Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

TIỂU LUẬN môn GIAO DỊCH THƯƠNG mại QUỐC tế THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP của vấn đề NHẬP CIF bán FOB tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.89 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG – CƠ SỞ II
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
………….⧪………….

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN
MƠN GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

CHỦ ĐỀ: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA
VẤN ĐỀ NHẬP CIF - BÁN FOB TẠI VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn: Thầy Tơ Bình Minh
Lớp: K59E - ML 225
Đội: 9

Thành phố Hồ Chí Minh – 12/03/2022


LỜI MỞ ĐẦU
Đối với mỗi quốc gia, ngoại thương đóng vai trị vơ cùng quan trọng, đây khơng
những là cầu nối kinh tế giữa các quốc gia và các doanh nghiệp sản xuất mà còn là
một yếu tố thúc đẩy nền kinh tế quốc gia, giúp đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện. Việt Nam từ năm 1986 với chính sách đổi mới đã bắt đầu mở cửa ra
thị trường thế giới, hội nhập toàn cầu. Đối với nền kinh tế Việt Nam, vai trò của
xuất nhập khẩu đang trở nên ngày càng quan trọng. Hoạt động thương mại nói
chung và xuất nhập khẩu nói riêng đã từng bước giải quyết những vấn đề kinh tế,
khai thác được nội lực và phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước. Góp
phần khơng nhỏ vào thành tựu chung của đất nước không thể không kể đến sự cố
gắng vươn ra biển lớn của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt
Nam thi đua sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh và được thế
giới ưa chuộng và cũng đồng thời cũng nhập khẩu những trang thiết bị máy móc,


nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và những đồ dùng cần thiết khác nhằm đáp
ứng nhu cầu đang ngày càng gia tăng của xã hội. Nhưng các doanh nghiệp dù muốn
xuất khẩu hay nhập khẩu mặt hàng nào đó thì cũng cần phải có một khâu trung gian
là khâu vận chuyển hàng hóa giữa các nước. Hiện nay các phương thức vận tải
thường tuân theo Incoterms 2010, trong đó có 3 điều kiện hay sử dụng nhất là FOB,
CFR, CIF. Tuy nhiên, có sự khác biệt trong cách áp dụng các phương thức vận tải
của các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp ở Việt Nam. Thông thường, các
doanh nghiệp ở các nước phát triển thường nhập khẩu theo điều kiện giá FOB, xuất
khẩu theo điều kiện giá CIF nhưng ở nước ta, các doanh nghiệp lại làm điều ngược
lại, là nhập khẩu giá CIF, còn xuất khẩu giá FOB. Có nhiều ngun nhân để giải
thích cho tập qn ngược này của các doanh nghiệp Việt Nam, và từ bước tìm hiểu
và phân tích ngun nhân chúng ta cần tìm ra giải pháp để có thể thay đổi thực trạng
này. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, chúng em xin chọn đề tài “Thực
trạng và giải pháp của vấn đề nhập CIF - bán FOB tại Việt Nam“ làm đề tài tiểu
luận.

2


MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Ở các nước phát triển, khi xuất khẩu hàng hóa, người bán tại các nước phát triển
thường tìm mọi cách giao hàng với hợp đồng CIF. Khi nhập khẩu hàng hóa, người
mua thường đàm phán để mua được hàng theo điều kiện giao hàng lên tàu - theo giá
FOB. Ở Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lại thực
hiện theo phương thức ngược lại. Khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu theo giá FOB, khi nhập khẩu họ lại nhập khẩu theo giá CIF bởi khả năng vận
chuyển hàng hóa, làm Logistics của họ vẫn cịn non yếu, hơn nữa cũng khơng có
nhiều kinh nghiệm về vận tải bảo hiểm. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng sợ rủi ro
trong thuê tàu chuyên chở và mua bảo hiểm. Khi nhập CIF, các doanh nghiệp Việt
Nam không phải thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hóa nên có thể tránh được những

rủi ro như: giá cước vận chuyển tăng, phí bảo hiểm tăng, khơng th được tàu, tàu
khơng phù hợp,…vì vậy, các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam nhượng lại việc thuê
tàu và bảo hiểm cho đối tác nước ngoài.
Việc “nhập CIF - bán FOB” mang lại một số tác hại cho ngành xuất nhập khẩu Việt
Nam, cụ thể là bán FOB thu về lượng ngoại tệ thấp hơn cho đất nước so với bán
CIF. Ngồi ra, thường thì nhà xuất khẩu sẽ thuê tàu và mua bảo hiểm ở các công ty
thuộc nước họ. Vậy nếu mua CIF, bán FOB doanh nghiệp Việt Nam nhường quyền
này cho phía nước ngồi, vơ tình khiến các doanh nghiệp bảo hiểm và hãng tàu
trong nước mất đi cơ hội việc làm. Các nhà cung cấp dịch vụ logistics Việt Nam
khó ký được hợp đồng vận chuyển và bảo hiểm cho các lơ hàng đó. Chưa dừng lại ở
đó, khi mua CIF và xảy ra tổn thất với hàng hóa, doanh nghiệp Việt sẽ gặp nhiều
khó khăn khi phải đàm phán trực tiếp với hãng tàu và bảo hiểm nước ngoài.
Trong khi đó, khi nhập FOB bán CIF, các doanh nghiệp sẽ nhận được các ưu đãi từ
hãng tàu. Có thể chủ động lựa chọn được những hãng tàu rẻ hơn giá đã tính cho nhà
nhập khẩu bên kia. Ngồi ra, nếu thuê các hãng tàu của Việt Nam, doanh nghiệp sẽ
nhận được các chứng từ cần thiết một cách nhanh chóng. Nhờ đó mà có thể giải
quyết vấn đề tranh chấp (nếu có) một cách nhanh chóng và tiết kiệm được thời gian,
3


nâng cao hiệu quả cho việc giao nhận, thanh toán tiền hàng. Khi giao hàng bằng
điều kiện CIF, các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sẽ thu được trị giá ngoại tệ cao
hơn so với khi xuất khẩu bằng FOB. Nếu doanh nghiệp đang thiếu vốn, cịn có thể
dùng thư tín dụng (L/C) thế chấp tại ngân hàng, từ đó doanh nghiệp sẽ vay được số
tiền cao hơn dự định. Hơn nữa, việc nhập FOB bán CIF giúp doanh nghiệp chủ
động hơn trong việc giao hàng, hồn tồn khơng bị lệ thuộc vào việc điều tàu (hoặc
container) do người nhập khẩu chỉ định. Trong một số trường hợp, chỉ vì bị lệ thuộc
vào khách nước ngoài, tàu đến chậm làm hư hỏng hàng hóa đã tập kết tại cảng hoặc
trong kho (nhất là đối với hàng nông sản) và cả hai bên đều phải tốn nhiều thời gian
để giải quyết tranh chấp và rủi ro xảy ra.

Từ các lý do trên, chúng em quyết định chọn đề tài này nhằm phân tích thực trạng
và đưa ra một số giải pháp cho vấn đề “nhập CIF - bán FOB” tại Việt Nam.

4


Khái niệm
* Khái niệm chung về Incoterms
Incoterms (hay International Commerce Terms) là tập hợp các quy tắc của thương
mại quốc tế quy định về trách nhiệm của các bên trong hợp đồng ngoại thương, là
các điều khoản thương mại thiết yếu trong lĩnh vực giao dịch hàng hóa. Incoterms
được tạo ra để tạo thuận lợi cho thương mại trên toàn thế giới và được cơng nhận
trên tồn cầu, ngăn chặn sự nhầm lẫn trong các hợp đồng ngoại thương bằng cách
làm rõ nghĩa vụ của người mua và người bán.
Hiện tại phiên bản mới nhất của Incoterms là Incoterms® 2020, đây là một bộ các
điều khoản /điều kiện thương mại quốc tế được xuất bản lần thứ 8 bởi Phòng
Thương mại quốc tế (ICC) có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020. Incoterms 2020
quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (Bên
bán và bên mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế.
Liên quan đến vấn đề nhập CIF và bán FOB tại Việt Nam, hai nhóm điều kiện trên
của Incoterms được sử dụng riêng trong các giao dịch liên quan đến vận tải biển và
đường thủy nội địa. Trong Incoterms® 2020 , CIF và FOB quy định cụ thể các nghĩa
vụ, chi phí và rủi ro tương ứng liên quan đến việc chuyển giao hàng hóa từ người
bán sang người mua theo tiêu chuẩn Incoterms do Phòng Thương mại Quốc tế
(International Chamber of Commerce – ICC) công bố. Hai điều CIF và FOB hiện
tại theo Incoterms mới nhất đề cập chỉ áp dụng duy nhất cho phương thức vận tải
đường biển và thủy nội địa khi thực hiện giao dịch thương mại.
* CIF (Cost Insurance Freight)
CIF là viết tắt của điều kiện giao hàng, có nghĩa là giao hàng tại cảng dỡ hàng :
Cost, Insurance, Freight (tiền hàng, bảo hiểm, cước phí) và thường được viết liền

với một tên cảng biển nào đó, chẳng hạn: CIF SaiGon.
Về cơ bản, CIF phân chia trách nhiệm và rủi ro giữa người mua và bán hàng trong
thương mại quốc tế. Theo điều kiện trên, người bán chịu trách nhiệm thông quan
hàng hóa tại cảng đi, đưa hàng hóa lên tàu và trả tiền bảo hiểm ở mức bảo hiểm tối
thiểu cho đến khi hàng hóa được xuống cảng đến. Mặc dù người bán trả tiền bảo
hiểm trong quá trình vận chuyển chính, rủi ro vẫn được chuyển sang người mua tại
thời điểm hàng hóa lên tàu. Nói cách khác, với điều kiện cơ sở giao hàng là CIF,
5


người bán trả phí vận chuyển nhưng khơng chịu rủi ro cho hàng hóa trên chặng vận
chuyển biển.

Sơ đồ mơ tả chi tiết điều kiện CIF
* FOB ( Free on Board)
FOB là một thuật ngữ trong Tiếng Anh của cụm từ Free on board, theo đó người
bán hàng hồn thành trách nhiệm khi hàng đã được xếp lên boong tàu tại cảng xếp
và thường được viết liền với một tên cảng biển nào đó, chẳng hạn: FOB SaiGon.
Khi sử dụng điều khoản FOB trong mua bán hàng hóa, người bán phải có trách
nhiệm mang hàng từ kho người bán ra cảng và xếp hàng lên tàu. Họ sẽ phải chịu
mọi chi phí vận chuyển hàng, làm thủ tục xuất khẩu, thuế (nếu có) cũng như các chi
phí phát sinh. Người mua sẽ book tàu vận chuyển hàng, chịu chi phí cước biển, làm
thủ tục thông quan nhập khẩu, thuế (nếu có) cũng như các chi phí phát sinh khác,
cho đến khi hàng về đến kho người mua. Nếu hàng hóa chưa được xếp lên tàu thì
trách nhiệm vẫn là của người bán, cịn nếu hàng hóa đã được xếp lên tàu thì trách
nhiệm sẽ thuộc về người mua.

6



Sơ đồ mô tả chi tiết FOB
CIF và FOB ra đời theo phiên bản Incoterms đầu tiên vào năm 1936, nhưng trên
thực tế, Incoterms 1936 không được các nhà kinh doanh thừa nhận và sử dụng rộng
rãi vì khơng giải thích hết được những tập quán thương mại quan trọng. Sau 84 năm
bổ sung thêm những điều khoản phức tạp hơn nhưng thuận lợi cho cả đôi bên mua
bán, Incoterms 2020 đã giúp CIF và FOB được áp dụng rộng rãi toàn cầu, giải quyết
các vấn đề về xuất nhập khẩu hay rủi ro về bảo hiểm, giá cả và các chi phí phát
sinh.
Việc các doanh nghiệp tại Việt Nam thường nhập CIF xuất FOB trong quá trình
xuất nhập khẩu hàng hóa sẽ tránh được những rủi ro về giá bảo hiểm và thuê tàu
trong giao dịch, tránh được sức ép từ một số doanh nghiệp nước ngồi vì họ có thể
dùng thủ thuật để chào bán giá FOB và CIF cao hơn.
Cụ thể với các doanh nghiệp về gỗ tại Việt Nam, nhập CIF xuất FOB chiếm tới
80%. Trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ đạt con số trên 12,01 tỷ
USD thì giá trị xuất khẩu mang lại theo phương thức FOB đã chiếm tới 81,4% tổng
giá trị xuất, đạt 9,78 tỷ USD, trong khi xuất theo CFR, CIF và phương thức khác
giảm xuống và chiếm tỷ lệ nhỏ lần lượt ở mức 10,5%; 3,8% và 4,2%. Chứng tỏ rằng
lựa chọn phương thức xuất khẩu theo FOB sẽ khiến doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động xuất nhập khẩu nhưng cũng phản ánh những hạn chế về năng lực
của doanh nghiệp Việt.

7


Tỷ trọng xuất khẩu Gỗ và sản phẩm gỗ (G&SPG) theo giá FOB so với các
phương thức khác
2. Thực trạng của thói quen nhập CIF – bán FOB của các doanh nghiệp tại
Việt Nam
2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng vào “xuất FOB - nhập CIF”
Khi xuất khẩu hàng hóa từ các nước cơng nghiệp phát triển, người bán thường tìm

ra mọi cách giao hàng với điều kiện giá hàng hóa cộng với bảo hiểm và cước phí,
bán theo giá CIF. Khi mua sản phẩm, chẳng hạn như khi nhập khẩu, người mua có
xu hướng mua theo điều kiện giao hàng trên tàu, hoặc giá FOB.
Đa số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta đang làm theo hướng hoàn toàn
ngược lại, việc mua giá CIF - bán giá FOB ở VN hiện nay chiếm đến 90 - 95%. Khi
muốn xuất khẩu, các công ty Việt Nam gửi hàng theo giá FOB (free on board), tức
là họ giao hàng cho người mua tại lan can tàu ở Việt Nam. Hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam mua hàng trên tàu của người bán tại cảng Việt Nam. Trong khi
hàng tỷ USD đang được đầu tư vào các cảng Việt Nam thì hàng tỷ USD lợi nhuận
từ việc vận chuyển lại được đội tàu nước nước ngoài chiếm được dễ dàng. Hàng
năm, khoảng 80% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển
bằng đường biển nhưng đội tàu Việt Nam mới chỉ chiếm được khoảng 20% lợi
nhuận, 80% còn lại của ngành hàng dễ kiếm lợi nhuận này do các đội tàu biển nước
ngoài sở hữu. Khi nhập giá CIF, chúng ta đã mua các mặt hàng nước ngoài với giá
bị thổi phồng đáng kể, dẫn đến khơng chỉ mất tiền cho hàng hóa ban đầu mà cịn
mất ngoại tệ, do phải bổ sung chi phí vận chuyển và bảo hiểm. Trong khi đó, việc

8


xuất giá FOB lại không thu được một nguồn ngoại tệ đủ nhiều để bù lại, vì thế dẫn
đến thâm hụt thương mại trong thời gian dài.
Do từ lâu, khi cơ sở hạ tầng Việt Nam còn chưa phát triển, các doanh nghiệp ln
có truyền thống “Xuất FOB - Nhập CIF” và đến tận bây giờ vẫn còn tồn tại, các
doanh nghiệp vẫn tiếp tục đi theo lối mòn này. Khơng hẳn phương thức này hồn
tồn bất lợi, song vẫn cịn một số lợi ích nhất định ở các khía cạnh khác nhau.
2.2. Lợi ích của việc “Xuất FOB - Nhập CIF”
2.2.1. Lợi ích của xuất FOB
Khi xuất khẩu theo giá FOB, bên bán tại Việt Nam sẽ không phải chịu trách nhiệm
thuê tàu và không phải mua bảo hiểm, những vấn đề này đều do người mua thực

hiện. Về mặt thanh tốn, nếu chọn bán FOB thì sẽ ít gặp rủi hơn.
Ví dụ như lơ hàng có giá trị cao mà bên phía người mua gặp những rắc rối nên
khơng thể thanh tốn lơ hàng đó thì người bán Việt Nam sẽ gặp ít tổn thất hơn (do
chi phí bảo hiểm và chi phí thuê tàu là do người mua trả). Bán FOB giải quyết được
tình trạng vốn thấp của các doanh nghiệp Việt Nam do không đủ vốn để trả trước
cho cước phí vận tải và bảo hiểm.
2.2.2. Lợi ích của nhập CIF
Trong điều kiện của CIF, nghĩa vụ của người mua ít hơn so với người bán, theo đó
nếu nhập khẩu giá CIF người mua Việt Nam sẽ không phải chịu trách nhiệm trong
việc thuê tàu, mua bảo hiểm. Điều này rất có lợi cho người mua Việt Nam vì trong
lĩnh vực vận tải và bảo hiểm bên phía Việt Nam vẫn cịn yếu kém, nếu chọn nhập
khẩu theo giá này sẽ tránh được rủi ro trong quá trình vận tải (thuê tàu và vận
chuyển), mua bảo hiểm khi có tranh chấp xảy ra.
2.3. Bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi “ Xuất FOB – Nhập CIF”
Thứ nhất, khi nhập khẩu theo giá CIF và xuất khẩu theo giá FOB thì người nhập
khẩu Việt Nam (trong điều kiện CIF) và người xuất khẩu Việt Nam (trong điều kiện
FOB) sẽ phải chi trả một mức giá cao hơn khi nhập khẩu theo giá CIF, bán giá thấp
hơn khi xuất khẩu theo giá FOB. Vì bên đối tác đã chịu chi phí vận chuyển quốc tế,
9


thuế và bảo hiểm, họ hồn tồn có thể tăng giá sản phẩm, dịch vụ liên quan và gây
thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, nếu Việt Nam chọn xuất khẩu theo điều kiện FOB, bên nước ngoài sẽ đảm
nhận việc chọn phương thức vận tải, có thể dẫn đến việc tàu sẽ không phù hợp với
đặc điểm của Cảng Việt Nam, mà khi hàng hóa được chất lên tàu thì trách nhiệm
của bên Việt Nam mới chấm dứt. Nếu tàu khơng phù hợp với bến cảng, có thể gây
bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam khi đó việc gia tăng các thủ tục phức tạp, cồng
kềnh dẫn đến việc bốc vác hàng hóa lên tàu bị khó khăn, gián đoạn, làm cho các chi
phí, thuế quan khơng đáng có phát sinh, dẫn đến lợi nhuận bị giảm đáng kể.

Thứ ba, nếu Việt Nam không chủ động trong việc quyết định phương thức vận tải,
họ có thể bỏ qua các ưu đãi của hãng tàu trong quá trình vận chuyển, bỏ qua triển
vọng tìm kiếm nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn, chuyên
nghiệp hơn.
Thứ tư, nếu xuất khẩu theo giá CIF chứ không phải giá FOB như hiện tại, chúng ta
sẽ thu được nhiều ngoại tệ hơn, vì giá xuất khẩu của CIF cao hơn giá xuất khẩu
FOB, nên lượng ngoại tệ mà ta nhận được sẽ cao hơn rất nhiều. Từ đó giá trị việc
xuất nhập khẩu trở nên tăng cao, thu được lợi nhuận đáng kể, giúp tăng trưởng nền
kinh tế, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng đất nước xã hội tiên tiến, thịnh
vượng.
Thứ năm, bằng cách lựa chọn nhập khẩu CIF và xuất khẩu FOB thì ta đã loại bỏ
một số lượng lớn cơ hội việc làm cho lao động trong nước. Do không được lựa chọn
phương thức vận tải và không chịu trách nhiệm mua bảo hiểm khi xuất nhập khẩu
với hai điều kiện này nên ngành vận tải và bảo hiểm sẽ bị mất nhân lực. Cuối cùng,
các ngành vận tải và bảo hiểm trong nước sẽ có ít cơ hội hơn để kết nối mạng lưới,
nâng cao chuyên môn và nâng cao chất lượng.
Vậy nên, với thói quen lối mịn từ xưa, lựa chọn phương thức xuất khẩu theo FOB,
nhập khẩu theo CIF sẽ khiến doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động xuất
nhập khẩu, tránh được những thủ tục, công đoạn phức tạp nhưng đồng thời bỏ qua
những quá trình, việc làm có thể gia tăng nhiều hơn về lợi nhuận, bỏ qua cơ hội đầu

10


tư phát triển của một số ngành nghề liên quan, có thể dẫn đến tăng trưởng nền kinh
tế bị chậm đi đáng kể.
3. Nguyên nhân của việc nhập CIF, xuất FOB tại Việt Nam
3.1. Ngành hàng hải trong nước chưa đủ mạnh và ngành bảo hiểm chưa đủ uy
tín
Nguyên nhân chính của việc “mua CIF, bán FOB” là tàu vận chuyển của Việt

Nam thường cũ nát, lạc hậu và thời gian sử dụng đã quá lâu (thường là 10 - 20 năm,
hoặc lên đến 25 - 30 năm). Cơ sở vật chất kém dẫn đến việc tiêu hao nhiều nhiên
liệu, chi phí sửa chữa cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng
hải chưa mở rộng ra nước ngoài, mạng lưới vận tải của Việt Nam và hệ thống đại lý
ở nước ngồi cịn ít, giá cước vận chuyển cao so với mặt bằng chung của các đơn vị
vận chuyển nước ngoài. Ngoài ra, các đội tàu của Việt nam chủ yếu vận tải theo
từng chuyến, tình trạng tàu chạy khơng thường xun, làm tăng chi phí vận tải, kéo
giá thành vận tải tăng theo. Do đó, ngành hàng hải Việt Nam chưa thể đáp ứng được
nhu cầu vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu trong một khoảng thời gian dài.
Thời gian trước đây, Việt Nam chỉ có một cơng ty bảo hiểm độc quyền nên
việc giải quyết khiếu nại và bồi thường tổn thất cho khách hàng cịn chậm trễ và gặp
nhiều khó khăn, thiếu uy tín đối với khách hàng nước ngồi, ngay cả đối với khách
hàng trong nước cũng rất thấp.
Đội ngũ cán bộ ngành bảo hiểm tại Việt Nam chưa được đào tạo chuyên sâu,
dẫn đến chất lượng nhân lực còn thấp, việc giải quyết vấn đề khiếu nại còn lúng
túng, kéo dài thời gian bồi thường, từ đó làm giảm uy tín của cơng ty. Ngồi ra, vốn
của các cơng ty này vẫn cịn ít, do vậy nhà xuất khẩu thường phải tái bảo hiểm ở các
cơng ty bảo hiểm nước ngồi khi số tiền bảo hiểm quá lớn. Mặt khác, cách tính phí
bảo hiểm của các cơng ty này cịn chưa hợp lý khiến doanh nghiệp xuất nhập khẩu
thấy quyền lợi của họ không được bảo đảm khi nhận được số tiền bồi thường không
thỏa đáng.
3.2. Tâm lý sợ rủi ro và sự rời rạc của các ngành thuộc hệ thống vận chuyển
quốc tế
11


Do mua CIF bán FOB, các doanh nghiệp Việt Nam không cần phải thuê tàu
vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hố nên có thể tránh được những rủi ro như
không thuê được tàu, tàu không phù hợp, giá cước vận chuyển và giá bảo hiểm tăng.
Vì vậy, các doanh nghiệp này nhượng lại việc thuê tàu và mua bảo hiểm cho bên

nước ngồi. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn phải gặp trở ngại về hành lang pháp
lý thuế và hải quan. Vẫn còn nhiều bức xúc của doanh nghiệp mà ngành chức năng
chưa thể giải quyết ngay được. Đó là những quy định thuế ưu đãi đối với việc mở
rộng đầu tư đang gây khó cho doanh nghiệp. Vì thuế ưu đãi liên quan cả Luật Đầu
tư và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Những luật này ở từng thời điểm khác nhau
đều có sửa đổi, điều chỉnh và mỗi nơi vận dụng một cách, gây khó khăn cho doanh
nghiệp. Thủ tục giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu được thực hiện trên phạm vi cả
nước nhưng cách thực hiện của ngành chức năng giữa các tỉnh, thành không thống
nhất với nhau. Điều này gây trở ngại lớn cho doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị hồ
sơ và các bước thực hiện. Cùng với đó là quy định khi hàng hóa đi qua khu vực
giám sát tự động của cơ quan hải quan, dù khơng cịn có cơng chức hải quan đóng
dấu và giảm tải được nhiều thủ tục giấy tờ nhưng thực tế lại nảy sinh những vướng
mắc khác.
Do khơng có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ hàng, chủ tàu và công ty bảo hiểm
nên thường hay xảy ra tình trạng có hàng để xuất nhưng thiếu tàu vận chuyển hoặc
ngược lại, thiếu hàng để xuất nhưng lại thừa tàu vận chuyển. Trong khi đó ở nước
ngoài, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, vận tải và bảo hiểm liên kết rất chặt chẽ
với nhau vì lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích quốc gia, ví như các cơng ty
bắt tay nhau và ăn chia hợp đồng, hoặc công ty mẹ sẽ cung cấp cả 3 dịch vụ trên.
Bên cạnh đó, có những khách hàng nước ngoài sẵn sàng mua CIF bán FOB nhưng
với điều kiện ta phải thuê tàu của họ. Do đó, muốn tạo được sự liên kết giữa các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các cơng ty vận tải và bảo hiểm thì cần có sự hỗ trợ
của Nhà nước và sự hỗ trợ này đóng vai trị rất quan trọng.
3.3. Một số cơng ty nước ngồi gây sức ép hoặc dùng những thủ thuật trong
đàm phán để giành quyền kinh doanh hàng hóa, bảo hiểm

12


Nhiều người kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam chưa có đầy đủ kiến thức

về nghiệp vụ thuê tàu và bảo hiểm, họ cũng khơng có nhiều mối quan hệ với các
hãng vận tải và công ty bảo hiểm nên rất khó khăn trong việc thuê được hãng
chuyên chở uy tín. Trong trường hợp số lượng hàng hóa cần vận chuyển quá lớn,
nghiệp vụ thuê tàu chuyên chở rất phức tạp thì nhiều lãnh đạo của doanh nghiệp
Việt Nam có trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, với kinh
nghiệm cịn non trẻ, chưa được trải nghiệm nhiều nên các doanh nghiệp Việt Nam
dễ dàng bị một số cơng ty nước ngồi gây sức ép hoặc dùng những thủ thuật trong
đàm phán để giành quyền vận chuyển, bảo hiểm hàng hoá. Họ thường chào hàng
hoặc đề nghị mua với giá FOB cao hơn giá CIF đã trừ đi bảo hiểm và cước phí vận
tải, sau đó khi thương lượng họ chấp nhận bán với giá CIF hoặc mua với giá FOB.
Với thủ thuật này, các doanh nghiệp Việt Nam thường chấp nhận “mua CIF bán
FOB”.
GIẢI PHÁP
1. Chuyển sang Nhập FOB - Xuất CIF:
Đối với doanh nghiệp, lợi ích hiện hữu nhất là giành được quyền vận tải và
quyền bảo hiểm cho hàng hóa. Khi doanh nghiệp chủ động tiến hành việc vận
chuyển, họ sẽ biết cước phí vận tải, chi phí bảo hiểm thực tế, trong khi các đối tác
có thể cộng thêm lợi nhuận vào các chi phí trên khi họ nắm được quyền vận tải.
Doanh nghiệp thường xuyên thuê tàu hay sử dụng dịch vụ bảo hiểm còn được
hưởng các ưu đãi về giá cả hay thời hạn thanh toán. Hơn nữa, chủ hàng cũng sẽ chủ
động hơn trong việc quy định thời gian vận chuyển hay khối lượng vận chuyển
mang lại nhiều lợi ích nhất cho doanh nghiệp. Hoặc khi vấn đề phát sinh, doanh
nghiệp có thể làm việc trực tiếp với đơn vị vận chuyển và quá trình giải quyết tranh
chấp sẽ diễn ra nhanh chóng hơn.
Xuất khẩu bằng điều kiện CIF và nhập khẩu bằng điều kiện FOB không chỉ
mang lại một nguồn ngoại tệ cho quốc gia mà còn làm giảm chi tiêu ngoại tệ, vì giá
nhập FOB sẽ thấp hơn so với giá nhập CIF do trong giá CIF đã bao gồm cước vận
tải và phí bảo hiểm. Ngồi ra việc sử dụng dịch vụ vận tải trong nước cũng thúc đẩy
ngành vận tải, giao nhận trong nước phát triển, nâng cao vị thế của vận tải nước nhà
13



trên thị trường quốc tế, tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong ngành
logistics.
2. Giải pháp cho thực trạng “Nhập CIF, xuất FOB”:
2.1. Các kiến nghị về phía Nhà nước:
Nhà nước đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng phát triển
của ngành Logistics trong nước nói chung và tập quán sử dụng điều kiện giao hàng
của các doanh nghiệp nói riêng. Chỉ số LPI (Logistics Performance Index) của
Ngân hàng thế giới năm 2018 cho thấy sự phát triển vượt bậc của ngành Logistics
Việt Nam những năm qua, nhưng mức đánh giá về thủ tục hải quan và chất lượng
cơ sở hạ tầng vẫn còn thấp khi so sánh với các nước trong khu vực (Thái Lan và
Trung Quốc). Vì vậy việc cải tạo và nâng cao chất lượng hệ thống Logistics khơng
chỉ giúp khuyến khích các chủ hàng đàm phán các điều khoản Incoterms có lợi mà
còn tăng cường kiến thức nghiệp vụ để quản trị các rủi ro gặp phải trong giao dịch
thương mại quốc tế. Các kiến nghị về phía Nhà nước cụ thể như sau:
2.1.1. Đầu tư cơ sở hạ tầng cảng biển và các hạ tầng lân cận
Các điều khoản FOB và CIF đều là những điều khoản giao hàng theo phương
thức vận tải biển và thủy nội địa, Nhà nước nên chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này
nhằm góp phần cải thiện vị thế của doanh nghiệp Việt trên thị trường quốc tế. Hiện
nay, Việt Nam có 45 cảng biển nhưng phân bổ lưu lượng hàng hóa khơng đồng đều
giữa các cảng biển. Khu vực đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ điển hình,
phần lớn hàng hóa nông sản và hoa quả xuất khẩu của cả nước tập trung tại đây,
những khu vực này khơng có cảng nước sâu phục vụ việc vận chuyển quốc tế nên
các chủ hàng phải vận chuyển hàng hóa về các cảng ở thành phố Hồ Chí Minh hay
Bà Rịa – Vũng Tàu. Việc phát sinh nhiều loại chi phí trong quá trình vận chuyển và
chi phí ln thay đổi liên tục theo giá dầu thế giới sẽ khiến các chủ hàng e ngại khi
đàm phán giành quyền vận chuyển về phía mình. Báo cáo Logistics năm 2020 cũng
chỉ ra rằng giá cước vận chuyển gạo sẽ giảm 10 USD/tấn nếu hàng hóa được xuất
khẩu trực tiếp so với khi vận chuyển về thành phố Hồ Chí Minh bằng đường bộ. Vì

vậy Nhà nước cần xây dựng, triển khai những chính sách đầu tư phát triển đồng
đều, tương xứng giữa các khu vực.
14


Hơn nữa, quy hoạch hạ tầng giao thông liên quan làm giảm áp lực tắc nghẽn
giao thông tại các tuyến đường kết nối cảng biển cũng là một giải pháp thiết yếu.
Tuyến giao thơng chính để kết nối với cảng biển cửa ngõ quốc tế tại Việt Nam chủ
yếu vẫn là đường bộ, nên cần phải đa dạng hóa phương thức kết nối cảng biển thơng
qua chính sách, dự án phát triển thêm các tuyến đường sắt, đường thủy nội địa bên
cạnh tuyến đường bộ chính sẽ hỗ trợ cho việc lưu thơng hàng hóa.
2.1.2. Xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả và chi phí hoạt động Logistics
Việt Nam vẫn chưa có một nguồn cơ sở dữ liệu thống nhất về các chỉ số
đánh giá hiệu quả hoạt động Logistics như: doanh thu, chi phí từ hoạt động
logistics, số lượng doanh nghiệp logistics và nguồn nhân lực logistics Việt Nam.
Nên cho triển khai nghiên cứu và xây dựng một hệ thống đánh giá bài bản, thống
nhất sẽ xóa bỏ rào cản hay sự bất cân xứng thông tin trên thị trường. Doanh nghiệp
sẽ xác định được vị thế của mình trong các giao dịch thương mại quốc tế và có đủ
năng lực để đảm nhận nghĩa vụ trong các điều khoản Incoterms. Đặc biệt cần chú ý
đến các chỉ tiêu về chi phí logistics quốc gia và doanh nghiệp, để đánh giá đúng
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp logistics và động thái phát triển ngành
logistics. Ngoài ra cũng cần bổ sung thêm các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật nhằm đánh
giá một cách khách quan và khoa học hơn. Việt Nam có thể áp dụng khung đánh giá
chi phí Logistics của nước ngồi, ví dụ như Hàn Quốc. Cụ thể, chi phí Logistics sẽ
được chia thành 6 loại:
- Chi phí vận chuyển: gồm chi phí vận chuyển và các chi phí đại lý liên quan đến
người giao hàng.
- Chi phí lưu trữ hàng tồn kho: gồm chi phí lưu trữ, vốn đầu tư hàng tồn kho,...
- Chi phí đóng gói: bao gồm chi phí đóng hàng và chi phí bao bì.
- Chi phí bốc xếp: được tính theo chuỗi vận tải, bằng cách tính chi phí bốc xếp cho

từng phương thức vận chuyển khác nhau như: chi phí bốc xếp tại cảng, chi phí bốc
xếp trong vận chuyển đường bộ.
- Chi phí thơng tin: bao gồm chi phí xử lý và quản lý thơng tin cho tồn bộ hoạt
động logistics.
- Chi phí quản lý: bao gồm tất cả các chi phí được sử dụng để hỗ trợ các hoạt động
logistics.
15


2.1.3. Tăng cường nhận thức về giao dịch thương mại quốc tế và bộ quy tắc
Incoterms:
Các giao dịch quốc tế, xuyên biên giới chiếm phần lớn doanh thu của các
doanh nghiệp, để phát triển hiệu quả và có chính sách phát triển phù hợp cần tăng
cường hơn nữa nhận thức về thương mại quốc tế và các điều khoản giao hàng trong
Incoterms. Chỉ khi nhận thức đầy đủ về thương mại quốc tế, các cơ quan quản lý
nhà nước, các ngành mới có thể quản lý, kết nối hiệu quả các ban ngành trong nền
kinh tế quốc dân, tạo các điều kiện thuận lợi nhất cho thương mại phát triển, góp
phần đẩy nhanh q trình chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Do
vậy cần đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông về thương mại quốc tế và các điều
khoản về Incoterms thông qua các hội nghị, hội thảo, phương tiện truyền thơng đại
chúng. Qua đó, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt về các điều khoản giao
hàng trong Incoterms và thúc đẩy sử dụng dịch vụ của các hãng tàu, công ty bảo
hiểm nội địa, từ đó góp phần giảm thiểu chi phí, rủi ro cho doanh nghiệp nói riêng
và mang lại lợi ích cho nền kinh tế nước nhà nói chung. Ngồi ra, ứng dụng công
nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu trực tuyến trong q trình truyền thơng sẽ tiếp cận
đến nhiều chủ hàng hơn và hiệu quả hơn so với tổ chức các hội thảo truyền thống
vốn tốn kém nhiều nguồn lực.
2.2. Các giải pháp về phía doanh nghiệp Logistics:
Một trong những phương pháp hiệu quả để các chủ hàng thay đổi thói quen
sử dụng Incoterms trong giao dịch thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp

Logistics có thể thực hiện chính là cải thiện chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa hoạt
động kinh doanh. Theo Armstrong & Associate (2017), chi phí Logistics của Việt
Nam chiếm 20,8% trong tổng giá trị GDP trong khi con số đó của thế giới chỉ ở
mức 11,7%. Chi phí cao và biến động liên tục sẽ khiến các chủ hàng e dè trong việc
đàm phán quyền vận tải và bảo hiểm hàng hóa. Cải thiện chất lượng dịch vụ sẽ làm
cho chi phí Logistics được cải thiện một cách tối ưu, từ đó tăng sức cạnh tranh và
tạo mức độ tin cậy giữa các doanh nghiệp Logistics và chủ hàng. Mơ hình chất
lượng dịch vụ của Parasuraman và cộng sự (1988) được sử dụng như một thang đo
16


giúp các doanh nghiệp Logistics đánh giá hiệu quả dịch vụ thơng qua 5 tiêu chí:
mức độ đảm bảo, mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, mức độ đồng cảm và chất
lượng cơ sở vật chất. Mơ hình chất lượng dịch vụ không chỉ cung cấp công cụ giúp
doanh nghiệp Logistics định hướng đường lối phát triển mà còn cung cấp cho các
chủ hàng một khung đánh giá nhằm xác định những nhà cung cấp dịch vụ Logistics
phù hợp với tiêu chí đề ra.
Ngồi ra, các hãng tàu, cơng ty bảo hiểm cũng cần chủ động tiếp cận, đẩy
mạnh truyền thông tới các chủ hàng để tăng mức độ hiện diện của hình ảnh doanh
nghiệp trong mắt các chủ hàng. Thông qua các hội thảo, workshop để giới thiệu,
hướng dẫn sử dụng các sản phẩm của mình, doanh nghiệp Logistics có thể thấu hiểu
những khó khăn của khách hàng hơn để từ đó đẩy mạnh q trình th ngồi và sử
dụng dịch vụ Logistics nội địa.
2.3. Các giải pháp về phía doanh nghiệp xuất nhập khẩu
2.3.1. Nâng cao kiến thức về các điều kiện thương mại đối với các doanh
nghiệp
Doanh nghiệp nên thực hiện việc huấn luyện, thuê những nhà tư vấn về xuất
nhập khẩu để nâng cao hiểu biết về những điều kiện giá FOB và CIF, đặc biệt là cập
nhật kiến thức về các điều khoản Incoterms mới nhất. Tham gia vào các hiệp hội
ngành hàng và chủ hàng để tiếp nhận thông tin về những mối quan tâm chung của

ngành hàng, thúc đẩy nhau thay đổi thói quen nhập CIF xuất FOB.
2.3.2. Đối phó vấn đề thiếu vốn của Doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu theo giá quy định trong điều kiện
FOB, khoản tiền ký quỹ mà các doanh nghiệp cần phải trả để mở L/C sẽ ít hơn.
ngồi ra, nếu nhập giá CIF, doanh nghiệp không bị dồn vốn, tức là khi doanh nghiệp
huy động một lượng vốn lớn vào 1 thương vụ, hoặc trường hợpk doanh nghiệp
không cần phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền cước tàu, do đó giảm được giá
thành hàng nhập khẩu. Giữa những doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhỏ nên xây dựng
mối quan hệ gắn bó, tạo nên sự tin cậy lẫn nhau để thực hiện việc tập trung vốn và

17


cùng nhau hợp tác thành cơng, tạo nên thói quen mới và ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu mới sau này.
2.3.3. Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và các kỹ năng trong đàm phán giao
dịch quốc tế
Nhất thiết trong đàm phán với đối tác nước ngồi thì doanh nghiệp phải chủ
động gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp bảo hiểm và logistics trong nước để tạo
thói quen mới. Trong đàm phán thì doanh nghiệp phải có đủ trình về ngoại ngữ và
kiến thức chun mơn để thuyết phục đối tác chấp nhận điều khoản có lợi cho
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần hỗ trợ và tư vấn nhau
về lợi thế của việc mua FOB bán CIF, hưởng ứng các hoạt động tuyên truyền, phổ
biến quan điểm này vì lợi ích của ngành hàng và của quốc gia trong thời kỳ hội
nhập và phát triển kinh tế.

18


LỜI KẾT

Đối với các doanh nghiệp trong ngành xuất nhập khẩu ở Việt Nam, việc mua CIF
bán FOB đã trở thành thói quen, nhưng chúng ta cần xem xét, nhìn nhận và thách
thức đối với các quan điểm của những người đi trước và đúc nên lối riêng.
Việc mua FOB bán CIF sau khi được phân tích mang lại nhiều lợi ích hơn như cho
phép doanh nghiệp quyền quyết định vận tải để phát sinh thêm lợi nhuận và thu thập
ngoại tệ cho nền kinh tế nước nhà qua các dịch vụ bảo hiểm và vận tải nội địa. Thế
nên khi ta chấp nhận mua CIF bán FOB thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của
nước ta đang từ chối nguồn lợi cho bản thân doanh nghiệp cũng như nguồn lợi của
quốc gia.
Lý do thực trạng này vẫn còn tiếp diễn là do Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm
trên thương trường toàn cầu, dễ dàng bị các nước phát triển chèn ép tranh giành
nguồn lợi. Trách nhiệm thuộc về mọi bên: trách nhiệm thuộc về Nhà Nước cần có
những chính sách đối đãi và khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tạo
quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp dịch vụ bảo hiểm, vận tải, trách nhiệm thuộc
về phía các doanh nghiệp dịch vụ trên nâng cao chất lượng và cơ sở hạ tầng để có
thể cạnh tranh với dịch vụ ngoại biên và cuối cùng trách nhiệm thuộc về bản thân
doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa chuyên nghiệp trong việc đàm phán thương
lượng với khách hàng và người bán ngoại quốc, tạo thành thói quen để doanh
nghiệp nước ngồi hưởng lợi trong cơng đoạn giao dịch thương mại quốc tế.
Có lẽ qua thời gian và kinh nghiệm, vấn đề mua CIF và bán FOB sẽ được giải
quyết, khẳng định thế mạnh của Việt Nam trên thương trường quốc tế và cho nền
kinh tế nước nhà hưởng lợi. Nhưng để đến được tương lai ấy, ta cần sự chủ động
phối hợp chặt chẽ từ các phía nhà nước, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, dịch vụ bảo
hiểm và vận tải, lên những nhà tư vấn xuất nhập khẩu dẫn dắt và quan trọng là từ
những nhà ngoại thương tương lai dám đối đầu với những thói quen của ngành nghề
và đưa ra quyết định đúng đắn cho doanh nghiệp, tạo nên làn sóng mới, thay đổi
thực trạng mua CIF bán FOB này.
19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] LE, A. (2018). Tại sao công ty xuất nhập khẩu Việt thường xuất FOB và nhập
CIF? [online] xuatnhapkhauleanh.edu.vn. Available at: link [Accessed 9 Mar.
2022].
[2] CAO VAN, A. (2020). Nhập CIF – Xuất FOB, “Thói quen” của các doanh
nghiệp Xuất Nhập. [online] baotaidua.vn. Available at: link [Accessed 9 Mar.
2022].
[3] SAPIRO (2013). Nine Reasons Why Buying Your Imports on CIF Terms Is Too
Good to Be True. [online] Shapiro. Available at: link [Accessed 9 Mar. 2022].
[4] KET NOI (2013). Tìm hiểu mua CIF, bán FOB của các doanh nghiệp nhập khẩu
Việt Nam. [online] Kết Nối - Blog Giáo dục và Công Nghệ. Available at: link
[Accessed 9 Mar. 2022].
[5] TRAN, T.V. (2020). Tổng hợp các bản Incoterms từ 1936-2020. [online] Diễn
đàn xuất nhập khẩu và logistics lớn nhất Việt Nam. Available at: link [Accessed 9
Mar. 2022].
[6] NGUYEN, H.L. (2019). Tm - Exercises - TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- ĐẠI
HỌC ĐÀ NẴNG KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ ĐỀ ÁN KINH DOANH.
[online] StuDocu. Available at: link [Accessed 9 Mar. 2022].
[7] TOÀN, M. (2019) MUA CIF - BÁN FOB - Masimex - Đào tạo Xuất nhập khẩu
& Logistics, Masimex - Đào tạo Xuất nhập khẩu & Logistics. Available at: link
[Accessed: 9 March 2022].

20


[8] MAI, K. (2022) Thực tế nhập CIF xuất FOB của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam - Tài liệu text, Text.123docz.net. Available at: link [Accessed: 9
March 2022].
[9] CIF-FOB và tự sự của cựu sinh viên ngoại thương (1970). Available at: link
[Accessed: 9 March 2022].

[10] WEBTRETHO.COM (2021). 6 nguyên nhân dẫn đến thói quen mua CIF bán
FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. [online] Cộng đồng
Webtretho. Available at: link [Accessed 9 Mar. 2022].
[11] LEC (2020) Nhập FOB bán CIF nên hay không nên? (2022). Available at: link
[Accessed: 9 March 2022].
[12] ADVANTAGE, L. (2020) FOB Và CIF Có Nghĩa Là Gì? Tại Sao Lại Có Chủ
Trương Khơng Nên "Mua CIF, Bán FOB"? - Advantage Logistics (2020). Available
at: link [Accessed: 9 March 2022].
- HẾT -

21



×