Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sang kien kinh nghiem mon GDCD 11 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Đơn vị:


số:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
KHỐI 11
Người thực hiện: Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục 
Phương pháp dạy học bộ môn GDCD

Phương pháp giáo dục 
Lĩnh vực
khác 
Có đính kèm:
 Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật
khác
1
Năm học: 2007 - 2008

Tên sáng kiến kinh nghiệm: VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN KHỐI 11
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Sự phát triển của xã hội cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI đòi hỏi con người có một số phẩm chất và năng lực
nổi lên hàng đầu như năng lực làm việc nhóm, năng lực
hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề do cuộc sống


đặt ra, năng lực hợp tác, năng lực thích ứng Những
yêu cầu trên đặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn điện
để đáp ứng tốt hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá
nhân, từ học chế đào tạo, cách thiết kế chương trình,
tìm tòi những phương thức, cách thức giáo dục thích
hợp hơn.
Một số lý thuyết khoa học gần đây đã làm sáng tỏ
bản chất việc học dưới những cách nhìn mới. Tâm lý
học hoạt động, khi nghiên cứu bản chất tâm lý người đã
chỉ ra rằng tâm lý hình thành trong hoạt động. Từ đó,
GS. VS. Phạm Minh Hạc nhấn mạnh: "Nhà trường hiện
đại ngày nay là nhà trường hoạt động, dùng phương
pháp hoạt động… Thu hẹp sự cưỡng bức của nhà giáo
thành sự hợp tác bậc cao" "Phương pháp giáo dục
bằng hoạt động là dẫn dắt HS tự xây dựng công cụ
2
làm trẻ thay đổi từ bên trong… Hoạt động cùng
nhau, hoạt động hợp tác giữa thầy và trò, hoạt động
hợp tác giữa trò và trò có một tác dụng lớn" . Từ đó có
thể rút ra kết luận: "cần kết hợp hoạt động cá nhân
với hoạt động nhóm"; Dạy học là tổ chức các dạng
hoạt động học tập khác nhau cho HS; Dạy học cần thay
đổi phương thức cưỡng bức HS học tập bằng phương
thức học tập hợp tác, làm việc cùng nhau.
Theo quan điểm Tâm lý học lịch sử, L. X. Vưgôtxki
cho rằng các chức năng tâm lý cấp cao xuất hiện trước
hết ở mức độ liên nhân cách giữa các cá nhân, trước khi
chúng tồn tại ở mức độ tâm lý bên trong. Chính vì vậy,
theo ông, trong một lớp học, cần coi trọng sự khám
phá có trợ giúp hơn là sự tự khám phá. Từ đó cần

rút ra một nguyên tắc là dạy học cần tổ chức cho HS
học tập với sự trợ giúp, hỗ trợ của bạn học, học tập
cùng nhau sẽ giúp HS lĩnh hội kiến thức tốt hơn.
Ông bà ta đã dạy rằng:
“ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lai nên hòn núi cao”
Nhưng, làm sao để tổ chức được một giờ dạy GDCD tốt khi
vận dụng phương pháp thảo luận nhóm? Việc giảng dạy này được kéo
dài trong nhiều buổi học nên người dạy sẽ có cơ hội thiết lập và phát
triển một không khí học tập năng động và hữu ích cho học sinh. Việc
sử dụng phương pháp thảo luận nhóm là một kinh nghiệm vô cùng
quí giá cho người giáo viên. Để thành công trong việc giảng dạy theo
phương pháp thảo luận nhóm, người giáo viên cần chuẩn bị bài chu
đáo và có kỹ năng quản lý nhóm. Người giáo viên không nên cho
rằng việc thảo luận trong nhóm tất yếu sẽ xảy ra và dù điều này có
diễn ra đi nữa thì nó thường mất trật tự, vô bổ và không đúng yêu cầu
học tập. Để tránh tình trạng này, người giáo viên phải biết cách làm
việc theo nhóm và có thể kết hợp các phương pháp dạy học để giờ
dạy thành công.
I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI
PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi:
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ
từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh…
3
- Chương trình môn Giáo dục công dân lớp 11 có nhiều nội dung
không những phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm mà còn
phát huy hiệu quả cao khi giáo viện tổ chức cho học sinh thảo
luận nhóm…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo đìêu kiện cho hoạt

động thảo luận: phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ, cách bố trí
bàn ghế, chỗ ngồi cho HS…
- Thực trạng về mặt tích cực của các vấn đề có liên quan đến đề
tài.
- Giáo viên được đào tạo và tập huấn thường xuyên về đổi mới
phương pháp dạy học.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều
kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác
nhau.
- HS đã tiếp cận với phương pháp dạy học này từ những năm học
cấp dưới ở hầu hết các môn học nên khá quen thuộc với giờ học
mà HS là chủ thể hoạt động. một số HS có kĩ năng thảo luận
nhóm, lãnh đạo nhóm xuất sắc…đã hỗ trợ giáo viên tổ chức giờ
dạy thành công.
- Phương pháp thảo luận nhóm phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi HS,
khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền
thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư
duy tích cực.
2. Khó khăn:
- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh
khỏi lung túng trong một số kĩ năng, nội dung kiến thức
- Nội dung môn GDCD 11 mới, khô, khó, dài… nên, GV khó dạy,
HS khó học.
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư
phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc
của từng HS.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp với
phương pháp thảo luận nhóm: Số HS, không gian lớp học, trang
thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…

- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc thảo luận nhóm là
sự máy móc không hiệu quả.
- Tài liệu tham khảo đặc thù phục vụ cho môn GDCD 11 không
phong phú, chưa phổ biến…
4
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ
môn naỳ còn khá lệch lạc: không đầu tư, không chú ý thậm chí là
xem thường hoặc học cho xong…
3. Số liệu thống kê
a. Nhóm lớp GV thường xuyên áp dụng phương pháp thảo luận
nhóm:
LỚP SỐ HS GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH
11A1 47 18 38.30% 29 61.70% 0 0.00%
11A2 46 18 39.13% 27 58.70% 1 2.17%
11A3 46 7 15.22% 33 71.74% 6 13.04%
11A6 44 5 11.36% 33 75.00% 6 13.64%
11A7 41 8 19.51% 30 73.17% 3 7.32%
11A8 43 5 11.63% 32 74.42% 6 13.95%
b. Nhóm lớp GV không thường xuyên áp dụng phương pháp thảo
luận nhóm:
LỚP SỐ HS GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH
11A9 44 1 2.27% 43 97.73% 0 0.00%
11A5 45 5 11.11% 32 71.11% 8 17.78%
11C1 38 2 5.26% 31 81.58% 5 13.16%
c. Nhóm lớp GV không áp dụng phương pháp thảo luận nhóm:
LỚP SỐ HS GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH
11C2 45 1 2.22% 33 73.33% 11 24.44%
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Jean Piaget (1896 – 1980) với thuyết mâu thuẫn

nhận thức xã hội đã cho rằng: Trong khi tương tác cùng
nhau, mâu thuẫn nhận thức xã hội xuất hiện đã tạo ra
sự mất cân bằng về nhận thức giữa mọi người. Các
cuộc tranh luận diễn ra liên tục và được giải quyết.
Trong quá trình đó, những lý lẽ, lập luận chưa đầy đủ sẽ
được bổ sung và điều chỉnh. Như vậy, học là một quá
trình xã hội, trong quá trình đó, con người liên tục đấu
tranh giải quyết các mâu thuẫn nhận thức.
5
Hay như PGS. TS. Nguyễn Hữu Châu khái quát,
học là quá trình cá nhân tự kiến tạo kiến thức cho mình
nhưng đó là những kiến thức thông qua tương tác với
các cá nhân khác, với xã hội và thực tiễn mà có. Từ
quan niệm về học, quan niệm về hoạt động dạy và
PPDH cũng thay đổi. Hoạt động dạy là hoạt động của
giáo viên nhằm tổ chức và hướng dẫn hoạt động
học của người học, để họ tự khám phá và thực
hiện nhiệm vụ học tập. Học tập chịu sự tác động của
các tác nhân nhận thức, xã hội, văn hóa, liên nhân cách
do vậy dạy học phải tổ chức các dạng hoạt động đa
dạng cho HS tham gia; Phải tạo ra các tác động dạy
học đa dạng như tác động nhận thức cá nhân (tự phát
hiện, tìm tòi, tự lĩnh hội); tác động xã hội, văn hóa (như
gắn việc học với hoàn cảnh cụ thể, với bối cảnh văn
hóa và xã hội, thời đại); phải tạo ra các tác động tâm lý
(sự hợp tác, gắn kết, chia sẻ trách nhiệm và lợi ích).
Trong số PPDH đang được sử dụng, PPDH nhóm có
nhiều ưu thế trong thực hiện các mục tiêu giáo dục mới
hiện nay.
Hơn nữa, triết lý dạy học của PPDH nhóm xuất

phát từ những quan niệm mới về bản chất học tập nói
chung và việc tổ chức học tập hiện nay.
Một học giả đã nói, nếu bạn có một quả táo, tôi có
một quả táo, chúng ta trao đổi cho nhau thì mỗi người
cũng chỉ có một quả táo. Song nếu bạn có một ý tưởng,
tôi có một ý tưởng, chúng ta trao đổi cho nhau thì mỗi
người sẽ có hai ý tưởng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc đề cao sự hợp tác, phối
hợp trong học tập thì PPDH nhóm lại nhấn mạnh về
thực chất, học tập là một hoạt động cá nhân có tính
tích cực cao, những kiến thức mà cá nhân thu nhận
được không phải chỉ là kết quả hoạt động riêng biệt của
cá nhân người học mà là những điều con người thu
nhận được thông qua quá trình cọ sát, chia sẻ, hợp tác.
Nếu không có quan hệ, không có sự thúc đẩy của hoàn
cảnh sống, của xã hội, của bạn học, con người không
có động lực học. Còn sự cạnh tranh, đấu tranh giữa
những nhận thức trái ngược nhau đã tạo nên động lực
6
thôi thúc sự tìm tòi chân lý của mỗi cá nhân, thúc đẩy
cá nhân hoạt động để tự khẳng định mình.
Như vậy, PPDH nhóm một mặt vừa chú trọng phát
huy tính tích cực cao, tính chủ thể của người học; Mặt
khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác cao giữa các
chủ thể đó trong quá trình học tập. Cần kết hợp tốt
giữa năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở người
học. Để sử dụng có hiệu quả PPDH nhóm, GV cần phải
chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách
nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi người học trong
nhóm và trong lớp, hình thành kỹ năng làm việc nhóm

cho HS.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề
tài
2.1. Khái niệm:
A.T.Francisco (1993): " Học tập nhóm là một phương pháp học tập
mà theo phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và
hợp tác với nhau trong học tập"
Về thực chất, phương pháp thảo luận là tổ chức cho HS bàn bạc
, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi
nhằm giúp cho HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập,
tạo cơ hội cho HS có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để
giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học.
2.2. Yêu cầu sư phạm:
2.2.1 Cách thành lập nhóm:
- Việc phân chia nhóm thường dựa trên:
+ Số lượng học viên
+ Chủ đề của bài học
+ Đặc điểm của học viên
Cách chia nhóm như thế nào cho hợp lý : có thể theo một tiêu chuẩn
nào đó của bài học hay của giáo viên và cũng có thể hoàn toàn ngẫu
nhiên. Số lượng thành viên của mỗi nhóm có thể thay đổi tùy vào lứa
tuổi…
7
- GV có thể chọn một số cách chia nhóm sau đây:
1. Chia nhóm nhỏ cùng thảo luận: Chia học viên thành các
nhóm nhỏ để thảo luận về một khía cạnh xoay quanh một vấn
đề nào đó. Sau thời gian thảo luận, mỗi nhóm nhỏ cử một thành
viên trình bày ý kiến của cả nhóm cho cả lớp.
VD : GV cho các nhóm cùng thảo luận vấn đề: Tính hai mặt của
cạnh tranh và giải pháp khắc phục mặt hạn chế của cạnh tranh.

GV có thể chỉ định nhóm trình bày, nhóm sau không lặp lại ý của
nhóm trước, sau đó GV kết luận.
2. Chia nhóm theo sở thích: Chia thành các nhóm cùng làm một
nhiệm vụ được giao trong một thời gian nhất định. Trong lần
thảo luận tiếp theo các nhóm hoặc đại diện mỗi nhóm phải trình
bày kết quả cho cả lớp.
VD : Trước khi học về Cung - cầu trong sản xuất và lưu thông hàng
hoá, GV chia nhóm HS khảo sát thị trường địa phương; vào tiết
học, các nhóm cử đại diện trình bày:
Nhóm 1: Thị trường xăng dầu
Nhóm 2: Thị trường vải thời trang
8
Nhóm 3: Thị trường xe đạp điện
Nhóm 4: Thị trường sách báo
3. Chia nhóm đánh giá: Một nhóm chịu trách nhiệm thảo luận
một chủ đề nào đó và một nhóm khác có trách nhiệm phê bình
đưa ra các quan sát, nhận xét và đánh giá bài trình bày của
nhóm kia.
VD: GV cho các nhóm cùng thảo luận vấn đề: Nội dung của quan
hệ Cung - cầu:
Nhóm 1: Cung - cầu tác động lẫn nhau
Nhóm 2: Cung - cầu ảnh hưởng đến giá cả
Nhóm 3: Giá cả ảnh hưởng đến Cung - cầu
Nhóm 4: Nhận xét, bổ sung
GV có thể chỉ định nhóm trình bày, sau đó GV kết luận.
4. “Giảng – Viết – Thảo luận”: cuối mỗi bài học, học viên phải
trả lời những câu hỏi ngắn và chứng minh câu trả lời của mình.
Sau khi mỗi cá nhân xử lí các câu hỏi thì so sánh với học viên
khác. Sau đó, giáo viên tổ chức một buổi thảo luận để kiểm tra
các câu trả lời hợp lí.

2.2.2. Nội dung thảo luận và thời gian thảo luận
- Nội dung thảo luận có thể giống hoặc khác nhau
- Thời gian thảo luận có thể căn cứ vào nội dung thảo luận cũng
như đặc điểm lớp học.
VD: Trong bài Chính sách tài ngun và bảo vệ mơi trường:
Câu h ỏ i: Giải thích và chưùng minh những phương hướng cơ bản
nhằm bảo vệ tài nguyên và môi trường?(10 p)
Nhóm 1: Mục tiêu 1, 2
Nhóm 2: Mục tiêu 3, 4
Nhóm 3: Mục tiêu 5, 6
Nhóm 4: Em có suy nghó như thế nào về vấn đề khai thác tài
nguyên và bảo vệ môi trường trong điều kiện nước ta còn nghèo,
đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?
Các nhóm cử đại diện trình bày (4p / nhóm), GV chốt lại từng nội
dung.
VD: Bài: Chính sách Giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng
nghệ, văn hố:GV chia lớp ra làm
Câu hỏi: Em hãy phân tích và lấy ví dụ chứng minh cho những
phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo?
- Nhóm 1 : Nâng cao chất lượng, hiệu qủa giáo dục và đào tạo.
9
- Nhóm 2 : Mở rộng quy mơ giáo dục.
- Nhóm 3 : Ưu tiên đầu tư cho giáo dục.
- Nhóm 4: Thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục.
- Nhóm 5 : Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục.
- Nhóm 6: Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
- Các nhóm thảo luận (3p).
- Đại diện nhóm trình bày (3p / nhóm), Cả lớp trao đổi, GV bổ sung ý
kiến cho các nhóm.
VD: Bài: Chính sách Giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng

nghệ, văn hố:GV chia lớp ra làm 4 nhóm thảo luận về nhiệm vụ của
KH – CN:
Câu hỏi: KH – CN có nhiệm vụ gì? Lấy ví dụ minh hoạ cho từng
nhiệm vụ?
Các nhóm thảo luận ( 3p) rồi cử đại diện trình bày (5p – nhóm sau
khơng nói lại ý của nhóm trước) , GV kết luận.
2.2.3. Vai trò của nhóm trưởng:
- Nhóm trưởng phải là người chuẩn bị nội dung: Phải xác định
đúng mục tiêu của phần thảo luận nhóm, hướng dẫn các thành viên
nhóm chuẩn bị tài liệu và cung cấp tài liệu cho từng nhóm viên, phân
cơng nhiệm vụ cho từng người và bố trí chỗ ngồi các nhóm viên cho
hợp lý để các nhóm viên trình bày nội dung của mình.
- Nhóm trưởng phải là người khởi động buổi thảo luận nhóm
bằng cách tạo một bầu khơng khí vào đề một cách sinh động, chân
tình và thật sự thỏa mái.
- Trong buổi thảo luận: Người nhóm trưởng phải điều động
được tất cả các nhóm viên tham gia tích cực vào buổi thảo luận,
người nhóm trưởng phải biết lắng nghe, khuyến khích các người rụt
rè, ngăn chặn những người nói nhiều, theo dõi và quan sát phản ứng
của từng người để điều chỉnh buổi thảo luận. Khai thác nội dung bằng
cách đặt câu hỏi kích thích tư duy của từng người. Phát hiện những
mâu thuẫn trong cách trình bày của mỗi thành viên, tổng kết lại ý kiến
của nhóm ở cuối buổi thảo luận.
Nói chung, nhóm trưởng là người quan trọng, để lựa chọn một
sinh viên làm nhóm trưởng thì người dạy phải biết quan sát thái độ và
cách làm việc của từng HS để lựa chọn. Như vậy, nhóm trưởng là
người đạo diễn, là MC và là nhạc trưởng cho buổi thảo luận của
nhóm, họ phải thể hiện tốt vai trò của mình để kích thích các nhóm
viên hoạt động nhưng khơng phải nhóm trưởng là người quyết định
thành cơng cho việc thảo luận của nhóm.

10
Đồng thời, ở nhiều trường hợp nhưng không phải là tất cả,
trong nhóm cần có một người ghi biên bản, ghi lại những điểm chính
của cuộc thảo luận để trình bày trước cả lớp.
HS cần được luân phiên nhau làm “trưởng nhóm” và “thư kí”,
luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
2.2.4. Vai trò của người giáo viên:
Trong thời gian HS thảo luận theo nhóm nhỏ, GV cần đi vòng
quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến của HS, giúp đỡ, gợi ý nếu cần
thiết:
+ Người giáo viên phải là người điều động các nhóm nhỏ làm việc.
+ Phải quan sát và theo dõi hoạt động, công việc của từng nhóm để
tìm ra cách giải quyết hợp lý nhất.
+ Trong quá trình quan sát các nhóm làm việc, người giáo viên phải
phát hiện các sai lầm mà các nhóm mắc phải khi tham gia nhóm,
những sai lầm mang tính điển hình và chưa được sữa chữa để cuối
phần thảo luận nhóm giáo viên có nhận xét, góp ý.
+ Ngoài những vấn đề mà các thành viên nhóm thảo luận tổng kết để
báo cáo thì giáo viên phải đặt thêm những câu hỏi bổ sung để phát
huy tính tích cực hoạt động của nhóm (Câu hỏi này không phải chỉ
dành cho nhóm trưởng trả lời mà là các nhóm viên có liên quan).
+ Giáo viên phải nhắc lại các ý kiến mà nhóm đã trình bày một lần
nữa khẳng định lại ý kiến của nhóm để nhóm cần bổ sung ý kiến hay
không. Nhấn mạng các khái niệm, các ý quan trọng của bài học.
+ Giáo viên tóm tắt, tổng hợp, liên kết các ý kiến của từng nhóm thảo
luận theo thứ tự để nêu bật được nội dung bài học.
+ Người giáo viên là người hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm nếu các
nhóm có gặp khó khăn trong quá trình thảo luận.
+ Cuối cùng, người giáo viên là người hướng dẫn và giúp đỡ các
nhóm nếu các nhóm có gặp khó khăn trong quá trình thảo luận.

2.2.5. Trình bày kết quả thảo luận:
Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức:
bằng lời, đóng vai, viết hoặc vẽ lên giấy khổ to…có thể do một người
thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày, mỗi người một
đoạn nối tiếp nhau.
VD: Bài 12: Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường, để dạy
phần tính hình tài nguyên và môi trường, GV có thể tổ chức cho HS
thảo luận những câu hỏi sau:
- Nhóm 1: Tại sao nói nước ta “ rừng vàng, biển bạc”?
- Nhóm 2: Tài nguyên nước ta đang đứng trước những thách
thức nào?
11
- Nhóm 3: Môi trường nước ta đang đứng trước những hiểm
hoạ gì?
- Nhóm 4: Nhận xét kết quả thảo luận của các nhóm
=> Các nhóm thảo luận. GV quan sát, hướng dẫn HS
Các nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp.
GV nhận xét, bổ sung, kết luận về tình hình tài nguyên, môi
trường ở nước ta hiện nay.
2.3. Các đặc điểm của nhóm hiệu quả và kém hiệu quả:
GV có thể đánh giá hiệu quả hoạt động thảo luận của các nhóm
qua một số tiêu chí sau:
- Lãnh đạo
- Sự tham gia
- Mâu thuẩn
- Mối tương tác
- Sự tôn trọng ý kiến
- Ý thức trách nhiệm- tính tự giác
- Hiểu mục tiêu của nhóm
2.4. Một số kỹ thuật cơ bản của phương pháp dạy học thảo

luận nhóm:
- Kỹ thuật thiết lập mục tiêu hoạt động nhóm
- Kỹ thuật thiết kế nhiệm vụ học tập nhóm
- Kỹ thuật thiết kế nhóm học tập: bao gồm việc hình
thành nhóm; Các loại nhóm và cấu trúc nhóm; Kỹ thuật
xác định quy mô nhóm.
- Kỹ thuật thiết lập, duy trì, kiểm soát các mối quan hệ
tương tác trong hoạt động nhóm.
12
- Kỹ thuật tổ chức, hướng dẫn và quản lý, đánh giá hoạt
động học theo nhóm của HS trong PPDH nhóm
- Vấn đề xác lập các điều kiện dạy học khác
III. KẾT QUẢ:
Thảo luận nhóm có phê bình, đóng vai, tranh luận và nghiên
cứu là một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả nhằm khơi
dậy sự nhiệt tình của HS, khuyến khích HS tham gia thảo luận
nhóm.HS theo đócũng có cơ hội học tập trong môi trường không bị
kiểm soát nhưng vẫn “an toàn”. Ngoài ra HS cũng tập phản ứng với
những tình huống phức tạp và “có thật” sẽ gặp trong cuộc sống sau
này.Cụ thề là:
- Xây dựng tinh thần đồng đội và các mối quan hệ tương hỗ
- Cân bằng tâm lý, khả năng hoà nhập, kĩ năng giao tiếp và tính tự
trọng tốt hơn.
- Kết quả và thành tích học tập cao hơn:
+ Kiến thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, làm
tăng tính khách quan khoa học.
+ Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn
do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
+ Nhờ không khí thảo luận nhóm cởi mở giúp HS thoải mái, tự tin
hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê

phán ý kiến của những thành viên khác.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đánh giá giờ học sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
- Ưu điểm: Tất cả các thành viên trong nhóm đều có cơ hội
tham gia chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm của mình với cả nhóm. Trong
quá trình quan sát các nhóm làm việc giáo viên có thể thay đổi cấu
trúc của nhóm để tạo cơ hội cho các thành viên có dịp trao đổi nhiều
người với nhau. Xây dựng ý thức làm việc theo nhóm.
- Khuyết điểm: Trong quá trình thảo luận nhóm có thể có một
vài thành viên trong nhóm nổi trội hơn nhưng cũng có một vài thành
viên khác trong nhóm cũng có thể bị co lại và ít tham gia vào hoạt
động nhóm hơn. Đối với phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn để
có thể cho tất cả các thành viên đều tham gia. Phương pháp này cũng
không phù hợp với lớp đông.
2. Giải pháp để kích thích quá trình tham gia thảo luận
nhóm:
Để tổ chức hoạt động nhóm nhỏ có hiệu quả, có nhiều phương
tiện giúp giáo viên kích thích học sinh tham gia thảo luận. Do đó, tuỳ
13
theo nhu cầu và mục tiêu của mình, giáo viên có thể chọn các phương
tiện phù hợp. Sau đây là một số gợi ý về phương tiện khuyến khích sự
thảo luận của sinh viên mà giáo viên có thể dùng:
- Bài kiểm tra trắc nghiệm ngắn (về các nội dung còn chưa rõ
ràng…).
- Giải quyết bằng một tình huống.
- Các tài liệu trực quan như hình ảnh,….
- Băng ghi âm hoặc hình (một cuộc phỏng vấn, âm thanh, …)
- Các tài liệu thu thập trên mạng internet.
- Các bản tóm tắt về một nội dung chủ đề theo trọng tâm bài
học…

Tùy thuộc vào đối tượng học sinh, CSVC của nhà trường,…mà
giáo viên có thể sử dụng để kích thích quá trình hoạt động của nhóm,
tạo hứng khởi cho thành viên trong mỗi nhóm tham gia thảo luận
(Phải có định hướng thì học sinh mới có thể đi vào thảo luận nhóm
hiệu quả).
Giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp thảo luận khác nhau trong
các tiết học khác nhau để tránh trùng lắp dễ gây nhàm chán ở học
sinh.
V. KẾT LUẬN:
14
Khi làm việc theo nhóm nhỏ, học sinh và giáo viên đều gặp
những khó khăn nhất định, để dung hòa giáo viên có thể thảo luận với
nhóm để tìm ra cách làm việc tốt nhất.
Trong khi nhóm thảo luận, nhóm trường có vai trò rất quan trọng,
giáo viên phải quan sát và nhạy cảm với thái độ của nhóm và cách cư
xử của từng thành viên.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Gia Thịnh, “Lý thuyến kiến tạo, một hướng
phát triển mới của lý luận dạy học hiện đại" - T/c Thông
tin KHGD số 52, tháng 11&12/1995, tr. 30-34.
Nguyễn Hữu Châu, “Dạy học Kiến tạo, vai trò của
người học và quan điểm kiến tạo trong dạy học”, T/c
Dạy và học ngày nay số 5/2005.
Phạm Minh Hạc, “Tâm lý học Vgôtxki”. NXB Giáo
dục, Hà Nội 1997.
Trên đây chỉ là kết quả của sự tìm tòi, tự
mày mò nhằm thổi thêm chút sinh khí cho
bộ môn GDCD khối 11 của cá nhân tôi.
Chắc hẳn còn nông cạn và nhiều thiếu sót.
Rất mong nhận được sự góp ý chân thành

từ phía đồng nghiệp!
15
16

×