Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

kỹ thuật cấy tạo trầm trên cây gió bầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 49 trang )


CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Cây Dó bầu còn gọi là cây Trầm hương, hay cây Kì nam, trong gỗ của nó có
khả năng sinh ra một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương hay Kì nam. Trầm
hương có rất nhiều công dụng đã được biết và sử dụng từ hàng ngàn năm qua, ở
nhiều nước trên thế giới. Từ xưa đến nay Trầm hương và Kì nam là loại sản phẩm
đặc biệt quý hiếm của rừng mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho con người. Chính vì
vậy mà Trầm hương có giá trị kinh tế rất cao trên thị trường. Điều này đã làm cho
cây Dó bầu trở thành loài thực vật đặc biệt được nhiều nhà khoa học và người dân
chú ý, có giá trị đặc biệt về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam nói riêng và các
nước trên thế giới nói chung.
Tuy nhiên, những nghiên cứu có tính hệ thống về sự hình thành Trầm hương
trên cây Dó bầu chỉ mới bắt đầu từ vài thập niên gần đây. Hầu hết các kết quả nghiên
cứu được công bố đều chưa đưa ra được các quy trình tối ưu cũng như là cơ chế hình
thành Trầm hương để có thể áp dụng rộng rãi ra sản xuất đại trà.
Trong khi đó cùng với sự mất rừng thì nguồn Trầm hương tự nhiên cũng ngày
càng cạn dần. Các loài thuộc chi Aquilaria có khả năng cho Trầm bị khai thác cạn
kiệt. Ở Việt Nam những người khai thác Trầm chặt đốn bừa bãi những cây Dó bầu ở
bất kì độ tuổi nào. Với cách khai thác như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn những
cây thuộc họ cây Dó bầu gần như bị diệt chủng.Trước tình hình đó Hội Đồng Bộ
Trưởng (nay thuộc Chính Phủ ) đã ban hành Nghị Định số 18-HDBT ngày 17 tháng
01 năm 1992 quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và có chế độ
bảo vệ, đã xếp cây Dó bầu vào danh mục nhóm 1A, tức là bảo vệ nghiêm ngặt.
Trước tình hình đó hiện nay ở nước ta đã và đang có rất nhiều tổ chức, cơ
quan, cá nhân trồng cây Dó bầu đại trà, nhằm mục đích cải thiện kinh tế, phủ xanh
đất trống đồi trọc, góp phần xóa đói giảm ngèo v.v… Tuy nhiên, phần lớn các dự án
đó mới đang ở giai đoạn trồng và thử nghiệm gây tạo Trầm bằng các phương pháp
khác nhau và các kết quả thu được đều chưa được khả quan lắm.
1


Mặt khác nếu để cây Dó bầu mọc ngoài tự nhiên (ở rừng tự nhiên) thì khả
năng cho Trầm hương của cây Dó bầu rất hạn chế (khoảng 10%). Chỉ một số cây vì
lí do nào đó các tác nhân từ bên ngoài tác động đến cây Dó bầu như mưa, gió, sét
đánh làm gãy thân, cành… qua các vết thương đó, vi sinh vật sẽ xâm nhiễm vào cây.
Và cảm ứng sự hình thành dần dần theo thời gian.
Vì những lí do kể trên đồng thời dưới sự phân công của bộ môn Công Nghệ
Sinh Học và dưới sự hướng dẫn của thầy Bùi Văn Thế Vinh tôi đã thực hiện tiểu luận
tốt nghiệp “Phương pháp cấy tạo Trầm trên cây Dó bầu”
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
+ Tổng quan về cây Dó bầu
+ Tìm hiểu qui trình kĩ thuật cấy tạo Trầm hương nhân tạo bằng phương pháp vi sinh
và hóa học có hiệu quả.
1.3. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
Do quỹ thời gian còn hạn chế nên tôi mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các
vấn đề có liên quan đến việc hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu ở mức độ tổng
quan và một số thực nghiệm đã được nghiên cứu.
2

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CÂY DÓ BẦU
2.1. GIỚI THIỆU VỀ CÂY DÓ BẦU:
Cây Dó bầu thuộc :
Lớp (Class): Magnoliopsida
Bộ (Order): Myrtales
Họ (Family): Thymelaeaceae
Giống Aquilaria có tất cả 24 loài (Species) khác nhau gồm:
1. Aquilaria beccariana van Tiegh
2. Aquilaria hirta Ridl
3. Aquilaria microcarpa Baill
4. Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl
5. Aquilaria filaria (Oken) Merr

6. Aquilaria brachyantha (Merr) Hall.f
7. Aquilaria urdanetensis (Elmer) Hall.f
8. Aquilaria citrinaecarpa (Elmer) Hall.f
9. Aquilaria apiculata Elmer
10.Aquilaria parvifolia (Quis) Ding Hou
11.Aquilaria rostrata Ridl
12.Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte
13.Aquilaria banaense Pham-Hoang-Ho
14.Aquilaria khasiana H.Hallier
15.Aquilaria subintegra Ding Hou
16.Aquilaria grandiflora Bth
17.Aquilaria secundana D.C
18.Aquilaria moszkowskii Gilg
19.Aquilaria tomentosa Gilg
20.Aquilaria bailonii Pierre ex Lecomte
21.Aquilaria sinensis Merr
22.Aquilaria apiculata Merr
23.Aquilaria acuminate (Merr) Quis
24.Aquilaria yunnanensis S.C Huang
3

Mới đây, tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan) vừa
phát hiện loài thứ 25 ở cao nguyên Trung Bộ trong năm 2005 có tên khoa học là
Aquilaria rugosa L.C.Kiet & PJ.A Kessler.
Cây Dó bầu thuộc loài Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte
2.1.1. ĐẶC ĐIỂM PHÂN LOẠI:
Tên thông thường:
Tùy theo mỗi quốc gia mà Trầm hương có tên khác nhau:
- Trung Quốc: Tuchenxiang (Tiếng phổ thông: Ch'en Hsiang).
- Pháp: Bois d'aigle, Bois d'aloes, Calambac, Calambour

- Anh: Agarwood hay Aloes wood, Malayan eaglewood
- Đức: Adlerhoiz.
- Hy Lạp: Agallochon.
- Ả Rập: Aghaluhy.
- Malaysia: Garu
- Campuchia: Kalampeahk chan, Crassna, KresnaKlampèoh.
-
Hình 2.1: Vườn cây Dó bầu được 5 tuổi
- Việt Nam: Cây Trầm hương, Dó bầu, Dó trầm, Cây Tóc…
-Indonesia: Gaharu, Tengkaras, Mengkaras
4

Tại Việt Nam cách gọi tên tiếng Việt cho mỗi loài rất khác nhau giữa các địa
phương. Ở đảo Phú Quốc người ta chia cây Dó ra thành hai loài khác nhau, cây Dó
nghệ gỗ có màu vàng nhạt và hơi cứng còn cây Dó bầu gỗ màu trắng và mềm. Ở các
tỉnh Miền Trung thì chia cây Dó ra 4 loài: Dó bầu hương, Dó mẹ, Dó dây và Dó bầu
thường. Ngoài ra, ở một số địa phương khác người ta còn chia cây Dó ra các loài
như: Dó bầu, Dó niệt, Dó mẹ, Dó gạch…Với cách phân chia nêu trên chúng ta khó
xác định được tên khoa học của mỗi loài.
* Mặc dù cách phân loại và đặt tên còn nhiều điểm bất đồng, chưa có khoa học,
nhưng ở Việt Nam hiện nay cây Dó bầu (Tên khoa học: Aquilaria Crassna pierre
ex Lecomte) được nông dân ưa chuộng và nhân giống rộng rãi vì có khả năng cho
Trầm nhiều và chất lượng Trầm tốt nhất.
Dó bầu còn có tên gọi khác dựa vào những sản phẩm của chúng như cây Tóc,
cây Trầm, cây Trầm hương, cây Kì Nam.v.v…Theo Nguyễn Hiền và Võ Văn Chi
(1991) cây Dó bầu chính thức được đặt tên khoa học và công bố dựa vào những mẫu
vật do nhà thực vật học người Pháp là Pierre thu nhập tại Phú Quốc (Việt Nam) và
núi Aral tỉnh Samrongtong (Cambodia) vào tháng 05 năm 1870. Pierre đã dựa vào
tên Cambodia là Karasna để đặt cho cây Dó bầu Aquilaria crassna nhưng nó chỉ là
tên trần chưa có bảng mô tả và việc công bố chưa được chính thức hóa. Sau đó Henri

Lecomte trong bộ sách Thực Vật Chí Đông Dương lần đầu tiên mô tả các loài thuộc
chi Aquilaria ở Đông Dương và công bố chính thức trong thực vật học của Pháp năm
1914 và xếp chi này vào họ Trầm. Phạm Hoàng Hộ (1992) trong công trình gần đây
nhất xác nhận ở Việt Nam, chi Aquilaria thuộc họ Trầm hương có ba loài được định
danh là:
+ Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte: Dó bầu, Trầm; ghi nhận ở Phú
Khánh,Bảo Lộc và Phú Quốc.
+ Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte: Dó baillon; ghi nhận ở rừng dầy ẩm
Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng.
+ Aquilaria banaensae Phạm Hoàng: Dó Bà Na; ghi nhận ở rừng dầy ẩm
Quảng Nam, Đà Nẵng.
5

Và mới đây, tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan)
vừa phát hiện loài thứ tư ở cao nguyên Trung Bộ trong năm 2005 có tên khoa học là
Aquilaria rugosa L.C.Kiet & PJ.A Kessler.
Các tác giả khác như GS. Lê Văn Kí (1993), các tác giả trong quyển “Cây Gỗ
Rừng Việt Nam Tập IV” (1991); “Phân Loại Thực Vật” (Nxb Giáo dục,1972) và
“Danh Mục Thực Vật Tây Nguyên” của đoàn điều tra thực vật (1984) đã ghi nhận
cây Dó bầu với tên khoa học Aquilaria agallocha Roxd. Tuy nhiên, theo Vũ Văn
Chiên (1976) trong “Tóm tắt đặc điểm họ cây thuốc” thì Aquilaria agallocha Roxd
chỉ có ở Ấn Độ không có ở Việt Nam, không ghi nhận trong quyển “Thực Vật Chí
Đông Dương” của Henri Lecomte. Một số công trình nghiên cứu khác “Định danh
Dược thảo và Dược liệu Đông y” của đoàn Dược sĩ Việt Nam (xuất bản ở Sài Gòn,
1973) và “Những cây thuốc vị thuốc Việt Nam” (Nxb.Khoa học và kỹ thuật Hà Nội,
1981) lại cho rằng Aquilaria agallocha Roxd là đồng danh của Aquilaria crassna
Pierre.
2.1.2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CỦA CÂY DÓ BẦU:
Những đặc điểm quan trọng về thực vật học của cây Dó bầu được nhiều tác giả ghi
nhận như sau:

Dó bầu là một loại cây gỗ lớn, tán thưa, cao khoảng 20m (cũng có thể đạt
được 40m). Đường kính ngang ngực 40-50cm (có thể đạt được 80cm). Vỏ mỏng
khoảng 2-4mm, trong vỏ có nhiều sợi dài, bền. Lá đơn, mọc cách, hình ngọn giáo,
dài 6-15cm, rộng 2-3cm, đầu mũi nhọn. Hoa tự hình tán, màu trắng. Quả mang hình
trứng ngược, dài 3-5cm, rộng 2-3cm, có nhiều lông. Khi chín khai thành hai mảnh,
và có từ một đến hai hạt màu đen, có hai phần chính ở phía trên hình nón, phần kéo
dài ở phía dưới, phần vỏ ngoài cùng hóa gỗ cứng, bên trong mềm có chứa nhiều dầu.
Một đặc điểm cần chú ý là hạt Dó bầu có đời sống rất ngắn. Cho đến nay việc
nhân giống vẫn chủ yếu bằng hạt. Quả sau khi thu hái cần phơi trong bóng mát, chỉ
sau vài ngày, vỏ quả sẽ nứt và hạt rơi ra. Mỗi quả chỉ chứa một hạt, cây có kích
thước trung bình hàng năm chỉ cho chừng 2.000 hạt. Khối lượng trung bình của
1.000 hạt ở loài A. malaccensis nặng khoảng 670 gram. Hạt Trầm mất sức nảy mầm
rất nhanh, do đó cần gieo hạt ngay sau khi thu hái. Sau khi gieo chừng 10 – 12 ngày,
hạt đã bắt đầu nảy mầm; tuy nhiên thời gian nảy mầm cũng có thể chậm hơn, đôi khi
6

tới trên một tháng. Những thử nghiệm tại Ấn Độ đã cho biết, thời gian bảo quản có
ảnh hưởng lớn đến khả năng nảy mầm của hạt. Gieo hạt ngay sau khi thu hái thì tỷ lệ
nảy mầm đạt khoảng 65%; nếu bảo quản hạt một tuần rồi mới đem gieo thì tỷ lệ nảy
mầm giảm rõ rệt, còn khoảng 45%. Sau ba tuần bảo quản, tỷ lệ hạt nảy mầm chỉ còn
có 5%.
Thời gian ra hoa kết trái: Cây Dó bầu sau khoảng 4-5 năm tuổi thì bắt đầu ra
hoa kết trái, tùy vào điều kiện thời tiết của mỗi vùng mà thời gian ra hoa có khác
nhau. ở Miền Trung Việt Nam cây bắt đầu ra hoa vào tháng 3 và trái chín vào tháng
7 dương lịch. Nhưng ở Miền Nam thời gian ra hoa tháng 2, trái chín tháng 5-tháng 6
dương lịch.
Ở giai đoạn vườn ươm, cây con cần giữ đủ ẩm, cần che bóng và phòng trừ sâu
bệnh. Khi cây mạ đạt 40 – 45 ngày tuổi thì cây đã cao khoảng 3 – 4 cm, có thể đánh
trồng vào bầu đất. Khoảng 10 – 12 tháng tuổi, cây con đã đạt độ cao 30 – 35 cm, lúc
này có thể đưa ra trồng trên diện tích sản xuất. Tại Malaysia, việc trồng cây con

trong bầu với bộ rễ nguyên vẹn đã đạt tỷ lệ sống rất cao.
Tại miền Đông Bắc Ấn Độ, thời vụ trồng Trầm trên diện tích sản xuất thường
vào các tháng 5 – 6 và khoảng cách trung bình giữa các cá thể là 2,5 m x 2,5 m. Các
quần thể Trầm của Malaysia đã được trồng theo khoảng cách 6 m x 2 m.
Thời gian đầu, việc làm cỏ, làm vệ sinh trong các quần thể Trầm là rất cần
thiết. Năm đầu tiên thường phải làm cỏ đến 4 lần; các năm tiếp theo, khi Trầm đã
sinh trưởng tốt thì số lần làm cỏ sẽ giảm dần. Khi Trầm đã đạt 5 – 6 năm tuổi, mỗi
năm chỉ cần làm cỏ một lần. Sau thời kỳ này, việc tỉa thưa dần để tạo điều kiện dinh
dưỡng, độ thông thoáng và ánh sáng cho cả quần thể là hết sức cần thiết. Các quần
thể Trầm tại Malaysia ở giai đoạn 6-7 năm tuổi, mật độ trung bình chỉ có 31 cây/ha.
Trong rừng tự nhiên, để tạo điều kiện cho Trầm phục hồi và sinh trưởng, cần
trồng dặm bổ sung hoặc phát quang loại bỏ dây leo và các cây khác có giá trị kém.
Hiện vẫn chưa có thông tin gì về vấn đề sâu bệnh hại ở Trầm.
2.1.3. ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI:
7

Sự phân bố của Trầm hương trong tự nhiên:
- Trong tự nhiên giống cây Aquilaria, tức cây Trầm hương, phân bố khắp các nước
vùng Châu Á từ Trung - Cận Đông, Nam Á, Trung Quốc cho đến các nước Đông
Nam Á…
- Ở vùng Trung – Cận Đông cây Trầm hương mọc nhiều trên những rặng núi hiểm
trở phía Nam Ả Rập.
- Ở Trung Quốc Trầm hương mọc tập trung ở một số tỉnh Miền Nam, nhiều nhất là
Quảng Đông và Hải Nam, nhưng chất lượng trầm không cao (Thổ Trầm). Vùng này
có 3 loài chính, đó là: Aquilaria grandiflora Bth, Aquilaria sinensis Merr, Aquilaria
yunnanensis S.C. Huang.
- Ở vùng Nam Á cây Trầm hương có nhiều ở Ấn Độ, chủ yếu là loài Aquilaria
khasiana H. Hallier.
- Vùng Đông Nam Á bao gồm các quốc gia:
+ Malaysia: Có 4 loài: Aquilaria beccariana van Tiegh, Aquilaria microcarpa Baill,

Aquilaria hirta Ridl và Aquilaria rostrata Ridl.
+ Thái Lan: Chủ yếu là loài Aquilaria subintegra Ding Hou.
+ Indonesia (Tập trung chủ yếu ở đảo Sumatra) Có 4 loài: Aquilaria beccariana van
Tiegh, Aquilaria hirta Ridl, Aquilaria microcarpa Baill, Aquilaria moszkowskii Gilg.
+ Philippin: Bao gồm các loài: Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl, Aquilaria filaria
(Oken) Merr, Aquilaria apiculata Merr, Aquilaria acuminate (Merr.)Quis.
+ Singarpore: Chủ yếu là loài Aquilaria hirta Ridl.
+ Campuchia, Trầm hương thường mọc phân tán trong các khu rừng nằm ven biển,
có 2 loài chính là: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte, Aquilaria baillonii Pierre ex
Lecomte.
+ Việt Nam Trầm hương có tất cả 4 loài, đó là: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte,
Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte, Aquilaria banaense Pham-hoang-Ho và loài
Aquilaria rugosa L.C.Kiệt & PJ.A Kessler (do tiến sĩ Lê Công Kiệt (Việt Nam) và
tiến sĩ Paul Kessler (Hà Lan) tìm thấy ở cao nguyên Trung Bộ). Đây là loài thứ 4 ở
Việt Nam và thứ 25 trên thế giới.
Ở Việt Nam cây Trầm hương phân bố tại các địa bàn như:
+ Phía Bắc: Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng Ninh, Cao Bằng,
8

Lạng Sơn, Hà Bắc.
+ Miền Trung: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Bình Thuận, Khánh Hòa.
+ Tây Nguyên: Gia Lai, Kontum, ĐăLăk, Lâm Đồng.
+ Miền Nam: Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Đảo Phú
Quốc.Đặc biệt thấy nhiều trên suốt chiều dài của dãy Trường Sơn, song do sự khai
thác bừa bãi của dân, đến nay chỉ còn thấy cây Dó bầu ở những vùng xa xôi, đầu
nguồn rừng già.
Trong những năm gần đây, một số tác giả đã đề cập rải rác trong nhiều báo
cáo nghiên cứu các vấn đề sinh thái và phân bố của cây Dó bầu (Vũ Văn Cầu và Vũ
Văn Dũng, 1987). GS.Lê Văn Ký cho biết Dó bầu phân bố ở nhiều nơi trên lãnh thổ

Việt Nam, và nhiều nước Châu Á nhiệt đới khác như Lào, Cambodia, Ấn Độ v.v…Ở
Việt Nam cây Dó bầu mọc rải rác ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam như: Lạng Sơn,
Hình 2.2: Vườn cây Dó bầu ở Bình Phước
Quảng Ninh, Hà Tuyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, và hầu hết các tỉnh phía Nam. Nhưng tập trung nhiều
nhất là ở các tỉnh Duyên Hải và huyện đảo Phú Quốc.
Trong tự nhiên cây Dó bầu thường mọc trong vùng rừng nhiệt đới ẩm trên địa
hình có độ cao so với mực nước biển từ 300-1000m, nhưng tập trung nhiều nhất ở độ
cao 700m và rất thích hợp ở những nơi có độ dốc từ 25
0
trở lên. Tuy nhiên trong thực
9

tế cây Dó bầu vẫn sinh trưởng tốt ở những nơi có độ cao trên dưới 40m so với mực
nước biển. Nhìn chung, Dó bầu là loài thực vật ưa sáng, mọc rải rác trong các khu
rừng nhiệt đới, mọc ở độ cao 50-1200m. Nơi cao nhất được tìm thấy ở núi Chu Yang
Sinh thuộc tỉnh Đăklăk của Việt Nam. Thường thì cây Dó bầu mọc riêng lẻ nhưng
cũng có khi tìm thấy một nhóm 5-6 cây mọc gần nhau. Theo Lê Mộng Châu (1995),
Dó bầu là cây mọc nhanh, lượng tăng trưởng được ghi nhận là 1-1,2m/năm về chiều
cao, và 1,2-1,5cm/năm về đường kính. Cây được 8 tuổi trở lên có khả năng cho hoa
kết quả. Dưới tán rừng thứ sinh cây Dó bầu tái sinh kém. Thường thì gặp cây Dó bầu
tái sinh ở những khoảng trống trong rừng như bìa rừng ven những con đường mòn …
Ngoài ra thì Dó bầu cũng có khả năng tái sinh bằng chồi rất tốt. Việc nhân giống
bằng phương pháp chiết cành, ghép cành, có tác động của thuốc kích thích cũng
được thực hiện, và phương pháp nuôi cấy mô cũng phổ biến rộng rãi.
2.1.4 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI :
+ Thân cây: Cây dó bầu là một loại cây gỗ lớn, cao khoảng 30-40m, nhưng phổ biến
Hình 2.3: Thân cây Dó bầu

10


nhất là từ 15-25m, đường kính thân khoảng 60cm, vỏ ngoài nhẵn, màu xám, thịt vỏ
màu trắng có nhiều chất xơ (cellulose) và dễ tách ra khỏi thân. Thịt gỗ màu vàng
nhạt, chất gỗ mềm có tỉ trọng 0.395. Cành non phủ lông mềm màu vàng xám.
+ Lá: Lá đơn, mọc cách (so le), có hình bầu dục, hình trứng hay hình ngọn giáo,
nhọn ở gốc thon hẹp ở đầu. Phiến lá mỏng dài 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Mặt trên phiến
lá nhẵn bóng có màu xanh đậm, mặt
dưới nhạt hơn có lông mềm. Cuống lá
dài từ 4-5mm cũng có lông.
+ Hoa: Hoa lưỡng tính, hoa tự hình tán
hay chùm mọc ở nách lá, hoa màu trắng
tro. Đài hoa hình chuông (loa kèn) có
lông ở miệng.
Hình 2.4: Lá và hoa cây Dó bầu
+ Quả: Hình quả lê hơi dẹp, dài 4cm,
rộng 3cm, dày 2cm. Vỏ quả mở thành
hai mảnh xốp (khi chín tự tách ra), mỗi
quả có từ 1-2 hạt.
+ Hạt: Có hai phần, phần chính ở phía
trên hình nón, phần kéo dài ở phía dưới.
Hạt khi chín có màu nâu, phần vỏ ngoài
cùng hóa gỗ cứng, bên trong mềm có
chứa nhiều dầu. Hình 2.5: Quả cây Dó bầu
Một đặc điểm cần chú ý là hạt Dó bầu
có đời sống rất ngắn, không lưu trữ lâu
ngày được. Trong tự nhiên khi hạt chín
và rụng xuống đất nếu gặp điều kiện ẩm
độ thích hợp là nảy mầm ngay. Việc lưu
trữ hạt kéo dài quá một tuần lễ, tỉ lệ nảy
mầm sẽ giảm 80% hoặc không nảy mầm.

11

2.2. KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY DÓ BẦU: Hình
2.6. Quả cây Dó bầu khi chín và hạt
Do hạt Dó bầu có đời sống rất ngắn, không thể lưu trữ lâu ngày được nên hạt chỉ có
vào mùa thu hoạch hạt.
Tùy vào thời tiết khí hậu của từng vùng mà thời điểm thu họach hạt có khác nhau,
nhưng sớm nhất cũng bắt đầu vào tháng 6 dương lịch hàng năm.
Hiện nay hạt Dó bầu rất khan hiếm và giá rất đắt. Việc tìm mua hạt giống về để gieo
ươm gặp một số khó khăn như:
+ Thời gian từ khi thu hoạch đến lúc gieo rất ngắn, chỉ trong vòng 7-10 ngày do đó
công tác bảo quản hạt và khâu chuẩn bị đất gieo sẽ gặp nhiều trở ngại. Khó kiểm soát
được chất lượng hạt giống như tỉ lệ nảy mầm, xuất xứ - nguồn gốc của giống…
Cách tốt nhất là nên mua cây con để trồng. Tuy nhiên nếu muốn nhân giống để bán
cây con với số lượng lớn thì nên tìm mua hạt giống ở những nơi đáng tin cậy và phải
có hướng chuẩn bị thật chu đáo.
2.2.1. GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM:
2.2.1.1 Chọn đất làm vườn ươm cây con:
- Vị trí vườn ươm cây con phải được đặt ở những nơi cao ráo, thoáng mát, kín gió…
- Phải có đủ nguồn nước sạch để tưới và đất phải thoát nước tốt.
- Vườn ươm phải gần đường giao thông để thuận tiện cho việc chuyên chở.
- Đất phải giàu dinh dưỡng, thành phần cơ giới nhẹ (đất cát hoặc cát pha), pH 5-6.
2.2.1.2 Làm đất và thiết kế líp ươm:
- Đất làm vườn ươm cây con phải được cày bừa thật tơi xốp, sâu khoảng 25-30 cm và
sạch cỏ dại.
- Lên líp ươm cao 15-20 cm so với mặt đất, chiều rộng 1m, chiều dài 10m, khoảng
cách giữa 2 líp ươm từ 45-50 cm để tiện việc đi lại và chăm sóc.
- Hệ thống tưới-tiêu, đặc biệt là các mương thoát, phải bố trí một cách hợp lý và khoa
học.
2.2.1.3 Xử lý đất và bón lót phân:

Trước khi gieo hạt 5-7 ngày, líp ươm phải được xử lý thuốc sát trùng và bón phân lót.
- Thuốc sát trùng có thể dùng dung dịch Bordeaux 1% hoặc dung dịch CuSO4 0.5%
tưới điều lên mặt líp.
12

- Phân bón lót gồm: Phân chuồng hoại (10kg/10m
2
/líp), super Lân (300-500
gr/10m
2
/líp). Có thể thay thế super Lân bằng DAP hoặc N-P-K với liều lượng từ 150-
200gr/10m
2
/líp.
** Chú ý:
Phân bón lót phải được nghiền thành bột, rải đều lên mặt líp, sau đó dùng cuốc xới,
để trộn thật đều phân lót và thuốc sát trùng vào lớp đất sâu khoảng 5-7cm. Mặt líp
phải bằng phẳng và tơi nhuyễn, không cỏ dại.
2.2.1.4 Gieo hạt:
Sau khi thu hoạch hạt phải gieo ngay. Nếu chưa gieo, phải bảo quản hạt trong cát
ẩm theo tỉ lệ 2 phần cát một phần hạt (tính theo thể tích), để nơi thoáng mát, thường
xuyên đảo hạt (tối thiểu 3 lần/ngày) và luôn giữ ẩm cho cát. Cách bảo quản này chỉ
kéo dài trong khoảng từ 7-10 ngày, nếu kéo dài hơn thì tỉ lệ nảy mầm sẻ giảm.
Trước khi gieo nên xử lý hạt giống bằng cách ngâm hạt 3-4 giờ trong dung dịch
thuốc tím có nồng độ 0,1%, sau đó rửa lại bằng nước sạch, nhặt hết hạt lép, thối rồi
đem gieo.
Rải hạt đều trên mặt líp, hạt cách hạt khoảng 2cm (mật độ 200-250gr hạt/m
2
). Sau
khi gieo rải một lớp cát dày 1cm để lấp hạt.

Trung bình 1kg hạt gieo được 4.500 - 6.000 cây con.
2.2.1.5 Làm giàn che cây con:
Tùy theo vật liệu sẵn có tại địa phương như rơm rạ, lá dừa …mà làm mái che cho
vườn ươm cây con, nhưng phải bảo đảm độ che phủ từ 60 – 70% và chủ động được
việc điều chỉnh ánh sáng khi cần thiết.
2.2.1.6 Tưới nước giữ ẩm sau gieo:
Luôn luôn giữ ẩm cho mặt líp để hạt nảy mầm và cây con phát triển tốt trong suốt
giai đoạn vườn ươm.
Khoảng 15 ngày sau gieo hạt bắt đầu nảy mầm. Sau gieo khoảng 30 – 40 ngày, cây
con cao 6 – 8 cm có 2 – 4 lá là nhổ cây cấy vào bầu.
2.2.2. GIAI ĐOẠN VƯỜN BẦU:
13

2.2.2.1 Vỏ bầu:
Sử dụng bao nylon kích cỡ tối thiểu 9cm x 14cm để làm bầu đất cho cây con và phải
đục lỗ để thoát nước. Không nên sử dụng vỏ bầu quá nhỏ có thể ảnh hưởng đến quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây con. Ngược lại, nếu vỏ bầu quá lớn sẽ tăng giá
thành cây con cũng như khi vận chuyển sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.2.2.2 Xử lý đất vô bầu (Ruột bầu):
Nên chọn những nơi có lớp đất mặt tơi xốp và giàu dinh dưỡng để làm đất bầu cây
con. Trước tiên cần xới xáo đất cho thật tơi xốp, sau đó trộn đều 10-14% phân
chuồng hoai, 1% super Lân (tính theo thể tích đất) và thuốc sát trùng như dung dịch
bordeaux 1% hoặc CuSO
4
0.5%. Cần chú ý là càng trộn đều phân bón vào đất bầu
càng tốt. Một số nơi còn dùng hỗn hợp tro trấu với xơ dừa để làm đất bầu.
2.2.2.3 Thiết kế luống bầu:
- Luống bầu được thiết kế giống như líp ươm, chiều cao mặt luống so với mặt đất
khoảng 15-20cm, ngang 1m, dài 10m, khoảng cách giữa 2 luống từ 45 – 50cm để tiện
lợi cho việc đi lại chăm sóc. Trải PE lên mặt líp sau đó lấp một lớp đất dày từ 1-3cm

với mục đích là ngăn không cho rễ cây con ăn sâu vào trong đất, tránh làm đứt rễ khi
di dời bầu hoặc vận chuyển bầu ra trồng.
- Lượng đất vô bầu vừa phải không nên nén chặt.
- Bầu đất phải được đặt ngay ngắn theo từng hàng.
- Khoảng cách giữa các bầu tối thiểu 1cm.
- Xung quanh vườn bầu phải vét các mương thoát nước.
- Giàn che vườn bầu cũng giống như ở vườn ươm, tức là phải đảm bảo độ che phủ từ
50-60% và phải chủ động điều chỉnh ánh sáng khi cần thiết. Sau 8 tuần lễ kể từ khi
cấy bầu tiến hành gỡ dần giàn che để huấn luyện cây con.
14

2.2.2.4 Cấy cây con vào bầu:
Trước khi cấy phải tưới nước cho bầu đất đủ ẩm. Đặt cây con phải ở giữa bầu đất,
thân cây phải thẳng, rễ phải tiếp xúc với đất bầu. Không được cấy quá sâu hoặc quá
cạn.
Hình 2.7: Cây Dó bầu trong vườn ươm
2.2.2.5 Tưới nước:
Thường xuyên kiểm tra và tưới nước giữ ẩm cho vườn bầu. Tùy vào điều kiện thời
tiết, tuổi cây con mà ta điều chỉnh lượng nước tưới cho thích hợp.
2.2.2.6 Làm cỏ và bón thúc:
Kết hợp nhổ cỏ, phá váng và bón phân cho cây con. Phân bón thúc có thể dùng DAP
hoặc NPK với liều lượng 1kg/200 lít nước (0.5%), tưới đều lên luống bầu ( 50 gr/10
lít nước/ 10 m
2
)
2.2.2.7 Đảo bầu và thay bầu:
Giai đoạn cây con ở trong vườn bầu khá lâu, từ 6 tháng trở lên, nếu kích cỡ bầu đất
quá nhỏ không đủ dinh dưỡng để cung cấp cho cây ở giai đoạn tiếp theo thì nên
chuyển cây vào bầu lớn hơn.
Thông thường, trong quần thể cây con không có sự đồng đều về chiều cao cây, do đó

khi tiến hành đảo bầu nên chọn cây nhỏ để riêng. Bằng cách này, chúng ta dễ chăm
sóc và tạo cho vườn cây đồng đều hơn. Chú ý khi đảo bầu, nên đặt khoảng cách giữa
các bầu thưa hơn lúc đầu, vì mật độ quá dày cây sẽ mọc vóng, nghĩa là thân cây cao
15

nhưng đường kính thân nhỏ và ít rễ, khi đem ra trồng cây con kém thích nghi với
điều kiện ngoại cảnh. Để tiết kiệm công lao động ta nên kết hợp việc đảo bầu với làm
cỏ và phá váng cho cây bầu.
2.2.2.8 Phòng trừ sâu bệnh:
Đối với bệnh hại, vào mùa mưa cây con thường bị một số loại bệnh như thối đen
thân, lở cổ rễ…Có thể dùng thuốc BAYPHYZAN liều lượng 3 – 4 ml/8 lít nước phun
đều, mỗi lần phun cách nhau 15 – 20 ngày.
Đối với sâu cắn lá có thể bắt bằng tay kết hợp với phun thuốc theo định kỳ 20-30
ngày/lần.
16

2.2.3. GIAI ĐOẠN TRỒNG QUY MÔ LỚN:
2.2.3.1. Đất trồng:
Cây Dó bầu thích hợp trên nhiều loại đất khác nhau, trừ đất bị ngập úng, đất đá vôi
hoặc đất bị nhiễm phèn nhiễm mặn. Tuy nhiên, trước khi trồng nên chọn đất có các
điều kiện như sau:
- Đất trồng phải giàu dinh dưỡng, tầng đất mặt dày 30–50cm, pH đất 5–6
- Đất phải thoát nước tốt vào mùa mưa và đủ nước tưới vào mùa nắng (cho 2-3 năm
đầu).
- Đất trồng phải gần đường giao thông để thuận tiện cho vận chuyển và chăm sóc.
2.2.3.2. Thời vụ trồng:
Thời điểm để trồng cây Dó bầu thích hợp nhất là vào đầu mùa mưa khi mật độ mưa
tương đối đồng đều và đất đã đủ ẩm. Nên chọn những ngày có mưa nhỏ liên tục và
thời tiết râm mát để trồng.
Không nên trồng quá muộn (giữa mùa mưa hoặc cuối mùa mưa), vào thời điểm này

trong năm ẩm độ đất rất thích hợp để cây con phục hồi và phát triển nhưng do quá
cận với mùa nắng, cây con chưa đủ sức để chống chịu với điều kiện khô hạn kéo dài
trong suốt mùa nắng.
2.2.3.3. Yếu tố khí hậu:
a/ Ánh sáng: Cây Dó bầu khi còn nhỏ rất thích hợp trong điều kiện râm mát. Ở giai
đoạn vườn ươm, từ lúc nảy mầm đến 6 tháng tuổi cây con cần được che phủ ánh sáng
từ 60-70%. Ở giai đoạn từ khi bắt đầu trồng đến khi cây được 2-3 năm tuổi, nếu được
che bóng cây sẽ sinh trưởng và phát triển rất nhanh.
b/ Nhiệt độ: Cây Dó bầu có thể sinh trưởng và phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ từ
15
0
-30
0
C nhưng thích hợp nhất là từ 22
0
C-29
0
C.
c/ Ẩm độ: Cây Dó bầu là loài cây ưa ẩm nhưng không chịu ngập úng. Ẩm độ thích
hợp để cho cây phát triển là vào khoảng 80%. Khi còn nhỏ, khả năng chịu hạn của
cây rất kém, nếu thiếu ẩm cây sẽ ngừng sinh trưởng hoặc chết. Việc duy trì ẩm độ
cho cây vào mùa nắng là vô cùng quan trọng, nhất là cây ở giai đoạn 2-3 tuổi. Khi
cây đã lớn, việc tưới nước cho cây là không cần thiết do bộ rễ đã ăn sâu vào trong đất
để hấp thụ lượng nước sẵn có trong tự nhiên.
d/ Lượng mưa: Khí hậu ở Việt Nam chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa chỉ tập trung
trong khoảng 6 tháng nhưng quyết định lượng nước cung cấp cho cây trong cả năm.
17

CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ TRẦM HƯƠNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP CẤY TẠO TRẦM

3.1.ĐẶC TÍNH VÀ CÔNG DỤNG CỦA TRẦM HƯƠNG:
3.1.1. TRẦM VÀ SỰ TẠO TRẦM:
Mặc dầu số lượng cá thể các loài Aquilaria spp cũng như nguồn cung cấp đã
bị cạn kiệt, nhưng nhu cầu về Trầm hương trong nền thương mại thế giới lại gia tăng
đáng kể. Hiện nay các nước tiêu thụ Trầm hương mạnh là Trung Cận Đông và Châu
Á, và ngay cả ở Mỹ và Châu Âu (TRP, 1997).
Theo Vũ Văn Cần và Vũ Văn Dũng (1978) có thể phân loại nguồn gốc hai loại
Trầm sinh (Trầm lấy từ cây sống) và Trầm rục (Trầm lấy từ cây đốn hay cây chết đổ
lâu ngày). Trầm sinh từ cây còn sống
thường có hai màu sáng. Ngược lại Trầm
rục thì thường có màu cánh dán, hay đen
xỉ. Thường người ta lấy Trầm rục từ gốc
hoặc rễ. Giá Trầm sinh thường cao hơn
Trầm rục từ 2-3 lần và trên mỗi cây có
Trầm có thể thu hoạch được từ 5-10kg
Trầm. Ngoài ra phần xung quanh khối
Trầm Kỳ cũng bị biến đổi ít nhiều với sự Hình 3.1: Trầm hương
xuất hiện của các chỉ Trầm xen kẽ với gỗ thường gọi là Tóc trong tiếng Khmer. Tóc
khi cháy cho mùi hương thơm và được dùng làm Nhang Trầm. Theo Phillips (1997),
các dạng Trầm và sản phẩm của Trầm được ghi nhận trên thị trường là: Trầm mảnh,
Trầm bóng, Trầm vụn và bột Trầm, Trầm bánh, tinh dầu Trầm (dùng làm hương liệu
và dược liệu). Việc phân tích Trầm và tinh dầu Trầm đã được Erhartdt, Lê Công
Thuân và Hopwood (1997) thực hiện bằng phương pháp sắc ký khí kết hợp với khối
phổ (Gas Chromatography/Mass Spectrometry). Ghi nhận có hai sesquiterpen tồn tại
phổ biến trong gỗ cũng như trong tinh dầu, đó là(+)-Aromadendrene và -Selinene.
Tuy nhiên, slinene không xuất hiện trong mẫu Trầm chất lượng thấp. Ngoài ra,
Guaiene, một Sesquiterpene khác có trong mẫu gỗ Trầm tự nhiên nhưng chỉ gặp
trong mẫu tinh dầu, trong khi Guriunene, một đồng phân của Aromadendrene có
nhiều trong các mẫu tinh dầu nhưng không thấy trong mẫu gỗ tự nhiên.
18


Cho đến năm 2004 có một vài công trình nghiên cứu về sự tạo Trầm, tuy
nhiên, việc vận dụng các hiểu biết một cách chắc chắn về cơ chế tạo Trầm để sản
xuất Trầm một cách bền vững vẫn đang là thử thách đối với các nhà khoa học. Lý do
là cho đến nay, chưa có thực nghiệm hoàn chỉnh nào, mặc dù có rải rác vài công trình
đã được tiến hành trên những cây Dó bầu còn non trồng trong môi trường được kiểm
soát. Theo Phạm Hoàng Hộ (1985) Dó bầu có Trầm là cây Dó bầu bị bệnh. Nguồn
gốc bị bệnh đó chỉ mới được biết trong những năm gần đây. Khảo sát của Julaluddin
(1977) cho rằng vùng Tóc Trầm chứa một loại nấm được xác định là Cryptosphaeria
mangifera. Ông đã xác định bằng cách cho những cây Dó bầu lành mạnh nhiễm nấm.
Sau một thời gian, vùng bị nhiễm trở nên sẫm màu và trở thành Tóc rõ rệt và khi đốt
cũng tỏa mùi Trầm rõ rệt. Tuy nhiên đó chỉ là những tín hiệu bước đầu của sự hình
thành Trầm. Việc nghiên cứu này còn quá ngắn để đến giai đoạn Trầm Kỳ. Đến nay
đã xác định được nấm Cytosphaera mangiferae có ở Trầm của loài A. malaccensis và
nấm Melanotus flavolives chứa trong khối Trầm từ loài A. sinensis.
Trầm có thể xuất hiện trên cây Dó bầu đã to hay còn nhỏ. Trong thực tế, có
nhiều cây Dó bầu đã to, với đường kính 50-60cm đã có Trầm. Ngược lại, có những
cây Dó bầu đường kính mới chỉ có 15cm đã có Trầm. Các thí nghiệm gần đây cho
thấy có thể kích thích tạo Trầm ở những cây Dó bầu trồng ở 4-5 năm tuổi. Tuy nhiên,
trên những cây Dó bầu to, già cỗi Trầm xuất hiện nhiều hơn. Theo kinh nghiệm dân
gian, có thể phân biệt cây đã có Trầm qua một số đặc điểm hình thái của cây và điều
kiện hoàn cảnh nơi mọc như sau:
Cây đã lớn đường kính trên 20cm.
Thân cành có u bướu, cây nhiều mắt, cây bị bệnh hoặc bị thương.
Lá cằn cỗi, màu xanh vàng.
Vỏ khó bóc hơn những cây bình thường.
Gỗ màu vàng.
Cây mọc trên đất xấu nhiều sỏi đá.
Trong cây Trầm hương xuất hiện ở ba nơi: rễ, gốc, đoạn thân, cành ở độ cao
trên 60cm so với mặt đất rất hiếm khi có Trầm hương. Phần nhiều Trầm hương nằm

nhiều ở quanh gốc, nhất là ở rễ. Chính vì thế, khi tìm Trầm hương, rễ mọc tới đâu
phải đào tới đó. Người tìm Trầm không sợ bị rắn rết cắn vì họ tin rằng khi có Trầm
19

thì rắn rết đã bị đuổi đi hết. Ở Ba Rền (Bình Trị Thiên) đôi khi người ta chặt cành để
cho Trầm hình thành thấp.
Gần đây, nhóm nghiên cứu Rừng Mưa Nhiệt Đới Châu Âu kết hợp với trường
Đại Học Khoa Học Tự Nhiên và hai tỉnh Kiên Giang và An Giang đã tiến hành một
chương trình nghiên cứu nhằm gây tạo Trầm hương trên cây Dó bầu trồng từ hạt ở
Phú Quốc.
Huỳnh Văn Mỹ (1997) cho biết ở Tiên Phước (Quảng Nam), nông dân đã đã
tự nghiên cứu xử lý kỹ thuật tạo Trầm trên cây Dó bầu từ 10 năm tuổi trở lên kết
Trầm theo ý muốn. Đây là một trong những vấn đề mà các nhà khoa học cần nghiên
cứu, tổng kết, đánh giá và nhân rộng.
3.1.2. TÍNH CHẤT CỦA TRẦM HƯƠNG:
Bảng 3.1. Tính chất của Trầm hương và Kỳ nam
**Thành phần hóa học có trong trầm hương:
Loại Trầm Hương tốt sản xuất từ cây Dó Bầu có thành phần tan trong cồn lên tới 40-
50%, sau khi xà phòng hóa bằng KOH rồi cất hơi nước sẽ được khoảng 13% tinh
dầu. Trong tinh dầu, thành phần chủ yếu là Benzylacetone (C
2
H
5
-CH2COCH3) 26%,
Methoxybenzylacetone 53% và Terpene alcohol 11%. Ngoài ra còn có cinamic acid
và các dẫn xuất của nó (acid B-fenilacrilic, C
6
H
5
CH-CHCOOH).

20
Kỳ nam Trầm hương
-Chất nhẹ, mềm, dẻo và nhuyễn. Khi nếm
có đủ vị chua, cay, ngọt, đắng.
- Có 4 màu chính: trắng ngà, xanh xám,
vàng và đen chàm.
- Cho nhiều dầu, khi đốt lên rất thơm và
có khói xanh. Khói Kỳ bay thẳng lên
không trung và dài.
- Chất nặng, vị đắng, màu mun hoặc
đỏ, dễ cháy.
- Cho ít dầu, khi đốt khói Trầm có
màu trắng, bay vòng quanh rồi tan
ngay.
Có 4 thứ chính: Bạch Kỳ, Thanh Kỳ,
Huỳnh Kỳ và Hắc Kỳ (trong đó Bạch Kỳ
là quý nhất)
- Có 4 thứ chính: Trầm mắt kiến,
Trầm rễ, Trầm mắt tử và Trầm tóc.

Năm 1960, Sadgopal đã nghiên cứu hàm lượng tinh dầu chứa trong mẫu cây
khác nhau có độ tuổi từ 10 – 80 năm tuổi bằng phương pháp chưng cất hơi nước, và
kết quả hàm lượng tinh dầu thu được là vào khoảng từ 0,1% – 1,2%.
Năm 1963, Maheshwari nghiên cứu việc tách phân đoạn ở nhiệt độ thấp tinh
dầu Trầm hương, mà trước đây đã được thực hiện bằng việc trích bằng dung môi ở
nhiệt độ phòng từ một số loại gỗ đã bị nhiễm nấm có nguồn gốc từ Ấn Độ. Sau đó,
kết hợp giữa sắc ký khí và sắc ký cột, nhóm nghiên cứu này đã kết luận rằng họ đã
tổng hợp được ba hợp chất furanosesquiterpen mới, thuộc nhóm selinan.
Ngoài ra vào năm 1984, nhóm nghiên cứu của Nakanishi đã thực hiện việc so
sánh thành phần hóa học của 2 loại tinh dầu trầm hương: Aquilaria agallocha Roxb.

(nguồn gốc tại Việt Nam); Aquilaria malaccensis (nguồn gốc từ Indonesia) bằng
phương pháp GC/MS (Gas Chromatography/ Mass spectrometry), thu được kết quả
như sau:
Bảng 3.2: Bảng so sánh Trầm hương của nhóm nghiên cứu Nakanishi
Hợp chất
Thành phần %
Aquilaria agallocha Roxb. Aquilaria malaccensis
b-Agarofuran 0,6 -
a-Agarofuran - 1,3
Nor-cetoagarofuran 0,6 -
10-Epi-g-eudesmol - 6,2
Agarospirol 4,7 -
Jinkohol - 5,2
Jinkohol-eremol 4,0 3,7
Kusunol 2,9 3,4
Dihidrokaranon 2,4 -
Jinkohol II 2,4 -
Oxo-agarospirol - 5,6

Vào năm 1993, nhóm nghiên cứu của Ishihara đã tiến hành chưng cất thử một
mẫu gỗ Trầm hương lấy từ Ấn Độ và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.3. Bảng thành phần hóa học của nhóm nghiên cứu Ishihara
STT Công thức hóa học Thành
phần %
21

1
2-(2-(4 methoxyphenyl)ethyl)chromone 27.0
2 2-(2-phenylethyl)chromone 15.5
3 Oxoagarospiro 5.0

4 9,11-eremophiladien-8-one 3.0
5 6-methoxy-2(2-(4-methoxyphenyl)ethyl)chormone 2.5
6 Guaia-1(10),11-dien-15-oic acid 1.5
7 Selina-3,11-dien-ol 1.5
8 Kusonol 1.4
9 Selina-2,11-dien-14-ol 1.0
10 Acid Guaia-1(10), 11-dien-15-oic acid 1.0
11 Selina-3,11-dien-9-one 0.8
12 Jinko-eremol 00.7 selina-4,11-dien-14-al 0.7
13 Dihydrokaranone 0.7
14 Selina-3,11-dien-14-al 0.6
15 2-hydroxyguaia-1(10),11-dien-15-oic acid 0.4
16 B-agarfuran 0.4
17 Guaia-1(10),11-dien-15-ol 0.3
18 Guaia-1(10),11-dien-15,2-olide 0.3
19 Selina-3,11-dien-14-oic acid 0.3
20 Norketoagarfuran 0.2
21 Agarspirol 0.2
22 Sinenofuranol 0.2
23 Selina-4,11-dien-14-oic acid 0.2
24 9-hydroxyselina-4,11-dien-14-oic acid 0.2
25 Dehydrojinkoh-eremol 00.1 rotundone 0.2
26 A-bulnesene 0.1
27 Karanone 0.1
28 A-guaiene 0.1
29 Bulnesene oxide 0.1
30 Guaia-1(10),11-dien-9-one 0.1
31 1,5-epoxy-norketoguaiene 0.1
32 Rotundon 0,1
33 Oxid bulnesen 0,1

Tổng 65.4
Sau đó nhóm nghiên cứu này so sánh thành phần hóa học của bốn loại tinh
dầu được trích ra từ 4 loại gỗ Trầm hương thu từ các nguồn khác nhau trên lãnh thổ
Việt Nam, tất cả các mẫu tinh dầu thu được khi được phân tích bằng phổ GC/MS đều
cho thấy chúng có chứa rất nhiều các sesquiterpen và chromon và được trình bày
trong bảng dưới đây:
22

Bảng 3.4. Bảng so sánh thành phần hóa học của nhóm nghiên cứu Ishhara từ 4
loại gỗ Trầm tại Việt Nam
STT Hợp chất Thành phần %
I II III IV
01 a-Guaien 0,1 0,1 <0,05 -
02 b-Agarofuran 0,3 0,2 0,1 0,8
03 a-Bulnesen 0,2 0,2 <0,05 -
04 Nor-cetoagarofuran 0,1 0,1 0,1 0,4
05 1,10-Epoxi bulnesen 0,1 <0,05 - -
06 1,5-Epoxi-nor-cetoguaien 0,1 <0,05 - -
07 Agarospirol <0,05 <0,05 0,1 0,7
08 Jinkoh-eremol 0,4 0,7 0,8 1,0
09 Kusunol 1,7 1,0 1,0 1,8
10 Dehidrojinkoh-eremol <0,05 <0,05 0,1 0,3
11 Selina-3,11-dien-9-on 0,9 2,1 0,2 -
12 Routundon 0,2 0,1 - -
13 Selina-3,11-dien-14-al 1,2 2,8 0,4 -
14 9,11-Eremophiladien-8-on 0,7 0,6 0,8 0,4
15 Selina-3,11-dien-14-ol 1,1 1,2 0,3 8,1
16 Guaia-1(10),11-dien-9-on 1,2 1,5 0,4 <0,05
17 Selina-4,11-dien-14-al 0,1 <0,05 - -
18 Guaia-1(10),11-dien-15-ol 0,8 0,6 0,4 0,2

19 Sinenofuranol 0,6 1,2 - -
20 Dihidrokaranon - - 0,2 0,8
21 Guaia-1(10),11-dien-15-al 1,0 0,7 0,2 2,6
22 Karanon 3,4 2,5 0,4 -
23 Oxo-agarospirol 0,1 0,1 <0,05 0,3
24 Guaia-1(10),11-dien-15,2-olide 1,6 1,4 5,3 11,6
25 Acid selina-4,11-dien-14-oic 0,5 0,5 0,2 -
26 Acid selina-3,11-dien-14-oic 0,6 - - -
27 Acid guaia-1(10),11-dien-15-oic 0,9 0,2 - -
28 Acid 2-hidroxiguaia-1(10),11-
dien-15-oic
4,7 <0,05 - -
29 Acid 9-hidroxiselina-4,11-dien-
14-oic
1,8 0,3 - -
30 2-(2-Pheniletil) chromon 0,8 <0,05 - -
31 2-(2-(4-Metoxiphenil)etil)
chromon
16,1 17,2 23,6 0,3
32 6-Metoxi-2(2-(4-
metoxiphenil)etil) chromon
21,2 24,5 33,0 0,7
33 Selina-3,11-dien-9-ol 2,0 3,2 3,7 0,3
23

I = Kanankoh (Ryoku-yu) ex. VietNam (A. agallocha)
II = Kanankoh (Cha-yu) ex. VietNam (A. agallocha)
III = Kanankoh (Murasaki) ex. VietNam (A. agallocha)
IV = Jinkoh (Bateikei) ex. VietNam (A. sinensis)
Hàm lượng các chất dễ bay hơi từ mỗi mẫu tinh dầu thu được ở trên là: – mẫu

I (41%), – mẫu II (45%), – mẫu III (34%), – mẫu IV (2,7%). Hàm lượng các chất
không bay hơi (bao gồm các dẫn xuất của chromon) của các mẫu I – III từ 57,3–
70,5%, còn trong mẫu IV thì chỉ vào khoảng 14,8%.
Ngoài ra, thành phần chính của các mẫu cây từ I – III còn được chia làm 2 nhóm như
sau:
- Thành phần sesquiterpen chính của các mẫu tinh dầu I và II là: guaia-1(10)-dien15-
al; guaia-1(10),11-dien-15,2-olide; selina-3,11-dien-9-on; và selina-3,11-dien-9-ol.
- Thành phần sesquiterpen chính của mẫu tinh dầu III là oxo-agarospirol.
Không những thế, nhóm nghiên cứu này còn tiến hành việc so sánh thành
phần hóa học của các mẫu cây khi bị đốt cháy, bằng cách đốt các mẫu cây thu được
(mẫu I và IV) trong một hệ thống kính, nhiệt độ đốt cháy khoảng 180–210
o
C. Thu
lấy hơi khói bằng cách trích với diethyl eter, đem phân tích bằng máy GC/MS, thu
được kết quả như sau:
Bảng 3.5. Bảng so sánh thành phần hóa học khi đốt cháy mẫu I, IV của nhóm
nghiên cứu Ishihara
STT Hợp chất
Thành phần %
Kanankoh
(Ryoku-ku)
Jinkoh
(Bateikei)
01 Acid acetic 3,97 2,76
02 Acid propionic 0,14 0,18
03 Toluen 0,12 0,19
04 Furfural 0,72 2,79
05 Alcol furfuryl 0,32 0,11
06 Anisole <0,05 0,26
07 Benzaldehid 0,57 3,53

08 Phenol 0,29 0,98
24

09 p-Metilanisole <0,05 1,47
10 Acetophenon <0,05 0,37
11 Guaiacol 0,21 1,02
12 p-Metoxiphenol <0,05 0,79
13 p-Vinilphenol <0,05 1,22
14 Benzilaceton 0,24 2,36
15 Anisaldehid 0,26 3,29
16 p-Vinilguaiacol 0,20 0,46
17 3,4-Dimetoxiphenol 0,42 2,72
18 Vanilin 0,38 0,56
19 a-Guaien <0,05 -
20 p-Metoxibenzilaceton 0,16 2,37
21 b-Agarofuran 1,36 2,75
22 a-Bulnesen 0,33 -
23 Nor-cetoagarofuran 0,25 0,97
24 4-Hidroxi-3,5-dimetoxibenzaldehid - 1,02
25 Agarospirol 0,13 <0,05
26 4-(4-Hidroxi-3-metoxiphenil)-2-butanon - 1,88
27 Jinkoh-eremol 1,02 <0,05
28 Kusunol 3,00 0,93
29 Dehidrojinkoh-eremol <0,05 <0,05
30 Selina-3,11-dien-9-on 1,99 -
31 Selina-3,11-dien-9-ol 1,78 -
32 Selina-3,11-dien-14-al 0,31 1,40
33 9,11-Eremophiladien-8-on 0,31 2,67
34 Selina-3,11-dien-14-ol 0,64 0,50
35 Selina-4,11-dien-14-al 0,41 0,39

36 Guaia-1(10),11-dien-15-ol 0,65 -
37 Sinenofuranol - 0,37
38 Dihidrokaranon 1,37 4,73
39 Guaia-1(10),11-dien-15-al 2,30 -
40 Karanon Vết 1,36
41 Oxo-agarospirol 4,54 3,04
42 Guaia-1(10),11-dien-15,2-olide 1,68 -
43 Acid selina-4,11-dien-14-oic 1,32 -
44 Acid selina-3,11-dien-14-oic 1,02 -
45 Acid guaia-1(10),11-dien-15-oic 9,92 -
46 Acid palmitic 1,42 -
47 Acid 2-hidroxiguaia-1(10),11-dien-15-oic 4,23 -
48 Acid 9-hidroxiselina-4,11-dien-14-oic 2,33 -
49 Acid linoleic 0,46 -
50 Acid oleic 0,87 -
51 Acid stearic 0,35 -
52 2-(2-Pheniletil) chromon 5,83 0,28
53 2-(2-(4-metoxiphenil)etil) chromon 1,59 -
25

×