Lời nói đầu
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là th-
ờng xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng
tiện thanh toán.
Hai mảng hoạt động chính của NHTM là huy động và cho vay
vốn, đây là 2 mặt đối lập trong một chỉnh thể thống nhất là hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Tất cả các NHTM đều sử dụng 1 lợng vốn lớn hơn
nhiều làm số vốn tự có của mình để cho vay. Để có đợc lợng vốn lớn đó,
các NHTM phải huy động từ nhiều nguồn trong xã hội và phải hoàn trả
một cách đầy đủ khi đến hạn. Trên cơ sở nguồn vốn đã huy động đợc
công với vốn tự có của mình, các NHTM sẽ đầu t trở lại cho nếu khi hai
quá trình huy động và cho vay vốn đợc tiến hành 1 cách bình thờng thì
hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ diễn ra trôi chảy, thuận lợi. Nhng
khi một trong hai quá trình đó bị ách tắc thì sẽ gây ra những khó khăn
cho hoạt động của NHTM.
Nh vậy, hoạt động tín dụng (hoạt động cho vay vốn) của NHTM
không chỉ là một trong hai hoạt động chủ yếu của NHTM, đem lạo phần
lớn thu nhập cho NHTM mà còn là cách thức tài trợ vốn cho nền kinh
tế. Ngày nay trong quá trình đổi mới, cải tổ hệ thống ngân hàng; hoạt
động tín dụng của các NHTM ở Việt Nam không tránh khỏi những khó
khăn, vớng mắc. Trong dồ án này em xin trình bày những tìm hiểu của
mình về khó khăn mà các NHTM ở Việt Nam đang gặp phải trong hoạt
động tín dụng và những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, góp phần mở
rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trong các NHTM ở Việt
Nam hiện nay. Với mong muốn nh vậy, đề án sẽ bao gồm những phần
sau:
I. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
thị trờng
1.1. Sự hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng
1.2. Sự tồn tại khách quan của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế
thị trờng.
1.3. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng
1.4 Các hình thức tín dụng ngân hàng
1.5. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
II. Những tồn tại trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt
Nam
2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM
2.2. Những khó khăn trong hoạt động tín dụng của NHTM
III. Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng của các NHTM Việt Nam
3.1. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng
3.2.1. Các giải pháp của nhà nớc
3.2.2. Các giải pháp của hệ thống ngân hàng
Với nỗ lực của bản thân và sự hớng dẫn của cô giáo Phạm Hồng
Vân em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, với hiểu biết còn hạn chế,
đề án này sẽ còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Em mong nhận đợc sự
đóng góp ý kiến của thầy cô, bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn.
i. những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng trong
nền kinh tế thị trờng
1.1 Sự hình thành và phát triển quan hệ tín dụng
Lịch sử kinh tế đã ghi nhận sự tồn tại và phát triển của tín dụng
ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng hiện nay bắt nguồn từ những quan
hệ tín dụng thô sơ, giản đơnkhi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã. Vào
thời điểm đó, chế độ t hữu t liệu xuất hiện cùng với sự phát triển của
phân công lao động xã hội, đã kéo theo sự ra đời của khái niệm hàng
hoá và hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá. T liệu sản xuất và sản
phẩm tiêu dùng không đợc phân bổ đồng đều mà tập trung vào một số ít
ngời trong xã hội , dẫn đến sự phân chia giai cấp và phân hoá giàu
nghèo. Trong xã hội đã xuất hiện tình trạng khó khăn, thiếu thốn tạm
thời các t liệu tiêu dùng và dần này sinh các quan hệ vay mợn dựa trên
cơ sở tin tởng lẫn nhau trong việc hoàn trả, là tiền thân của quan hệ tín
dụng sau này.
Trong giai đoạn đầu của xã hội, tín dụng đợc đặc trng bởi tín dụng
nặng lãi. Hình thức tín dụng này tồn tại phổ biến trong chế độ phong
kiến. Cơ sở tồn tại của tín dụng nặng lãi là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,
phân tán phu thuộc vào điều kiện tự nhiên. Ngời vay vốn phần lớn là
những ngời có đời sống bấp bênh, ít có sản phẩm d thừa, trong đó nhu
cầu vốn thì lại lớn và cấp thiết nhằm duy trì buôn bán, kinh doanh, thậm
chí chỉ để đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong đời sống. Những ngời có khả
năng cho vay thờng là những ngời giàu có, có nhiều quyền lực nh địa
chủ, quý tộc, quan lại và những ng ời chuyên cho vay nặng lãi.
Thông thờng, khi cho vay, ngời cho vay nặng lãi yêu cầu phải cầm
có đất đai, trâu bò, nhà cửa và sẵn sàng tớc đoạt hết tài sản này khi ngời
vay không trả đợc nợ.
Tín dụng nặng lãi đợc nhận dạng bởi các đặc điểm, đặc thù:
+Thứ nhất: lãi suất cao, nhiều lúc không chỉ ăn vào sản phẩm
thặng d mà còn ăn thêm vào sản phẩm tất yếu của ngời lao động, bởi
thông thờng cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng và các nhu cầu đó th-
ờng là bấp bênh, không thể trì hoãn
+Thứ hai: tín dụng nặng lãi thể hiện tính bóc lột đối với ngời đi
vay. Đây là hậu quả của đặc điểm trên.
+ Thứ ba: tín dụng nặng lãi thờng đáp ứng nhu cầu vốn cho tiêu
dùng hơn là cho sản xuất. Điều này cũng là hậu quả của đặc điểm thể
chất do mức lợi tức cho vay quá cao mà ngời vay không thể sử dụng vốn
vay vào mà sản xuất kinh doanh đợc.
Tín dụng nặng lại một mặt đã trở thành nhân tố kìm hãm sản xuất
xã hội, mặt khác đợc xem nh là một trong những nhân tố thúc đẩy kinh
tế tự cung, tự cấp tan rã, mở rộng kinh tế hàng hoá và tạo tiền đề cho
chủ nghĩa t bản ra đời.
Cùng với áp lực của một phơng thức sản xuất mới tiên tiến đạt
hiệu quả, phơng thức sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa và áp lực của
nhà nớc với các công cụ quản lý và điều hành kinh tế, pháp luật, tôn
giáo và các hội tín dụng, đã làm cho tín dụng nặng lãi không còn đất đất
để phát triển , nhờng chỗ cho sự bành trớng của tín dụng t bản chủ
nghĩa. Tín dụng t bản chủ nghĩa. Tín dụng t bản chủ nghĩa ra đời từng
bớc đáp ứng các nhu cầu đa dạng trong xã hội về vốn cho các dh sản
xuất, tiêu dùng trong xã hội. Do vậy, đã trở thành động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội.
Tín dụng t bản xét từ góc độ tái sản xuất t bản chủ nghĩa, là sự
vận động của t bản cho vay và có mối quan hệ trực tiếp với quá trình
tuần hoàn và chu chuyển t bản của các quá trình và sự phát triển của
nền sản xuất t bản chủ nghĩa. Tín dụng t bản chủ nghĩa ngày càng
phátáinh lớn mạnh, đa dạng và phong phú, do sự lớn mạnh của cung cầu
tín dụng và sự xuất hiện các nhà mối lái. Đó là các trung gian tín
dụng nh ngân hàng, quỹ tiết kiệm Trong nền kinh tế thị tr ờng tín
dụng ngày càng mở rộng với sự tham gia của những chủ thể nh: dân c,
chính phủ, tổ chức nớc ngoài cùng sự lớn mạnh của các trung gian tài
chính, đã làm hoạt động tín dụng trở nên thờng xuyên và không thể
thiếu trong nền kinh tế.
1.2. Sự tồn tại khách quan của quan hệ tín dụng trong nền
kinh tế thị trờng.
Nền kinh tế hàng hoá mà cách thức tổ chức kinh tế, xã hội trong
đó các quan hệ kinh tế giữa con ngời với nhau biểu hiện sự trao đổi,
mua bán hàng hoá trên thị trờng thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị tr-
ờng. Trong nền kinh tế thị trờng, cung cầu hàng hoá, dịch vụ gặp gỡ
nhau, cân bằng nhau và các quan hệ hàng hoá, tiền tệ đợc phát triển mở
rộng và bao quát nhiều lĩnh vực. Mọi quan hệ kinh tế và tác động rộng
rãi của các quy luật riêng của hàng hoá có ý nghĩa phổ biến đối với sản
xuất kinh doanh. Vì vậy, kinh tế thị trờng là giai đoạn cao của kinh tế
hàng hoá.
Trong cơ chế thị trờng, các quan hệ tín dụng tồn tại một cách
khách quan vì 3 lí do sau:
+Thứ nhất: do tính chất vốn d thừa là tạo thời nhàn rỗi. Trong quá
trình luân chuyển vốn (T-H SX H-T ) có đặc điểm thừa và thiếu
vốn tạm thời. Csc đơn vị kinh tế, các cá nhân này có thu nhập nhng cha
cần phải tiêu hoặc chỉ tiêu cha hết. Các đơn vị, cá nhân thiết vốn một
cách tạm thời khi cha có thu nhập nhng đã có nhu cầu chi tiêu hoặc tổng
thu không đủ chi. Nh vậy, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân sẽ xảy ra
một hoạt động thừa và thiếu vốn một cách tạm thời trong cùng một thời
gian. Trách nhiệm của nhà nớc là điều hoà nguồn vốn giữa nơi thừa
sang nơi thiếu để đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất của từng
đơn vị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong thực tế, có 2 phơng
pháp điều hoàn lại nguồn vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đó
là:
- Thông qua con đờng tài chính, tức là cấp phát vốn mà không
hoàn lại.
- Thông qua con đờng tín dụng, tức là điều hoà vốn có hoàn lại.
Nh vậy, để điều hoà vốn một cách tạm thời thì chỉ có thể thông
qua con đờng tín dụng.
+ Thứ hai: do chế độ sở hữu khác nhau về vốn.
Đa dạng hoá sở hữu là nhân tố cơ bản của nền kinh tế thị tr ờng,
tức là trong nền kinh tế thị trờng có nhiều chủ sở hữu khác về vốn. Các
nguồn vốn thuộc các chủ sở hữu khác trong quá trình luân chuyển cũng
mang đặc điểm là thừa vốn và thiếu vốn một cách tạm thời. Do vậy,
phải có sự đòi hỏi chuyển hoá về vốn giữa các hình thức sở hữu khác
nhau và trong nội bộ từng hình thức sở hữu khác nhau và trong nội bộ
từng hình thức sở hữu. Sự chuyển hoá số vốn đó là không xâm phạm đến
quyền sở hữu của ngời chủ của nó. Do vậy, ở đây chỉ có thể thông qua
con đờng tín dụng có vay có trả.
+ Thứ ba: Do yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế.
Chế độ quản lý đòi hỏi các doanh nghiệp đợc tự chủ về vốn và có
trách nhiệm bảo toàn vốn và phát triển vốn tự chủ sản xuất kinh doanh
và tiêu thụ sản phẩm để thực hiện thu bù chi có lãi, đồng thời thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nớc. Do vậy, yêu cầu các đơn vị kinh tế
phải sử dụng vốn một cách linh hoạt, kịp thời.
1.3. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp,
nh, bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, kí thác, phát hành
giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên
cam kết với nhau nh sau:
- Một bên thì trao ngay một số tài hoà hay tiên bạc. Số tài hoá đó
trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào
đó.
Nhà kinh tế pháp, ông Lovis Baundin đã định nghĩa tín dụng nh là
một sự trao đổi tài hoá hiện đại lấy một tài hoá tơng lai. ở đây, chúng
ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó, cho
nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai
bên đơng sự đối với nhau. Hai bên đơng sự dựa vào sự tín nhiệm, sử
dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.
Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai ng ời th-
ờng có thẻ cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta thấy
một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay khi nói tới tín dụng ng ời ta
nghĩ ngay tới ngân hàng, vì các cơ quan này chuyên làm các việc nh cho
vay, bảo lãnh, chiết khấu, kí thác và cả phát hành giấy bạc nữa. Mặt
khác, trong một nền kinh tế đã phát triển với thu nhập của những ngời
làm công ăn lơbg gần tơng đơng nhau, một hệ thống NHTM hiện đại thì
mọi ngời chỉ có thể vay mợn ngân hàng, hầu nh không vay mợn lẫn
nhau. Đó là lí do để ngời ta đồng nhất tín dụng với cho vay của ngân
hàng.
Luật Ngân hàng các nớc định nghĩa tín dụng nh sau:
Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó
một ngời đa hoặc hứa đa vốn cho một ngời khác dùng, hoặc cam kết
bằng chữ kí cho ngời này nh bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có
thu tiền. Định nghĩa này nêu ra ba trờng hợp:
1.3.1.Cho vay tiền hay còn gọi là cho vay ứng trớc là nghiệp vụ
tín dụng trong đod ngời cho vay cam kết giao cho ngời đi vay một
khoản tiền và ngời đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời gian nhất định.
Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho
vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lợng tiền và thời hạn vay. Loại cho vay
dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải đợc hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi
- Vốn vay phải đợc sử dụng đúng mục đích
- Vốn vay phải có tài sản tơng đơng làm đảm bảo.
1.3.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhợng trái quyền: loại tín
dụng này chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán các công cụ tài chính (hối
phiếu, lệch phiếu ), tạo ra nghiệp vụ chiết khấu th ơng phiếu của ngân
hàng, tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo
hạn của thơng phiếu.
Trong loại tín phiếu này, về phơng diện pháp lý, ngân hàng không
phải chovay mà là đợc mua một trái quyền. ở đây, ngân hàng ứng trớc
trị giá của một thơng phiếu cha đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền
sở hữu trái quyền của thơng phiếu đó. Nh vậy, trong loại cho vay này,
hành vi thơng mại đã phát sinh, nên việc thu nợ có cơ sở vững chắc.
Cũng trong loại tín dụng này, khách hàng là chủ một trái quyền có
kì hạn, nhng muốn có vốn ngay lập tức nên họ phải yêu cầu các ngân
hàng cấp cho ngay số tiền đó trừ đi phần trả lại. Đổi lại, họ chuyển nh -
ợng trái quyền cho ngân hàng và khi đến hạn, ngân hàng đòi tiền ngời
thụ trái hoặc ngân hàng sẽ đem chiết khấu tại NHTW khi cần vốn. Nh
vậy, tín dụng dựa trên việc chuyển giao trái quyền cho ngân hàng chủ
yếu là phơng thức chiết khấu, thơng phiếu và chuyển nhợng khoản cho
vay nghề nghiệp.
1.2.3. Cho vay qua cam kết bằng chữ ký
Trong hình thức tín dụng này, ngân hàng không ứng tiền ra, mà
chỉ cam kết khách hàng không trả đợc. Chính vì lí do bảo lãnh cho
khách hàng bằng uy tín của mình mà ngời ta gọi hành vi cam kết bảo
lãnh của ngân hàng là tín dụng qua chữ kí. Bảo lãnh là đa ra những cam
kết của ngân hàng dới hình thức cấp chứng th và hạch toán theo dõi ở
ngoài bảng cân đối, chứ thực tế không hoặc ha phải sử dụng ngay vốn
để cho vay nh các loại tín dụng thông thờng. Tín dụng ở đây mới là
tiềm tàng và có những loại sau:
-Bảo lãnh ngân hàng
- Tín dụng chấp nhận
Tóm lại, có thể hữu tín dụng giống nh quan điểm các nhà kinh tế
học pháp Robert Raymond: tín dụng, biểu hiện của một nhu cầu tiền
tệ. Đứng về mặt kinh tế thì tín dụng là việc ngân hàng cho khách hàng
của mình vay một khoản tiền và sau đó có thể thu hồi lại nó cộng thêm
phần lãi. Việc ứng tiền của NHTM có thể ngay lúc khách hàng yêu cầu
hoặc sau đó. Tuy nhiên đứng về mặt pháp lí thì tín dụng ngân hàng
không chỉ là việc cho vay tiền đơn thuần mà nó còn bao gồm các nghiệp
vụ khác nh: chiết khấu, bảo lãnh
1.4. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức khác nhau để thực hiện phân loại tín dụng
1.4.1. Theo thời hạn ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng. Tín
dụng đợc chia làm 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín
dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn thời gian sử dụng tối đa là 1 năm
Tín dụng trung hạn thời gian sử dụng từ 1 tháng đến dới 3 năm
Tín dụng dài hạn thời gian sử dụng là trên 3 năm
1.4.2. Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của
ngân hàng
-Một số loại tín dụng, thờng rất ngắn hạn, là kết quả của sự khoan
dung của ngân hàng. Trong trờng hợp này ngân hàng không cam kết dứt
khoát với khách hàng và do đó có thể tự do chấm dứt cho vay, trừ trờng
hợp quá hạn lạm quyền.
- Những tín dụng thờng phát sinh từ một cam kết dứt khoát của
ngân hàng, hoặc là cấp một khoản tín dụng cụ thể, hoặc là mở một hạn
ngạch tín dụng cho khách hàng của họ. Khi chúng ta nói là mở tín
dụng, tức là khách hàng đợc tự do sử dụng khả năng này để yêu cầu
ngân hàng cho vay tới hạn ngạch đã thoả thuận khi mở tín dụng.
1.4.3. Tín dụng có thể huy động và tín dụng không thể huy động
- Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân
hàng có thể nhợng lại đợc tiền trớc kì hạn đã định.
- Tín dụng không huy động là tín dụng mà ngân hàng cấp ra
không thể đem chuyển nhợng để vay lai vốn.
1.4.4. Phân loại tín dụng theo phơng thức tạo lâp tiền tệ
Việc cấp phát tín dụng đợc thực hiện theo 2 cách: một là tiền tệ
hàng hoá các giấy nợ thơng mại do ngời vay lu giữ nhng cha đến kì hạn,
hai là cho vay đơn thuần.
- Tiền tệ hoá giấy tờ thơng mại
Nguyên tắc của nghiệp vụ này đơn giản: ngời cung ứng thoả thuận
một thời hạn chi trả với khách mua của nó. Để cụ thể hoá khoản nợ th-
ơng mại của nó, nó phát ra một hối phiếu mà khách hàng mua chấp
nhận tuỳ thuộc tình hình. Sau đó ngời cung ứng nhợng lại kì phiếu này
cho chủ ngân hàng của nó và nhận lấy tiền tệ đề bù lại. Đó là kỹ thuật
rất quan thuộc của chiết khấu thơng mại.
-Tiền cho vay đơn thuần trực tiếp:
Trái với trờng hợp trên, tín dụng đợc thoả thuận với khách mua
chỉ có thể theo một hình thức tiền cho vay phù hợp tuỳ theo tình hình
với việc nắm giữ thế chấp về của cải đợc mua (thế chấp xe hơi, cầm cố
nhà ). Trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí nghiệp
sản xuất và thơng mại ngời ra gọi đó là tín dụng ngời mua. Nếu cho vay
đối với t nhân, đó sẽ là tín dụng tiêu dùng hay nhà ở.
Ngoài những phân loại nh trên, tín dụng của NHTM còn đợc chia
thành: tín dụng ngân quỹ(cho vay vốn lu động), tín dụng thuê mua và
tín dụng tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiện nay, tại các NHTM ở các nớc phát triển csac hình thức tín
dụng phát triển ngày càng phong phú, đa dạng. Tại các NHTM ở Việt
Nam cũng đã có hầu hết các hình thức tín dụng so với nhu cầu của nền
kinh tế và so với trình độ chung của hệ thống NHTM trên thế giới nh:
cho vay, chiết khấu, bảo lãnh những hình thức cho vay ứng tr ớc phổ
biến nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của
NHTM Việt Nam.
1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị tr -
ờng :
Do nghiệp vụ cho vay chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động tín dụng
của các NHTM Việt Nam nên dới đây em chỉ đề cập tới vai trò của
nghiệp vụ cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế đang phát triển,
có định hớng theo cơ chế thị trờng của Việt Nam dới hai hình thức cho
vay ngắn hạn và cho vay trung- dài hạn.
1.5.1. Cho vay ngắn hạn: đợc dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm
thời vốn lu động của doanh nghiệp, cho vay phục vụ sinh hoạt cá nhân
nh tiêu dùng và nhà ở.
Cho vay ngắn hạn phục vục mục tiêu dùng chủ yếu là mua sắm xe
gắn may, t liệu sinh hoạt nhập khẩu. Từ vài năm gần đây, việc cho
vay đối với CBVNV để mua nhà trả góp bắt đầu khởi sắc cùng với các
dự án di dời, giải toả, qui hoạch đo thị mới Bên cạnh đó,các quĩ xoá
đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ việc làm cùng tiến hành hoạt động cho
vay trả góp để tài trợ học nghề, làm kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác
xã.
1.5.2. Cho vay trung dài hạn: Đó là các khoản tín dụng định kì
dp ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho ngời vay. Mức cho vay đợc xác định
theo nhu cầu các dự án cho vay, quy mô các khoản vay khác nhau đáng
kể giữa các ngành công nghiệp khác nhng thờng trên nguyên tắc dành
khoản cho vay lớn cho các doanh nghiệp đầu t lớn về nhà máy và trang
thiết bị, phơng thức cấp tiền vay và hoàn trả tiền vay của loại tín dụng
này là có thể cấp vốn 1 lần hoặc nhiều lần, còn khi hoàn trả (khác với
vay ngân hàng hẹn phải trả một lần) có thể trả vào 1 lần mà cũng có thể
trả theo thời gian biểu.
+ Cho vay trung dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh
tế quốc dân, là trung gian điều hoà lợng cung cầu vốn trong nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng làm nhiệm vụ thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa
đến nơi thiếu. Qua thực tế, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng
hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể mất đi, mà trái lại ngày
càng phát triển mạnh mẽ.
+ Cho vay trung dài hạn tạo thị trờng sử dụng vốn ngắn hạn để
đầu t trang thiết bị doanh nghiệp, làm kích thích sản xuất phát triển. Do
đó, doanh nghiệp lại cần thêm nhiều vốn lu động hơn để đáp ứng nhu
cầu trớc mắt nh mua sắm nguyên liệu, thuê thêm nhân công, thuê đại lí
bán hàng Từ đó dẫn đến thị tr ờng vốn ngắn hạn đợc mở rộng theo tốc
độ phát triển sản xuất .
+ Cho vay trung dài hạn để phát triển ngành kinh tế theo chiều
sâu, đó là đầu t vào các công trình sản xuất, trang thiết bị, máy móc,
TSCĐ Do đó, thúc đẩy quá trình sản xuất nhiều loại sản phẩm, hàng
hoá để tiêu thụ trong nớc và để xuất khẩu. Việc xuất khẩu những hàng
hoá sẽ tăng nhiều ngoại tệ cho quốc gia và đảm bảo cán cân thanh toán
quốc tế.
+ Cho vay trung dài hạn giúp cho sản xuất phát triển, doanh
thu của các đơn vị sản xuất tăng. Các doanh nghiệp tăng thêm phần vốn
góp vào ngân sách nhà nớc, góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát
2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM
Tuy có những chuyển biến tích cực và đạt đợc một số thành quả
nhất đinh nhng tín dụng ngân hàng vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu trong
tình hình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trờng ở nớc ta hiện nay.
Theo kết quả điều tra củ phòng thơng mại và công nghiệp Việt
Nam vào đầu năm 1999 thì phơng hớng phát triển trong tơnglao, 89% số
doanh nghiệp khẳng định quyết tâm tiếp tục đầu t phát triển, 69% số
doanh nghiệp muốn đa dạng hoá mở rộng ngành nghề và lĩnh vực kinh
doanh. Nh vậy, nhu cầu về vốn của nền kinh tế là rất lớn.Trong khi thị
trờng chứng khoán ở nớc ta vẫn cha thể hiện đợc chức năng của nó thì
tín dụng ngân hàng đơng nhiên là nguồn đáp ứng chủ yếu cho nhu cầu
vay vốn của các doanh nghiệp .
Tuy nhiên, việc cung cấp tín dụng của hệ thống NHTM ở Việt
Nam hiện nay lại đang có vấn đề. Một nền kinh tế nh nớc ta đang trong
thời kỳ phát triển rất cần vốn đầu t của tín dụng ngân hàng thì thị trờng
tín dụng lại có biểu hiện đóng băng. Tình trạng này đã đợc dự báo
ngay từ 6 tháng đầu năm năm 1999, khi mà tốc độ cho vay của toàn
ngành ngân hàng mới chỉ tăng 6% trong khi kế hoạch đặt ra là 18%. Sau
gàn ba tháng áp dụng một loại các biện pháp nhằm làm nóng lại thị
trờng tín dụng của ngân hàng nhà nớc thì tình trạng lại càng trở nên trì
trệ bởi tốc độ tăng trởng tín dụng chỉ nhích lên có 0,7%. Theo sự nhìn
nhận của các chuyên gia kinh tế thì trong hơn 10 năm đổi mới hoạt
động ngân hàng theo cơ chế thị trờng, cha bao giờ ngân hàng lại gặp
nhiều khó khăn nh hiện nay khi mà tốc độ tăng dự nợ cho vay chỉ bằng
1/2 so với tốc độ tăng vốn huy động.
Ngay tại trung tâm thơngmại lớn nhất Việt Nam là thành phố Hồ
Chí Minh(tổng nguồn vốn huy động và tổng d nợ cho vay luôn luôn
chiếm 30%-38% trong cả nớc) thì tình hình cũng không khả quan hơn là
bao nhiêu. Điều này đợc thể hiện rất rõ qua hai bảng vốn huy động và
vốn cho vay sau:
Vốn huy động theo từng hệ thống ngân hàng
Đơn vị: tỷ đồng
31/12/9
8
30/06/9
9
31/12/99 T/8 tăng, giảm so
với 31/12/98
T/8 tăng, giảm so
với 30/06/99
NHTMQD 17.902 20.075 20.220 +12.94 +0,72%
NHTMCP 10.429 11119 11.394 -9,25% +2,4%
NHLD 1.805 1.759 1.572 -12,9% -10,63%
NH nớc ngoài 5.269 5.367 5.592 +6,13% +4,19%
Tổng 35.405 38.320 38.778 +9,52% +1,19%
Vốn cho vay theo từng hệ thống ngân hàng
Đơn vị: tỷ đồng
31/12/98 30/06/9
9
31/12/99 T/8 tăng, giảm so
với 31/12/98
T/8 tăng, giảm so
với 30/06/99
NHTMQD 16.921 18.317 18.317 +8,25 +0,86%
NHTMCP 9.308 9.492 9.608 +3,22% +1,22%
NHLD 1.180 1.173 1.127 -4,49% -3,92%
NH nớc ngoài 9.619 9.974 9.940 +3,33% -0,34%
Tổng 37.028 38.799 38.992 +5,3% +0,49%
Mặc dù trong thời gian gần đây, chi nhánh ngân hàng nhà nớc tại
thành phố Hồ Chí Minh đã lập cả một Ban điều hành thống nhất điều
phối các ngân hàng tham gia đầu t trung dài hạn cho các dự án liên
quan tới cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bệnh viện, trờng học, nhà ở nh ng
trong 8 tháng đầunăm 1999, số d nợ trung dài hạn của hệ thống
NHTM quốc doanh cũng chỉ tăng 7,4% và các NHTM cổ phần tuy có
năng động hơn song cũng phải bằng lòng với mức tăng 11,63%. Trong
khi đó, số d tín dụng của các ngân hàng liên doanh giảm 0,9% của các
ngân hàng nớc ngoài giảm 0,15%. Thành phố cần khoảng 5.300 tỷ đồng
để công ty từ nay đến năm 2003 thì các NHTM đã đăng ký cho vay tới
8.533 tỷ đồng. Sự sốt sắng cha từng có này đã cho thấy sự ứ đọng vốn
trong các NHTM là nghiêm trọng đến mức nào. Và tình hình còn tiếp
tục xấu đi khi tổng số vốn huy động vẫn liên tục gia tăng và đạt 41,473
tỷ đồng (tính đến cuối tháng 10/1999), trong đó, tiền gửi của các doanh
nghiệp chiếm tới 47,8%, của dân c là 49,5%.
Một quan chức của ngân hàng công thơng Việt Nam cho biết:
ngân hàng này hiện đang tồn đọng hàng ngàn tỷ đồng cha có địa chỉ cho
vay và chỉ trông chờ cơ hội giải toả vốn thông qua các phiên đấu thầu
trái phiếu kho bạc nhà nớc. Tơng tự nh vậy, tổng d nợ ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 1999
cũng chỉ đạt 29.150 tỷ đồng , tăng 6,4% so với đầu năm. Đặc biệt đáng
nói ở đây là trong khi d nợ của các hộ sản xuất đạt 11.480 tỷ (tăng 6%
với đầu năm), dự nợ của các hợp tác xã đạt 60 tỷ đồng tăng (15% so với
cuối năm 1998) thì tại các doanh nghiệp nhà nớc, công ty cổ phần, công
ty TNHH, d nợ chỉ đạt 9.100 tỷ, không tăng so với đầu năm. Hiện tợng
này đã chứng tỏ sự bế tắc của các doanh nghiệp trong việc tìm đầu ra
cho sản phẩm cũng nh vay vốn để đầu t cho sản xuất kinh doanh.
Một nền kinh tế đang đói vốn nh nớc ta, mọi công trình đều cần
vốn đầu t phát triển mà để hàng chục ngàn tỷ đồng ứ đọng lại trong các
loại két khôngcho vay, không đầu t ra thì quả là lạ. Nếu nh vốn huy
động ngày càng tăng trong khi tổng d nợ lại không tăng kịp thì khả
năng NHTM bị lỗ và sụp đổ sẽ là điều không thể tránh khỏi.
2.1.2. Tỷ lệ nợ quá hạn cao
Chất lợng của hoạt động tín dụng ngân hàng đợc thể hiện ở nhiều
yếu tố nhng trong đó, tỷ lệ nợ tồn đọng là yếu tố cơ bản nhất, quan
trọng nhất. Hình thái đọng nợ hiện nay ở các ngân hàng có nợ quá hạn,
nợ khoanh và nợ chờ xẻ lý. Nợ quá hạn là những nợ đã quá hạn mà các
tổ chức vay vẫn cha trả đợc. Nợ khoanh là những khoản nợ Chính phủ
cho phép không thu nợ kể cả gốc và lãi. Công nợ chờ xử lý là những
khoản nợ hiện nay đang nằm trong các vụ án chờ cơ quan pháp luật xét
xử hoặc các khoản nợ cha xác minh đầy đủ nguồn gốc để xử lý. Cả ba
loại này cộng lại xem nh là tổng nợ tồn đọng của nền kinh tế.
Trên thế giới, ngân hàng nào trong quá trình hoạt động kinh
doanh cũng đều xảy ra tình trạng nợ quá hạn ở những mức độ khác
nhau. Đây là vấn đề rất bình thờng của các NHTM nhng ở Việt Nam
hiện nay thì vấn đề này lại trở nên không bình thờng chút nào. nếu
nh tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam vào năm 1991 là
8,8%, năm 1992 là 12,5%, năm 1993 ;à 9,6%, năm 1994 lfa 4,6%, năm
1995 là 3,5% thì tính đến cuối năm 1999, tổng tỷ lệ nợ quá hạn của toàn
bộ các tổ chức tín dụng lên tới trên 10% so với tổng d nợ, điều này cũng
có nghĩa là có hàng chục ngàn tỷ đồng hiện nay đã trở thành vốn chết,
không sinh lời đợc. Đây thực sự là một con số có thể làm choáng váng
bất cứ ai có chút am hiểu về hoạt động tín dụng ngân hàng.
Nếu xét về tác hại của nợ quá hạn thì đối với bản thân các NHTM,
một tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Trớc hết, nó làm cho NHTM không thu hồi đợc vốn
và lãi đúng thời hạn đặt ra trong hợp đồng, và cho dù các khoản nợ quá
hạn đó có thể thu hồi lại đợc toàn bộ sau một thời gian quá hạn nhất
định thì điều đó cũng làm cho thời gian của một vòng quay vốn tín dụng
thực tế lớn hơn vòng quay vốn tín dụng đã thoả thuận. Nh vậy, nợ quá
hạn đã làm giảm tốc độ chu chuyển vốn tín dụng của NHTM dẫn đến
giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín
dụng. Không những thế, nợ quá hạn còn làm giảm khả năng thanh toán
thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM.
Trên giác độ vĩ mô, nợ quá hạn thực sự làm giảm tính tích cực của
hoạt động tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. NHTM cấp tín dụng
cho khách hàng luôn vì mục đích cung cấp thêm vốn đầu t cần thiết cho
sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô của sản xuất và lu thông hàng
hoá, tạo thêm nhiều sản phẩm mới cho xã hội. Vì thế, ngân hàng chỉ
quyết định cho vay khi đã xác định là đồng vốn cho vay sẽ đợc đầu t
hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế xã hội trên cơ sở thu hồi đợc vốn
và lãi từ ngời đi vay sau một quá trình sử dụng vốn. Vậy mà nợ quá hạn
lại chứng tỏ ngời vay đã không thực hiện đợc hiệu quả đầu t nh đã đặt ra
ban đầu. Điều này đã cản trở NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian
tín tụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nợ quá hạn rất dễ chuyển thành nợ khó đòi. Mà nói
nợ khó đòi là đã thấy tiềm ẩn trong đó sự lừa đảo chiếm dụng vốn vay
của ngời vay. Điều này có thể là một ý kiến chủ quan nhng nó lại khá
đúng với tình hình Việt Nam trong những năm gần đây. Theo số liệu
thống kê từ năm 1991 đến tháng 11/1997 đã xảy ra 335 vụ lừa đảo ngân
hàng tổng số tiền lên tới 1.732,8 tỷ đồng (cha kể thiết hại của vụ Epco-
Minh Phụng) chủ yếu xuất phát từ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Những vụ
lừa đảo trên đã để lại hàng triệu m
2
đất, hàng trăm ngàn căn nhà do các
đối tợng vay đem thế chấp nhng không trả đợc nợ cho ngân hàng. Số bât
động sản này hầu nh đều đợc khai khống giá cả lên nhiều lần, giấy tờ
chủ quyền lại không đầy đủ nên không bán đợc do vậy ngân hàng không
thể thu hồi đợc vốn.
Tóm lại, tỷ lệ nợ quá hạn quá cao mà vẫn đang còn hớng gia tăng
nh hiện nay đã làm suy giảm nghiêm trọng chất lợng tín dụng, từ đó ảnh
hởng không nhỏ tới kết quả kinh doanh của các NHTM.
2.1.3. Sự bất hợp lý trong cơ cấu tín dụng
Hiện nay, cơ cấu cho vay các NHTM Việt Nam tuy đã có nhiều
chuyển biến tích cực so với thời kỳ đổi mới nhng vẫn cha thực sự phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nh nớc
ta. Mặc dù đang ứ đọng vốn nhng nhiều NHTM, nhất là csac NHTM
quốc doanh vẫn xác định đối tợng khách hàng của họ là các doanh
nghiệp nhà nớc còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh chi là khách hàng
dự trữ. Ông Nguyễn Văn Phẩm, giám đốc sở giao dịch II, ngân hàng đầu
t và phát triển Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, cho biết gần 90%
tổng d nợ hiện có khoảng 1.000 tỷ đồng, của Sở giao dịch II thuộc về
các tổng công ty. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ đợc vay
mộ tỷ lệ dới 10% tổng d nợ.
Tất nhiên, không phải ngân hàng nào cũng từ chối t nhân. Tiêu
biểu là ngân hàng Đông á, trên 70% tổng d nợ là dành cho các cơ sở
ngoài quốc doanh. Hay nh Sài Gòn Công thơng ngân hàng (Sai Gon
Bank), tỷ lệ cho vay khu vực t nhân so với khu vực nhà nớc là 60/40.
Tuy nhiên, số lợng ngân hàng có cơ cấu tín dụng nh trên lại không
nhiều lắm. Hơn nữa, đây mới chỉ là cơ cấu cho vay sản xuất kinh doanh
trong nớc chứ tài trợ xuất khẩu cho khu vực t nhân thì ngay cả những
ngân hàng trên cũng còn dè dặt. Nhiều quan chức ngân hàng đã thừa
nhận không giám cho t nhân vay tiền trên L/C đã mở bởi vì cho rằng :
có L/C cha chắc họ đã xuất hàng, xuất hàng cha chắc đã có đầy đủ
chứng từ, có bộ chứng từ cha chắc đã thu đợc tiền. Do có quan điểm nh
vậy nên các doanh nghiệp t nhân khi có L/C xuất khẩu thờng liên hệ
trực tiếp với chi nhánh ngân hàng nớc ngoài để vay tiền. Họ biết chắc
nh đinh đóng cột rằng với L/C trong tay mà thiếu tài sản thế chấp thì
các ngân hàng nội địa cũng không đầu t tiền vào họ. Gần đây, một vài
ngân hàng trong nớc đã mạnh dạn cho vay đối với những cơ sở có L/C
xuất khẩu nhng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nớc, còn
đối với khu vực t nhân lại không đáng kể. Điều này không chỉ ảnh hởng
tới riêng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do phải vay ở bên ngoài
với lãi suất chắc chắn là cao hơn mà còn làm cho phạm vi của chính các
ngân hàng trong nớc bị thu hẹp lại. Hiện nay, cùng với sự phát triển của
khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã chiếm
tới 60% GDP cả nớc. Trong tổng số 40 triệu lao động ở Việt Nam thì có
tới 36 triệu ngời làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hơn
5 năm, có khoảng 5 triệu ngời có thêm việc làm thì hầu hết đều do khu
vực này tạo ra. Nh vậy, có thể thấy tiềm lực của kinh tế ngoài quốc
doanh là rất lớn, kéo theo đó là một nhu cầu vay vốn khổng lồ. Vậy mà,
các NHTM Việt Nam lại không thực sự coi trọng khu vực này, không
đặt họ ngang hàng với khu vực kinh tế quốc doanh mà lại đối xử với họ
nh những khách hàng dự trữ. Đây là một điều bất hợp lý trong nền kinh
tế thị trờng hiện đại.
2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động n1
hiện nay, tuy đã đợc cải tiến nhiều nhng vẫn cha thực sự khoa học và
thiếu đồng bộ, cha đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong
thực tế kinh doanh của NHTM. Nhiều hớng dẫn của các Bộ, ngành khác
nhau còn chồng chéo, rất khó khăn trong triển khai thực hiện. Những
quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp, tài sản thế chấp, cầm cố của
công nghiệp tại ngân hàng cha khoa học và cha công bằng gây thiệt hại
chung cho nền kinh tế và ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp đợc đầu t chủ
yếu bằng vốn ngân hàng, nhng khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ thể
đợc thanh toàn nợ từ nguồn thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp lại
khôg phải là ngân hàng cho vay, dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng là
điều không tránh khỏi. Những doanh nghiệp có vấn đề thì các cơ quan
pháp luật phải can thiệp và ít nhiều ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh
của đơn vị trong quá trình điều tra, tài sản thế chấp sẽ không đợc tiếp
tục khai thác hoặc khai thác một cách kém hiệu quả, gây thất thoát vốn
cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Hệ thống văn bản pháp luật cha
khoa học, thiếu đồng bộ khiến thủ tục cho vay hiện nay ở các NHTM
khá rờm rà, cứng nhắc phải trải qua nhiều khâu. Vì lẽ đó thời gian từ
lúc nộp đơn xin vay đến lúc mà các đơn vị vay đợc vốn thờng rất dài, 10
ngày nếu vay ngắn hạn và 45 ngày cho vay trung hạn và dài hạn. Trong
thời buổi bùng nổ thông tin nh ngày nay, để nắm bắt cơ hội làm ăn ngời
ta phải chạy đua từng ngày thậm chí từng giờ, vậy mà phải nằm chờ lâu
nh vậy mới có thể vay đợc vốn thì quả là khó khăn cho các doanh
nghiệp Việt Nam. Cũng chính vì hệ thống văn bản cha khoa học, rõ ràng
nên các NHTM không giám đa vào sử dụng nhiều nghiệp vụ mới nhằm
rút ngắn thời gian cũng nh chi phí quản lý vốn vay cảu mình.
2.2.1. Các cơ quan hữu quan cha có đợc cái nhìn thấu đáo về
ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ, nếu cha có đợc sự phối
hopự đồng bộ, tích cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn
đề liên quan. Cho đến nay không ít ngời còn cho rằng việc cho vay và
thu hồi nợ vay chỉ đơn thuần là việc của ngân hàng, trong khi trên thực
tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thoả hiệp theo đúng mọi quy định
của nhà nớc mà vẫn không thu hồi đợc nợ, lúc đó việc thu hồi nợ đã vợt
ra khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dầu đã có nhiều
thông t liên tịch giữa NHNN và các Bộ, các ngành liên quan hớng dẫn
thực hiện những vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng, nhng
thực tế đòi hỏi cần phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan
này với nhau trong thời gian tới. Những ngân hàng này khiến các
NHTM tiếo tục co cụm, chờ đợi thời cơ.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc
biệt, rất nhạy cảm chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế
trong nớc và thế giới. Trong thời gian quan, nền kinh tế nớc ta cũng nh
một số nớc trong khu vực có những khó khăn nhất định nên đã tác động
không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị vay vốn, điều này
nh một phản ứng dây chuyền đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh ngân hàng mà đặc biệt là công tác tín dụng. Do một số khó khăn
của nền kinh tế và sự chững lại của nguồn vốn đầu t nớc ngoài trong
thời gian qua nên gía bất động sản đã liên tục giảm xuống, gây khó
khăn cho ngân hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn
vay.
- Bối cảnh kinh tế những năm gần đây chứa đựng nhiều yếu tố
không thuận lợi cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Trong khi tổng
đầu t xã hội sụt giảm thì đầu t của nhà nớc lại tăng nhanh từ 38,3% năm
1995 lên 61,6% năm 1999. Điều đáng chú ý là trong tổng nguồn vốn
đầu t tập trung của nhà nớc, chỉ khoảng 10% là vốn huy động trong nớc
và khoảng 90% còn lại là nguồn vốn ODA. Trong dài hạn nếu các chơng
trình đầu t của nhà nớc thành công, hệ thống cơ sở hạ tầng đợc cải thiện
sẽ thúc đẩy đầu t của khu t nhân. Song trong thời gian trớc mắt, nếu
không thoát khỏi xu hớng này, tốc độ tăng trởng nền kinh tế sẽ còn phụ
thuộc khá chặt chẽ vào tiến độ giải ngân của vốn ODA. Sự hiện diện của
các nguồn vốn u đãi quốc tế rõ ràng làm giảm các cơ hội cung cấp tín
dụng của các NHTM. Trong các hạng mục u tiên đầu t kích cầu của
thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các dự án lớn đã tìm đợc vốn vay với
lãi suất u đại tuyệt đối so với mặt bằng lãi suất kinh doanh. Vốn trong
dân c cũng tạo ra một áp lực khó chịu đối với hoạt động cho vay của
các ngân hàng. Vốn nhàn rỗi trong dân c hiệp ớc khoảng 10-12 tỷ USD,
trong đó 44% dới dạng vàng, ngoại tệ và tổng cộng khoảng 70% ở dạng
không sinh lời. Nguồn vốn này đang đợc nhà nớc khuyến khích đa vào
kinh doanh, nhng trong thời gian trớc mắt chúng sẽ là nguồn vốn cạnh
tranh với các NHTM khi nềnkt có triển vọng tăng trởng hoặc là áp lực
tiền gửi trong trờng hợp có nền kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ. Xu h -
ớng này sẽ đợc giải toả, nếu lãi suất đợc thực sự xác định bởi sự vận
động của cung, cầu và các NHTM trớc hết phải đáp ứng đợc nhu cầu
vốn vay của dân c và các doanh nghiệp t nhân nhỏ.
- Cho đến trớc khi có sự điều chỉnh chính sách lãi suất của NHNN
vào năm 1999, thì lãi suất cho vay cảu các NHTM ở Việt Nam là rất cao
1,25%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, bên cạnh đó tỉ lệ tái cấp vốn
cũng là 1,1% /tháng.
ii. những tồn tại trong hoạt động tín dụng của
các nhtm Việt Nam.
2.2. Những khó khăn trong hoạt động tíndụng của các NHTM
Nh trên đã trình bày, hoạt động tín dụng là hoạt động chính của
NHTM, nó đem lại thu nhập, chủ yếu cho ngân hàng và tài trợ vốn cho
nền kinh tế, tuy nhiên trong những năm qua tỉ lệ tăng trởng tín dụng đã
không đạt đợc nh mong muốn, nguyên nhân cả chủ quan và khách quan
dẫn đến tình trạng đó, đã có nhiều ý kiến đề cập, chung qui lại các ý
kiến đều tập trung chủ yếu vào những nguyên nhân cơ bản sau:
Hầu hết các doanh nghiệp nhà nớc (DNNN) hiện nay đang nằm
trong tình trạng chung là làm ăn kém hiệu quả, vốn tự có ít hoạt động
chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng, điều này gây rất nhiều khó khăn cho
ngân hàng trong hoạt động đầu t tín dụng. Nếu thực hiện theo đúng quy
định của nhà nớc là: doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn tự có không đảm
bảo thì không đầu t, nh thế sẽ đẩy doanh nghiệp đến chỗ đã khó khăn lại
càng khó khăn hơn, kéo theo cả ngân hàng cũng lâm vào cảnh không tốt
đẹp gì hơn, đồng thời ảnh hởng xấu đến nền kinh tế và cả vấn đề xã hội.
Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp dù làm ăn có hiệu quả nhng vẫn
phải nợ ngân hàng. Cho đến giữa năm 1998, các tổng công ty xây dựng
đã nợ ngân hàng hàng ngàn tỷ đồng, mỗi tổng công ty cùng một lúc d
nợ vốn vay, bảo lãnh của từ 6-10 ngân hàng, từ NHTMQD, đến NHTM
cổ phần ngân hàng liên doanh và thậm chí cả chi nhánh ngân hàng nớc
ngoài. Tổng công ty xây dựng cầu Thăng Long hiện d nợ ngân hàng trên
300 tỷ đồng . Nguyên nhân chủ yếu cho vấn đề trên là các công ty bị
bên A nợ trong khi đó vẫn phải xây dựng, máy móc trên công trờng vẫn
phải đa vào vận hành, phải tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động.
Tình hình nợ NHTM của các Tổng công ty khác cũng không sáng sủa
hơn. Ngân hàng công thơng Việt Nam đến 31/3/1998 có tổng d nợ cho
vay của các Tổng công ty 90-91 lên tới 4091 tỉ đồng. Đứng trớc khó
khăn đó, các NHTM rất lúng túng, và một thực tế hiện nay là các ngân
hàng thờng co cụm trong đầu t, chờ thời cơ, vì nếu ngân hàng cứ tiếp
tục cho vay thì sẽ rất khó khăn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn sẽ
tăng cao, cho đến 1 lúc nào đó, khi doanh nghiệp không còn khả năng
thanh toán các món vay thì ngân hàng sẽ trở thành ngời có ý làm trái,
gây hậu quả nghiêm trọng:.
- Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng doanh nghiệp vay
vốn luôn đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu
không trung thực, mặc dù những số liệu này đều đã đợc các cơ quan có
chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán, thống kê đã đợc ban hành, nhng
phần lớm các doanh nghiệp đều đợc thực hiện không nghiêm túc. Điều
này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình
hoạt động kinh doanh, cũng nh việc quản lý vốn vay của đơn vị, để qua
đó có thể đa ra đợc những quyết định đầu t đúng đắn có tác dụng hỗ trợ
cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho
ngân hàng. Trên địa bàn Nghệ An từ đầu năm nay, các ngành chức năng
mới kiểm tra việc chấp hành luật công ty ở 27 công ty TNHH thì tất cả
các công ty này đều vi phạm, thậm chí có công ty vi phạm pháp luật
một cách nghiêm trọng. Phần lớn các công ty đều vi phạm, về điều kiện
thành lập, khai khống vốn điều lệ. Một vấn đề hết sức nghiêm trọgn là
có 20 trong số 22 công ty đợc kiểm tra vi phạm lệch kế toán thống kê,
điều lệ kế toán nhà nớc. Đối với lĩnh vực kinh tế quốc doanh, theo thống
kê của một nhóm chuyên gia đối với 25 doanh nghiệp lớn tại địa bàn có
quan hệ tín dụng với các ngân hàng cho thấy d nợ tín dụng ngân hàng
gấp 4 lần số vốn đợc cấp và gấp 11,8 lần số vốn lao động đợc cấp của
những doanh nghiệp này. Nhiều khi các NHTM có những quyết định
đầu t không căn cứ vào số liệu báo cáo cử đơn vị mà thờng dựa trên
nhiều nguồn thông tin phong phú khác, có khi là dựa vào những cảm
nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất nguy hiểm. Thực
tế đã chứng minh rằng việc cung cấp các số liệu không trung thực của
đơn vị, thêm vào đó là việc tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã gây
lên những vụ đổ bể tín dụng gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nh vụ
Tamexco và Minh Phụng.
- Do chuyển sang làm ăn trong cơ chế thị trờng cha lâu nên hầu
hết các doanh nghiệp hiện nay cha có đủ năng lực và kinh nghiệm để
cạnh tranh trên thơng trờng, thờng thua thiệt trong kinh doanh. Mặt
khác, đất nớc đang trên đà chuyển đổi nền kinh tế do đó cha có đợc
những quy hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô, nên đã gây không
ít khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đầu t sản xuất. Nhiều dây
chuyền sản xuất lắp đặt xong thiết bị, khi bớc vào sản xuất thì sản phẩm
không tiêu thụ đợc do nhà nớc có chủ trơng cấm hoặc sản xuất hạn chế.
Một số mặt hàng do không có quy hoạch tổng thể và sự chỉ đạo thống
nhất nên có quá nhiều doanh nghiệp đầu t vốn nhng sản phẩm lại không
tiêu thụ đợc do đó đã bão hoà hoặc lợi nhuận thu về không đợc nh khi
xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật, hoặc không có đủ nguyên liệu
đầu vào cho sản xuất, điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng vì
phần lớn vốn đầu t của doanh nghiệp là vốn vay ngân hàng.
Các doanh nghiệp đang hoạt động trong thị trờng độc quyền cao.
Các nghiên cứu cho thấy, ngoài các ngành độc quyền tự nhiên nh Điện,
Nớc, thì độc quyền còn có trong hầu hế các ngành kinh tế và nhà độc
quyền chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nớc, các Tổng công ty. Một hậu
quả của sự độc quyền là không sử dụng hết công suất, tồn kho hàng hoá
lớn của Tổng công ty 90-91: khoảng 6000 tỷ đồng, trong đó mía đờng:
540 tỷ đồng, xi măng: 700 tỷ đồng, hàng dệt may 500 tỷ đồng. Các liên
doanh và doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài lại giữ vị trí độc quyền
trong các ngành có hàm lợng công nghệ tơng đối cao. Sự hạn hẹp của
thị trờng Việt Nam và vị trí đi đầu của các dự án lớn rất thấp, ví dụ: sản
xuất và lắp ráp xe tải: 3%, ôtô dới 12 chỗ, xe máy 8%, khả quan nhất là
thép xây dựng đạt khoảng 50%. Chính tình hình trên đã làm cản trở việc
nhập ngành của các hãng khác và cản trở việc mở rộng đầu t sản xuất
kinh doanh từ đó các NHTM gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh tổng
mức tín dụng.
Với lãi suất cao nh vậy, thêm vào đó là tỉ lệ lạm phát tơng đối
thấp, đặc biệt là năm 1999 tỉ lệ lạm phát chỉ là 91%, thì lãi suất thực
tiến gần tới lãi suất danh nghĩa. ngời gửi hầu nh bảo toàn giá trị của cả
vốn lẫn lãi. Ngợc lại, ngời đi vay không đợc khấu trừ bởi 1 tỉ lệ lạm
phát thông thờng của một nền kinh tế đang tăng trởng. Hơn nữa, tỉ lệ
lạm phát thấp còn phản ánh sự kém sôi động của lu thông hàng hoá,
không hình thành nên các kì vọng đầu t tích cực. Với tỉ lệ lạm phát thấp
và lãi suất cao đã không đẩy mạnh đợc việc mở rộng tín dụng đói với
các doanh nghiệp và ngời tiêu dùng. Thực tế cho thấy việc tăng d nợ vào
các tháng 2,3,6,9,10 của năm 1999 là không bình thờng: -24%, +10,7%,
+1,6%, +22,3% và +0,7%. Các số liệu hiện đại diện trên rất thất th ờng,
phản ánh sự méo mó của thị trờng vốn (Trong khi đó số d tiền gửi tại
các NHTM tại thành phố Hồ Chí Minh tăng khá đều đặn: +2,7%;
+2,7%; +1,8%l; +2,8% và +3,5%. Tuy vậy, duy trì lãi suất cai cũng đã
đem lại một số kết quả khác. Lãi suất cao tạo cho đồng Việt Nam có giá
trị cao so với USD. Chính sự đánh giá cao này làm giảm nhẹ xu thế tích
trữ và găm đồng USD góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam trong
khoảng 14000 đ/1USD trong suốt cả năm 1999.
-Việc hình thành nên các Tổng công ty 90-91 của Chính phủ đã
ảnh hởng mạnh mẽ đến chiến lợc kinh doanh nói chung và chiến lợc
khách hàng nói riêng của các NHTM. Thông qua việc thành lập nên
cácTổng công ty 90-91, Chính phủ đã tạo nên 1 sự thay đổi mạnh mẽ
trong toàn bộ cấu trúc nền kinh tế nói chung và môi trờng kinh doanh
của các ngân hàng nói riêng. Nhu cầu về vốn của các Tổng công ty này
là rất lớn nhằm trang bị công nghệ mới thích ứng với sự cạnh tranh
trong điều kiện mới. Tuy nhiên, chính điều này cũng đang nảy sinh một
sóo mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn lớn của các Tổng
công ty 90-91 với khả năng còn hạn chế của các NHTM Việt Nam. Nhu