hậu, do chất lượng các công trình giao thông không tốt và do nhiều nguyên nhân
khác.
Bảng 1: Sự gia tăng phương tiện giao thông cá nhân ở Việt Nam (2003- 2007)
Năm 2003 2004 2005 2006 2007
Số ô tô 675 000 774 824 891 104 1 026 512 1 183 260
Số gắn máy 11 379 000 13 375 992 16 086 644 18 901 206 22 350 676
(Nguồn: Báo cáo của uỷ ban an toàn giao thông)
Theo thống kê cho thấy, số lượng xe cơ giới ngày một tăng, điều đó đi đôi với sự gia
tăng tai nạn giao thông ngày càng nhiều. Điều đó tất yếu gây ra những hậu quả và
tổn thất nặng nề.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy bảo hiểm xe cơ giới đóng vai trò rất quan trọng
trong đời sống xã hội. Nó giúp cho các chủ phương tiện giảm bớt gánh nặng về mặt
kinh tế khi không may xảy ra tai nạn rủi ro,giúp cho họ trang trải các khoản chi phí
khi gây ra tổn thất,thiệt hại về người và tài sản cho bên thứ ba cùng tham gia giao
thông với những chi phí đôi khi còn lớn hơn giá trị thực của chính chiếc xe tham
gia, cũng như giúp họ trang trải chi phí sữa chữa ,bù đắp cho chính chiếc xe tham

gia bảo hiểm và cho những người sử dụng và tham gia giao thông trên chính chiếc
xe đó.Bên cạnh đó,từ quỹ tài chính bảo hiểm do các chủ phương tiện đóng góp từ
khoản phí bảo hiểm còn được sử dụng một phần vào việc nâng cấp các tuyến đường
giao thông,làm các biển báo giao thông, đường lánh nạn, đóng góp vào các quỹ từ
thịên….vv
1.2 Vai trò của bảo hiểm xe cơ giới


4

Có thể thấy,sự tồn tại của rủi ro cùng hậu quả gây ra thiệt hại cho con người,huỷ
hoại của cải vật chất,làm ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động
khác là cội nguồn phát sinh bảo hiểm.Gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội của các
quốc gia,hoạt động của bảo hiểm ngày càng đa dạng.Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm
xe cơ giới đóng một vai trò quan trọng cho sự an toàn xã hội.
Thứ nhất,giúp ổn định tình hình tài chính của chủ phương tiện khi không may rủi ro
được bảo hiểm xảy ra.
Khi tham gia giao thông tất nhiên ai cũng mong muốn rủi ro không xảy ra với
mình,gây thiệt hại cả về người và của.Nhưng rủi ro lại không loại trừ bất kỳ ai,nhiều
khi chỉ là do sơ suất bất cẩn khiến chủ phương tiện rơi vào tình thế bị động.Tình
trạng này sẽ được khắc phục nếu như chủ xe tham gia bảo hiêmr xe cơ giới và sau
khi đóng một khoản phí nhất định để xây dựng quỹ bảo hiểm thì đến khi rủi ro xảy
ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về mặt tài chính cho chủ phương
tiện,bao gồm cả thiệt hại gây ra cho người thứ ba và vật chất thân xe tuỳ theo loại
hình chủ xe tham gia.cần phải lưu ý rằng ,công ty bảo hiểm chỉ bồi thường trong hạn
mức trách nhiệm (đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và số tiền bảo hiểm(đối với
bảo hiểm vật chất xe) để tránh những trục lợi từ phía khách hàng.Như vậy tham gia
bảo hiểm xe cơ giới tạo tâm lý yên tâm,thoải mái,tự tin khi điều khiển các phương
tiện tham gia giao thông; số tiền bồi thường cũng góp phần ổn định tình hình tài
chính và tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện giúp họ nhanh chóng thoát

khỏi tình trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu,làm giảm bớt căng
thẳng giữa chủ xe và người bị nạn.Ngoài ra,mục đích cao cả trong nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là bảo hiểm thay
mặt chủ xe bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách nhanh chóng,kịp thời
mà không phụ thuộc vào tài chính của chủ xe giúp cho người thứ ba ổn định cả về
mặt tài chính và về mặt tinh thần.


5

Thứ hai,tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm
Hơn bao giờ hết kinh tế Việt Nam đang có những biến chuyển to lớn về cả chất và
lượng,Nhà nước không ngừng khuyến khích mọi thành phần kinh tế đặc biệt là tư
nhân tham gia vào guồng máy kinh doanh sản xuất chung nhằm tận dụng nguồn tài
chính nằm trong dân, đưa nguồn vốn nhàn rỗi này ra sản xuất kinh doanh sinh lời.
Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức mạnh,vị thế của doanh
nghiệp,vì thế mà trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải tự dự trữ một
khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ thì quả là sự lãng phí
lớn. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít phương tiện đã vậy, đặc biệt là với
các doanh nghiệp có quy mô lớn ,số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm
một tỷ kệ lớn và rất khóa xác định trong nguồn vốn kinh doanh.
Các khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm xe cơ
giới,công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số
đông bù số ít”. Lúc này thay vì phải tự thành lập riêng một quỹ cho doanh nghiệp thì
các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các
thành viên khác cùng đóng góp.
Thứ ba,góp phần đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông .
Với số phí thu được từ các chủ xe tham gia,công ty bảo hiểm lập những quỹ ngoài
mục đích chính là để bồi thường cho các xe nếu rủi ro xảy ra còn được sử dụng cho
mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ

thống cơ sở hạ tầng còn thấp như tại các đèo,dốc nguy hiểm (ví dụ như: đèo Cả, đèo
Cù Mông…) đã được các công ty bảo hiểm lớn là Bảo Việt,PJICO hỗ trợ đầu tư
hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ,hốc cứu nạn…hàng năm cứu
thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng.
Ngoài ra các công ty cũng khuyến khích chủ xe tự thực hiện các biện pháp đề phòng
hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ an toàn


6

giao thông, đặc biệt công ty còn giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe
không gặp phải bất kỳ sự cố nào. Như vậy việc tham gia bảo hiểm rõ ràng có tác
dụng đề phòng hạn chế tổn thất góp phần ổn định đời sống xã hội.
Thứ tư,góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước.
Mức sống ngày được nâng lên, số lượng các phương tiện cơ giới tăng mạnh, đồng
thời giá trị của từng chiếc xe cũng tăng cao.
Hơn nữa, khi các điều kiện sống đầy đủ, trình độ dân trí cao thì nhu cầu tự bảo vệ
cho bản thân, gia đình,tài sản lại càng được nâng cao.Vì thế triển vọng của nghiệp
vụ xe cơ giới là rất lớn và nguồn thu từ nghiệp vụ này không phải là ít, nó sẽ góp
phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công
ty bảo hiểm. Và ngược lại Chính phủ có thể sử dụng ngân sách Nhà nước phối hợp
với các doanh nghiệp bảo hiểm khác đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ
sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu đi lại của người dân từ đó góp phần nâng
cao chất lượng đời sống dân cư.
Như vậy vai trò, tác dụng của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là rất lớn, mang ý
nghĩa tích cực, nhân đạo sâu sắc và việc triển khai nghiệp vụ này là rất cần thiết.
2/ Các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm mà nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được chia thành
một số sản phẩm sau:
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba

• Bảo hiểm vật chất xe
• BHTNDS của chủ xe đối với hàng hoá chở trên xe.
• Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe.
• Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe


7

• Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe.
Trong các nghiệp vụ trên thì nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối
với người thứ ba và bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới là hai nghiệp vụ trọng tâm
góp phần hỗ trợ tích cực cho người tham gia bảo hiểm khi bị tai nạn đồng thời cũng
đem lại doanh thu lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Trong cuộc sống hàng ngày mỗi cá nhân,tổ chức đều phải chịu trước pháp luật về
hành vi của mình, nếu hành vi bất cẩn đó gây thiệt hại cho người khác thì cá nhân,
tổ chức đó phải chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại do mình gây ra. Thực tế không chỉ
trong bảo hiểm xe cơ giới mới có BHTNDS mà còn tồn tại rất nhiều loại hình
BHTNDS khác: bảo hiểm trách nhiệm dân sự sản phẩm, TNDS của chủ sử dụng lao
động. Vì vậy loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự rất phổ biến và có vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội. BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba cũng là dạng BHTNDS vì thế nó cũng có đầy đủ các đặc điểm bảo hiểm trách
nhiệm.
Thứ nhất, đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng. Vì đối tượng của bảo hiểm
trách nhiệm là phần trách nhiệm pháp lý phát sinh phải bồi thường trách nhiệm dân
sự tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Phần trách nhiệm này chưa xác định bởi vì nó
chưa xảy ra chỉ khi trách nhiệm dân sự phát sinh thì mới biết giá trị cụ thể của trách
nhiệm là bao nhiêu.
Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm chỉ có một rủi ro duy nhất là khi pháp luật quy định
đã phát sinh trách nhiệm dân sự.

Thứ ba, bảo hiểm trách nhiệm thường áp dụng dưới hình thức bắt buộc. Mục đích
ngoài việc ổn định tài chính cho người được bảo hiểm còn bảo vệ quyền lợi cho phía


8

nạn nhân (vì có những thiệt hại xảy ra vượt quá khả năng tài chính của chủ phương
tiện ).
Thứ tư là, bảo hiểm trách nhiệm thường chỉ giới hạn ở một mức trách nhiệm nhất
định, hay nói cách khác công ty bảo hiểm thường giới hạn trách nhiệm của mình bởi
số tiền bảo hiểm.
2.1.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
 Đối tượng bảo hiểm:
Người tham gia bảo hiểm thông thường là các chủ xe,có thể là cá nhân hay đại diện
cho một tập thể.Người bảo hiểm chỉ nhận cho phần BHTNDS của chủ xe phát sinh
do hoạt động điều khiển xe cơ giới của lái xe.Như vậy, đối tượng bảo hiểm là trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba là phần trách nhiệm đươc xác định như sau:
Số tiền bồi thường
TNDS =
Mức độ
lỗi *
Thiệt hại thực tế
của bên thứ ba
Tuy nhiên số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự luôn phụ thuộc vào quyết định cuối
cùng của toà án nếu như hai bên không thỏa thuận được.Vậy đối tượng không được
xác định trước, chỉ khi nào xảy ra tai nạn mới xác định được một cách cụ thể.
Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba:
• Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba.
• Chủ xe phải có hành vi gây thiệt hại về người hoặc tài sản cho bên thứ ba

(hành vi này có thể là vô tình hay cố tình ) mà lái xe vi phạm luật an toàn giao
thông đường bộ hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước,cũng có thể là rủi
ro về mặt kỹ thuật mà chủ xe không lường trước được.


9

• Phải có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe với những
thiệt hại của người thứ ba.
• Phải có khiếu nại của bên thứ ba.
Người thứ ba có thể là người đi bộ hay người đi xe đạp hoặc các phương tiện cơ giới
khác, đường sá hoa màu…nhưng không bao gồm các trường hợp sau:
+ Lái phụ xe,người làm công cho chủ xe
+ Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ,vợ con…
+ Hành khách những người có mặt trên xe
+ Thiệt hại xảy ra do bản thân phương tiện gây ra
+ Thiệt hại về tình trạng sức khỏe xảy ra do bản thân người điều khiển xe
+ Các khoản phạt mà lái xe hay phụ xe phải chịu.
 Phạm vi bảo hiểm:
Trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba,các thiệt hại nằm trong
phạm vi trách nhiệm của người được bảo hiểm bao gồm:
• Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sứ khỏe của bên thứ ba.
• Thiệt hại về hàng hóa,tài sản của bên thứ ba.
• Thiệt hại về tài sản là ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh hoặc làm giảm thu
nhập.
• Các chi phí cần thiết và hợp lý để ngăn ngừa và hạn chế thiệt hại, các chi phí
thực hiện các biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không
mang lại hiệu quả)
• Những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người tham gia cứu chữa, ngăn
ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.



10

Tuy nhiên người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ
tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau:
• Tai nạn do hành động cố ý của chủ xe,lái xe và người bị thiệt hại.
• Xe không đủ điều kiện an toàn kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao
thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
• Chủ xe lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành,giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi
trường
+ Lái xe không bằng lái.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như :rượu ,bia ,ma túy
+ Xe chở chất cháy,chất nổ trái phép
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép,chạy thử sau khi sữa chữa
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
+ Xe không có hệ thống lái bên phải
• Thiệt hại do chiến tranh
• Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh
• Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
• Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra,người bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như
vàng bạc đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm….
2.1.2 Mức trách nhiệm bảo hiểm
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền cao nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể trả
cho mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như ta đã biết thiệt hại TNDS



11

chưa thể xác định ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm nó có thể là không đáng kể
có thể là rất lớn.Vì vậy một mặt để nâng cao trách nhiệm của người tham gia,mặt
khác để đảm bảo chi trả bảo hiểm cho người tham gia nên công ty bảo hiểm đã đưa
ra các giới hạn nhất định đối với mức bồi thường tối đa để người tham gia bảo hiểm
tự lựa chọn. Tức là công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại TNDS phát
sinh mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm đã xác định ra khi tham gia.
Số thiệt hại còn lại thì chủ xe hoặc lái xe bồi thường cho người thứ ba.
Hiện nay, Bộ tài chính ban hành quyết định 23 Bảo hiểm Bắt buộc TNDS của chủ
xe cơ giới thì mức TNDS bắt buộc mà chủ xe tham gia là :
+ Đối với xe mô tô:
Về người: 30 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản: 30 triệu đồng / vụ
+ Đối với xe ô tô:
Về người : 50 triệu đồng / người / vụ
Về tài sản : 50 triệu đồng / vụ
2.1.3 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho công ty bảo hiểm để hình
thành nên một quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm
nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm. Có thể coi phí bảo hiểm là giá cả của của sản
phẩm bảo hiểm nên nó có thể tăng giảm như các sản phẩm khác.
Biểu phí nghiệp vụ BHTNDS do Bộ Tài Chính quy định ngoài ra doanh nghiệp có
thể thoả thuận với chủ xe cơ giới để đảm bảo biểu phí cao hơn hoặc phạm vi bảo
hiểm rủi ro bảo hiểm rộng hơn theo quy tắc bảo hiểm. Phí bảo hiểm tính cho mỗi
đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P = f + d


12


Trong đó : P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện
f – Phí thuần
d - Phụ phí
2.2 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới là một loại hình bảo hiểm tài sản có đối tượng bảo
hiểm là thiệt hại vật chất của xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ ngoài sự kiểm soát
của chủ xe trong những trường hợp cụ thể do quy tắc bảo hiểm quy định.
2.2.1 Đối tượng và phạm vi bảo hiểm:
 Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm ở đây là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu
hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia.
Để xác định xe cơ giới người ta dùng các tiêu thức sau:
• Xe cơ giới được gắn với động cơ ( khác với xe không có động cơ như:xe
đạp,xe thồ ,xe súc vật kéo)
• Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn(khác với tàu hoả ,xe
điện)
• Xe cơ giới phải có tối thiểu 1 chỗ cho người điều khiển
Như vậy,xe cơ giới bao gồm nhiều loại xe: ô tô, mô tô, xe chở hàng, xe chuyên dụng
khác.
Để được xét trở thành đối tượng bảo hiểm,xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện
về mặt kỹ thuật,pháp lý cho sự lưu hành, được cơ quan thẩm quyền cấp giấy đăng
ký xe,biển kiểm soát,giấy phép lái xe,giấy kiểm đinh an toàn kỹ thuật và môi
trường.
Có những quy định về điều kiện kỹ thuật vì:


13

+ Xuất phát từ nguyên tắc trong bảo hiểm đó là chỉ bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu

nhiên. Vì vậy, nếu xe cơ giới tham gia bảo hiểm mà không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật thì
có thể không được chấp nhận.
+ Công ty Bảo hiểm cũng như các công ty sản xuất kinh doanh khác luôn chấp hành
theo đúng quy định và luật pháp của Nhà nước. Nếu công ty bảo hiểm chấp nhận
bảo hiểm bảo hiểm cho xe cơ giới không đủ các điều kiện về mặt pháp lý(không có
giấy đăng ký xe, bằng lái, không có biển kiểm soát đối với xe đã lưu hành lâu rồi)
thì vô hình dung là một sự tiếp tay cho hành vi phạm pháp;còn đối với những xe
mới chưa có biển kiểm soát, chưa đi đăng ký vẫn được tham gia bảo hiểm vì bảo
hiểm chỉ cần dựa vào số khung và số mã.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật xe cơ giới được chia thành các tổng thành sau:
+ Tổng thành thân vỏ: Có 3 nhóm
 Thân vỏ,ca bin,ga lăng,toàn bộ vỏ kim loại.
 Ghế đệm nội thất :toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc cầm,các trang thiết bị điều hoà
nhiệt độ,quạt dài.
 Sắt xi:gồm khung,tổng bơm,phanh,các bình chứa nguyên liệu.
+ Tổng thành động cơ: (động cơ,bộ chế hoà khí,bơm cao áp,bộ phận lọc gió)
Tổng thành hệ thống lái ( vô lăng,trục tay lái…)
Tổng thành hộp số : (Hộp số chính,hộp số phụ,hệ thống dẫn trục các loại)
Tổng thành trục trước : ( dầm cầu,trục láp.hệ thống treo nhíp,cơ cấu phanh,xi lanh
phanh)
Tổng thành trục sau :
Tổng thành lốp : bộ phần săm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả lốp dự trữ)
Trên cơ sở đó,người ta tham gia bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc
là tham gia bảo hiểm từng bộ phận xe. Trong đó tổng thành thân vỏ xe chiếm tỷ


14

trọng lớn nhất cũng như chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của tai nạn, rủi ro.
Chính vì thế mà các công ty bảo hiểm Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ

xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
 Phạm vi bảo hiểm
Là giới hạn những rủi ro mà theo thoã thuận nếu những rủi ro đó xảy ra người bảo
hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất.
 Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ những thiệt hại vật chất của
xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe trong
những trường hợp sau:
 Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của chủ xe,lái xe: đâm
va,lật đổ.
 Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác:hoả hoạn,cháy nổ.
 Rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: bão,lũ lụt,sét đánh,động đất.
 Rủi ro khách quan có nguồn gốc “ xã hội”:mất cắp, đập phá…Tuy nhiên ở
Việt Nam thì áp dụng một nguyên tắc chung là nếu mất cắp bộ phận thì không giải
quyết chỉ mất cắp toàn bộ xe mới thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
 Tai nạn rủi ro bất ngờ khác ngoài những điểm loại trừ.
Ngoài ra,doanh nghiệp bảo hiểm còn thanh toán những chi phí cần thiết và hợp lý
phát sinh trong tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm ngăn ngừa,hạn
chế tổn thất phát sinh thêm bảo vệ và đưa xe thiệt hại đến nơi sữa chữa gần
nhất,giám định tổn thất.
Trong mọi trường hợp,tổng số tiền bồi thường trong một vụ tai nạn không vượt quá
số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bảo hiểm Vật chất xe cơ giới không phải là loại hình bảo hiểm bắt buộc trực tiếp
theo quy định của Luật giao thông đường bộ.


15

Nghị quyết 332/HĐBT ngày 23/10/1991 được cụ thể hóa bằng Thông tư số
82TC/CN ngày 31/12/1991 của Bộ Tài chính đã quy định rõ: “để tránh các trường
hợp không bảo toàn được vốn do những nguyên nhân khách quan,thiên tai, địch

họa,rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải mua bảo
hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại công ty Bảo hiểm Việt
Nam. Khoản chi về phí bảo hiểm được hạch toán vào giá thành, hoặc phí lưu thông
của doanh nghiệp”.
Hiện nay, trên lãnh thổ của Việt Nam đang triển khai các hình thức vật chất thân xe
cơ giới như sau:
 Bảo hiểm theo giá trị thực tế của xe:
Giá trị thực tế của xe là giá trị thực thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm
xe tham gia bảo hiểm.
Theo phạm vi đối tượng bảo hiểm có thể chia làm 2 loại:
+ Bảo hiểm toàn bộ xe: đối tượng bảo hiểm là toàn bộ xe cơ giới với đầy đủ
các bộ phận tổng thành của xe như:thân vỏ xe,tổng thành động cơ,hệ thống truyền
lực,hệ thống điều khiển,hệ thống phanh…
+ Bảo hiểm bộ phận thân vỏ xe: đối tượng được bảo hiểm chỉ là phần thân vỏ
xe.Những bộ phận tổng thành khác không thuộc thân vỏ xe bao gồm:tổng thành
động cơ,tổng thành hộp số,tổng thành cầu trước,cầu sau,hệ thống lái,hệ thống các
bánh xe thì chủ xe tự gánh chịu nếu có tổn thất phát sinh .Trong bảo hiểm bộ phận
xe,các doanh nghiệp chỉ nhận bảo bảo hiểm thân vỏ xe,không nhận bảo hiểm riêng
các bộ phận khác của xe.
 Bảo hiểm dưới giá trị: giá trị xe tham gia bảo hiểm thấp hơn giá trị thực tế
của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Trường hợp này,nếu xe bị tổn thất bộ phận
thì số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ phần trăm giữa giá trị xe tham gia bảo


16

hiểm và giá trị thực tế của xe. Nếu xe bị tổn thất toàn bộ thì bồi thường toàn bộ giá
trị xe tham gia bảo hiểm.
 Các điều khoản mở rộng: Đây chính là yếu tố cạnh tranh của các công ty bảo
hiểm. Tuỳ từng công ty mà có những điều khoản bổ sung hợp lý.

2.2.2 Số tiền bảo hiểm
STBH là khoản tiền nhất định ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo
hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc bồi thường
hoặc trả tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là giá trị bằng tiền của tài sản. Nó thường được xác định bằng giá
trị thực tế của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Cách thức chọn bảo hiểm toàn
bộ hay bộ phận xe sẽ chi phối việc thoả thuận về số tiền bảo hiểm của hợp đồng.
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao
Đối với việc bảo hiểm toàn bộ xe, STBH dựa vào việc xác định giá trị bảo hiểm xe.
Giá trị của xe là giá trị thực tế của xe vảo thời điểm tham gia ký kết hợp đồng. Thực
tế, việc đánh giá giá trị bảo hiểm của xe là rất phức tạp, ở nước ta hiện nay phần lớn
xe đã qua sử dụng, sữa chữa tân trang. Cộng thêm việc kê khai của các chủ xe chưa
thật sự chính xác. Vì vậy cán bộ khai thác, cần phải nhạy bén với thông tin về giá cả
các loại xe trên thị trường, cần phải thường xuyên kết hợp với các chuyên viên mới
có thể định ra giá trị bảo hiểm hợp lý, tránh tối đa trường hợp bảo hiểm trên giá trị
dẫn đến hậu quả bất lợi cho hai bên.
Bảo hiểm xe bộ phận (thân vỏ hoặc 1 trong các tổng thành) STBH được định trên cơ
sở giá trị bảo hiểm toàn bộ xe và tỷ lệ phần trăm về phần giá trị của bộ phận đó trên
giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này được người bảo hiểm quy định đối với từng loại xe).


17

Bảo hiểm dưới giá trị cũng được các công ty bảo hiểm chấp nhận. Tuy nhiên phải
kèm theo quy định về tỷ lệ tối thiểu ( tỷ lệ % giữa STBH và giá trị bảo hiểm) và việc
áp dụng quy tắc bồi thường theo tỷ lệ.
2.2.3 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ phương tiện khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ
giới phải đóng cho công ty bảo hiểm.Các Công ty Bảo hiểm tiến hành thu phí theo
biểu phí của Bộ Tài Chính quy định.

Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định bằng tỷ
lệ phí nhân với số tiền bảo hiểm.
P = S
b
x R
Trong đó:
S
b
: Số tiền bảo hiểm
R : Tỷ lệ phí bảo hiểm
Phí cũng được xác định cho mỗi đầu xe có cả phí ngắn hạn và phí dài hạn. Thông
thường phí tính trong một năm và phí ngắn hạn thường chỉ vài tháng, phí dài hạn
bao giờ cũng bằng hoặc lớn hơn một năm
Phương pháp tính phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới của nhiều công ty bảo
hiểm lớn nhất trên thế giới luôn dựa vào những yếu tố cơ bản sau:
Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe
+ Loại xe : (xác định bởi nhãn mác,năm sản xuất):liên quan đến trang thiết bị an
toàn,giá cả,chi phí sữa chữa,phụ tùng thay thế
+ Phạm vi và địa bàn hoạt động: đây không phải là phương pháp tốt nhất để dựa vào
đó mà tính phí bảo hiểm vì công ty bảo hiểm không biết chắc xe sử dụng tại đâu. Dù
sao đây cũng là tiêu chuẩn của nhiều đơn bảo hiểm và một số công ty bảo hiểm vẫn
có cách xác định tỷ lệ phí dựa theo khu vực là rất phức tạp


18

+ Mục đích sử dụng xe : đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó
giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra.Xe được điều khiển bởi
một người lớn tuổi, đã về hưu và lưu thông với mục đích thông thường thì sẽ gặp rủi
ro hơn những người có xe với mục đích kinh doanh,lưu thông trên một khu vực rộng

lớn,thường xuyên. Xe càng lưu hành nhiều thì mức độ, xác suất xảy ra tai nạn càng
lớn
Ở Việt Nam thì tính phí bảo hiểm lại căn cứ vào một số tiêu thức sau:
+ Loại xe, đời xe, năm sử dụng…để có được giá trị thực tế của xe tham gia bảo
hiểm.
+ Mục đích sử dụng của xe : Phân làm hai loại là xe kinh doanh và xe không kinh
doanh
+ Các điều kiện bảo hiểm bổ sung
+ Mức miễn thường: Để giảm phí bảo hiểm, chủ xe có thể lựa chọn việc tự chịu
một phần thiệt hại, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ chịu trách nhiệm đối với phần thiệt
hại vượt quá mức miễn thường nói trên của chủ xe.
Bảo hiểm cũng là một sản phẩm cung cấp trên thị trường nên phải tham gia theo quy
luật cạnh tranh của thị trường. Ngoài chất lượng dịch vụ thì giá cả là yếu tố quyết
định rất lớn. Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn xe hay có số phí tham gia
bảo hiểm cao thì các công ty bảo hiểm cũng có chính sách giảm phí. Đặc biệt là với
những đầu mối giới thiệu khách hàng lớn và thường xuyên.Ví dụ như thông qua
ngân hàng, các hãng bán xe, môi giới. Đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe
cơ giới.
Những hoạt động mang tính chất mùa vụ tức chỉ hoạt động một số ngày trong
năm,thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức:
Phí Mức phí Số ngày hoạt động


19

bảo hiểm = cả năm x 365 ngày
Nếu chủ xe đã nộp phí cả năm nhưng vì một lý do nào đó trong năm có một số
tháng không hoạt động nhà bảo hiểm hoàn lại phí trong những tháng đó nhưng chủ
xe phải báo cho nhà bảo hiểm biết
Phí

hoàn lại

=
Phí cả
năm

x
Tỷ lệ
hoàn phí

x
Số ngày không hoạt động
365 ngày
Khi giảm phí bảo hiểm PJICO chỉ áp dụng giảm phí một trong các phương án dưới
đây khi khách hàng tham gia loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện sau đây:
Bảng 2 : Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất
Thời hạn Mức giảm phí tối đa
01 năm liên tục 15% tổng số phí bảo hiểm
02 năm liên tục 20% tổng số phí bảo hiểm
03 năm liên tục 25% tổng số phí bảo hiểm
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Bảng 3 : Giảm theo tỷ lệ bồi thường thấp trong một năm bảo hiểm
Tỷ lệ bồi thường Mức giảm phí tối đa
Nhỏ hơn hoặc bằng 40% 10%
Nhỏ hơn hoặc bằng 30% 15%
Nhỏ hơn hoặc bằng 20% 20%
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Bảng 4 :Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Số lượng Mức giảm phí tối đa
Từ 05 đến 10 xe 10% tổng số phí bảo hiểm

Từ 11 đến 20 xe 15% tổng số phí bảo hiểm


20

Từ 21 đến 30 xe 20% tổng số phí bảo hiểm
Từ 31 đến 50 xe 25% tổng số phí bảo hiểm
(Nguồn : QĐ 02/2008 của PJICO về hướngdẫn khai thác bảo hiểm xe cơ giới)
Ngoài cạnh tranh bằng phí các đơn vị còn cạnh tranh nhau về thời gian phí.Phí có
thể căn cứ vào đối tượng khách hàng (có số phí lớn hoặc khách hàng tiềm năng) để
chia làm nhiều kỳ nộp tuỳ thoã thuận giữa công ty Bảo hiểm và khách hàng.
2.2.4 Các điểm loại trừ
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản vì vậy nó thực hiện dưới
hình thức tự nguyện.Khi tham gia bảo hiểm chủ xe phải chú ý đến những trường
hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
• Những điểm loại trừ chung:
+ Hành động cố ý gây tai nạn cho chủ xe;
+ Xe không có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn và bảo vệ môi trường hợp lệ,xe
đi đêm không có đèn chiếu sáng bên trái ;
+ Lái xe không có giấy phép hợp lệ,lái xe có nồng độ cồn rượu bia vượt quá quy
định của pháp luật hiện hành ;
+ Xe vận chuyển chất nổ trái phép ;
+ Xe sử dụng để tập lái, đua xe ( xe hợp pháp hoặc trái phép);xe chạy thử sau khi
sửa chữa;
+ Xe đi vào đường cấm,khu vực cấm;
+ Thiệt hại có tính hiệu quả gián tiếp như:giảm giá trị thương mại,ngừng sản xuất,sử
dụng,khai thác;
+ Xe chở quá trọng tải hoặc số chỗ ngồi cho phép;
+ Tai nạn ngoài lãnh thổ Việt Nam;



21

+ Chiến tranh.
• Những điểm loại trừ riêng:
+ Hao mòn do sử dụng,lão hoá,mất giá,hỏng hóc do khuyết tật hoặc tổn thất thêm do
sữa chữa,trong quá trình sữa chữa;
+ Hư hỏng về điện hoặc các bộ phận máy móc thiết bị mà không phải do tai nạn gây
ra;
+ Tổn thất đối với săm lốp,nhãn mác trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng
nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một tai nạn.
+ Mất cắp bộ phận xe;
+ Những vụ tổn thất nhỏ dưới mức miễn thường (mà hiện nay các công ty bảo hiểm
thường áp dụng mức chung là 200.000 đồng/vụ).
Ngoài ra các doanh nghiệp còn từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường
cho chủ xe trong các trường hợp chủ xe:
+ Cung cấp không đầy đủ,không trung thực các thông tin ban đầu về đối tượng bảo
hiểm trong Giấy yêu cầu bảo hiểm;
+ Khi xảy ra tai nạn,không kịp thời thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo
hiểm,không áp dụng các biện pháp kịp thời để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất gia
tăng,tự ý tháo dỡ,sữa chữa xe mà chưa có sự đồng ý hoặc giám sát của doanh nghiệp
bảo hiểm hay đại diện của họ;
+ Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây thiệt
hại của người chủ phương tiện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
• Ngoài ra chủ xe cần lưu ý:
+ Nhà bảo hiểm không chịu trách nhiệm phần hao mòn tự nhiên của chiếc xe có
nghĩa là tính đến khấu hao làm tròn theo tháng cụ thể nếu xe bị tai nạn từ ngày 16
trở về cuối tháng thì tháng đó phải tính khấu hao.



22

Nếu xe tham gia bảo hiểm từ ngày 1 đến ngày 15 thì tháng đó không phải tính khấu
hao.
+ Nếu chủ xe đã mua bảo hiểm sau đó lại chuyển nhượng cho người khác thì chủ xe
mới vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm đến hạn hợp đồng nếu có sự thông báo với
nhà bảo hiểm có xác nhận việc này bằng phụ lục hợp đồng hoặc văn bản.
+ Trong mọi trường hợp không bao giờ bảo hiểm bồi thường vượt quá số tiền ghi
trong đơn bảo hiểm.
+ Khi tham gia bảo hiểm cần phải có các giấy tờ:giấy phép lưu hành,bằng lái, đăng
ký xe.
Việc các công ty bảo hiểm thực hiện và đưa ra các hạn mức cũng nhằm:
+ Để ổn định quá trình kinh doanh,tránh sự sụp đổ,phá sản của công ty bảo hiểm
nên một số rủi ro gây ra tổn thất nằm ngoài khả năng tài chính của công ty được loại
trừ ra khỏi phạm vi bảo hiểm.
+ Để tránh phải giải quyết một số lượng lớn hồ sơ bồi thường bảo hiểm làm tăng
chi phí quản lý khi tổn thất nhỏ không đáng kể,người chủ phương tiện có thể tự giải
quyết hoặc trang trải được
+ Để tránh hiện tượng trục lợi của người được bảo hiểm khi nguyên nhân rủi ro khó
xác định
2.2.5 Giám định và bồi thường tổn thất
 Giám định tổn thất :
Giám định bảo hiểm là quá trình xem xét đánh giá,phân tích sự kiện xảy ra để xác
định nguyên nhân và mức độ tổn thất.
Công việc giám định được tiến hành bởi các giám định viên.Các giám định viên
phải ghi nhận một cách khách quan,trung thực về trạng thái của đối tượng bảo
hiểm,hạn chế tổn thất và thông tin cho tổ chức bảo hiểm.


23


Giám định bảo hiểm đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực tế,giác quan tinh tế nhạy bén,
sự hiểu biết sâu về nghiệp vụ. Công việc giám định tuỳ theo từng trường hợp mà cần
có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật, cần có sự chứng kiến của các bên liên
quan đảm bảo tính pháp lý
Do vậy công tác giám định không thể thiếu được trong dây chuyền triển khai nghiệp
vụ bảo hiểm. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho các công việc khác đặc biệt là công tác
bồi thường, nó còn làm ngăn chặn các hiện tượng gian lận trong bảo hiểm.
Giám định được thực hiện theo một trình tự sau:
+ Nhà bảo hiểm nhận tin và xử lý thông tin.
+ Dự kiến phương án chuẩn bị giám định.
+ Tiến hành giám định,chụp ảnh,lập biên bản giám định
+ Phân loại,xác định chính xác những thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm
+ Đánh giá thiệt hại,chọn phương án để khắc phục thiệt hại
+ Hoàn chỉnh hồ sơ cho cán bộ bồi thường hoặc chuyển về bảo hiểm gốc để giải
quyết bồi thường
Các công việc cụ thể:
Công tác tiếp nhận thông tin là công việc khi được báo tin,người có trách nhiệm tiếp
nhận thông tin phải chú ý kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ,thông tin: giấy chứng
nhận bảo hiểm,giấy đăng ký xe,giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi
trường…
Công tác tại hiện trường,thu thập các yếu tố liên quan đến tai nạn như:tác động của
thời tiết,tình trạng giao thông,các vật chứng liên quan đến vụ tai nạn,phát hiện
những dấu vết gian lận,trục lợi.


24

Phát hiện và làm rõ những nghi ngờ trong công tác hồ sơ,hiện trường nếu rủi ro
không thuộc phạm vi bồi thường hoặc công tu bảo hiểm từ chối bồi thường thì phải

thông báo và phải giải thích cho người được bảo hiểm biết rõ.
Lập biên bản giám định sau khi tiến hành công tác giám định bởi đây là một văn bản
có tính pháp lý quan trọng phản ánh một cách chính xác,trung thực khách quan
nguyên nhân và mức độ thiệt hại của vụ tai nạn
 Bồi thường tổn thất
Công tác bồi thường có quyết định rất lớn đến chất lượng dịch vụ bảo hiểm.Làm tốt
công tác này sẽ nâng cao uy tín của công ty bảo hiểm,nâng cao tính cạnh tranh trong
thị trường bảo hiểm.
Bồi thường tổn thất là việc người bảo hiểm thực hiện cam kết của hợp đồng,chi trả
một khoản tiền nhất định nhằm đền bù cho người được bảo hiểm khi có thiệt hại vật
chất xảy ra cho phương tiện trong sự cố bảo hiểm.
Để được xem xét và giải quyết bồi thường,các chủ xe cần phải có các giấy tờ trong
bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường:
Giấy thông báo tai nạn;
Giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới;
Bản sao các giấy tờ ( giấy chứng nhận bảo hiểm,giấy phép lái xe, giấy chứng nhận
kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường,giấy phép đăng ký kinh doanh);
Bản kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao hồ sơ tai nạn( có xác nhận
của công an nơi thụ lý) bao gồm ( bản khám nghiệm hiện trường,biên bản giải quyết
tai nạn giao thông,quyết định của toà án(nếu có),biên bản giám định thiệt hại (nếu
có);
Ngoài ra, các chủ xe còn phải cung cấp cho công ty bảo hiểm các giấy tờ như các
bằng chứng chứng minh sự thiệt hại như hoá sữa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại;


25

×